Ngô Thị Kim Cúc
Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh đã rời bỏ cuộc sống vào lúc 20 giờ 30 ngày 19.11.2023 (7 tháng 10 năm Quý Mão), thượng thọ 93 tuổi.
Cuộc đời ông phần lớn dành cho công việc giáo dục, với những trọng trách và tư tưởng đổi mới khá sớm. Sự nghiệp giáo dục của ông đã được ghi nhận bởi nhiều thế hệ học trò, trong đó có những người tiếp tục là trụ cột cho việc khai mở giáo dục trên cả nước.
Sinh năm 1931 tại làng Giáng La – Điện Thọ, huyện Điện Bàn – Quảng Nam trong một gia đình có truyền thống Nho học, năm 1955, ông sang Liên Xô du học tại Đại học Tổng hợp Lomonosov – Moskva.
Năm 1963, sau khi bảo vệ luận án Phó tiến sĩ, ông về nước, công tác tại Khoa Văn – Đại học Sư phạm Hà Nội, Chủ nhiệm Bộ môn Lý luận văn học.
Năm 1975, ông chuyển vào Nam, làm Trưởng Ban Phụ trách Viện Đại học Huế (1975-1977), rồi Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Huế (1977-1981).
Sau đó, ông được điều ra Hà Nội: làm Phó Trưởng Ban Văn hóa – Văn nghệ Trung ương (1981-1983, 1987-1990), rồi Thứ trưởng Bộ Giáo dục (1983-1987).
Ông được phong học hàm Giáo sư 1984.
Từ năm 1990, ông là chuyên gia cao cấp Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tại Phân viện Khoa học Xã hội Việt Nam TP Hồ Chí Minh, tiếp tục nghiên cứu giảng dạy rồi nghỉ hưu tại TP. Hồ Chí Minh.
Là một nhà giáo, phản ứng của ông với thời cuộc khá ôn hòa nhưng không hề thỏa hiệp. Vào thời điểm đất nước bắt đầu đổi mới, ông đã xin thôi làm Hiệu trưởng Đại học Sư Phạm Huế để về làm Phó cho Tướng Trần Độ khi ông Độ trở thành Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ trung ương năm 1981.
Ghi nhận sâu sắc nhứt về nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hạnh là trong Đại hội Nhà văn Việt Nam lần IV năm 1989, đại-hội-đổi-mới của giới nhà văn.
Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ Trần Độ đã không tham gia đại hội, giao bài phát biểu của mình cho Phó ban Nguyễn Văn Hạnh đọc thay.
Nghe thì tưởng như chuyện-bình-thường nhưng ai có mặt trong đại hội IV Hội Nhà văn Việt Nam mới thấy việc Phó Ban Nguyễn Văn Hạnh làm thay Trưởng Ban Trần Độ là rất dũng cảm, bởi chắc chắn sẽ phải nhận rất nhiều tên+đạn từ phe chống-đổi-mới.
Xin đăng lại ĐẠI HỘI NHÀ VĂN IV NGÂM KHÚC của nhà thơ Nguyễn Duy để thấy rõ điều đó.
Thuở trời đất lên cơn đại hội
dân làng văn lắm nỗi truân chuyên
xanh kia thăm thẳm tầng trên
vì ai xa cách cho nên nỗi này
Trống Hà Thành lung lay bóng nguyệt
sương Ba Đình mờ mịt thức mây
mấy lần nghị quyết trao tay
đêm đêm bàn bạc định ngày khai trương
Phút khởi sự hội trường ngơ ngác
bác Đông Hoài giảng Mác – Lê Nin
nhà văn phải có niềm tin
đổi mới dân chủ lại thêm kết đoàn
Hội bảo thọ tràng giang hùng biện
tới Bắc Kinh bàn chuyện Xô Nga
chập trùng tư tưởng gần xa
đứt thôi lại nối thấp đà lại cao
Tao ngộ chiến ào ào sấm nổ
tưởng cơ đồ sụp đổ tới nơi
ối giời ơi bác Sáu ơi
nhà ta nó phá tan rồi còn đâu
Trang giấy trắng một màu quan ải
oan khiên này biết giãi cùng ai
chỉ vì mấy đứa đơn sai
văn đàn bỗng hoá văn đài phải chăng?
Nguyễn Khải lặn mất tăm đâu đó
Chính Hữu chờ sóng gió qua mau
Bùi Bình Thi rút ván cầu
Phạm Tiến Duật lủi đi đâu mất rồi
Chàng Hữu Thỉnh dở cười dở khóc
Ngọc Tú nàng bứt tóc vò tai
Đỗ Chu tế ngựa vòng ngoài
gặp ai cũng hỏi rằng ai nhớ mình
Mặt Anh Đức vênh vênh vẹo vẹo
mắt đăm đăm liếc xéo hội trường
Phạm Tường Hạnh vứt văn chương
vọt lên đánh hụt một đường đại đao
Trần Độ biến nơi nào chẳng thấy
thấy phất phơ có mấy tờ thư
phất pha phất phới ngôn từ
đoàn chủ tịch cứ ậm ừ mần thinh
Lương Qui Nhân ngồi im thin thít
ghế cao cao nóng đít Tiến Lê
Chu Văn thủ thỉ Ý Nhi
lâu lâu lại lé mắt về Lê Minh
Nguyễn Văn Hạnh một mình một ngựa
phá trùng vây ở giữa sa tràng
quyết lòng mở ruột phơi gan
đã vì đồng đội gian nan sá gì
Biết cứu nạn lắm khi mắc nạn
tâm huyết nhiều mất mạng như không
Thùy Mai nước mắt lưng tròng
cõng Bùi Minh Quốc qua vòng hiểm nguy
Tô Nhuận Vỹ tức thì gượng dậy
Sông Hương vừa bị gãy xương hông
Ngọc Tường đối trọng khoảng không
Khoa Điềm tấm tức tấc lòng băn khoăn
Mai Ngữ sử dao găm súng lục
Mắt Liên Nam đùng đục điên điên
quay cuồng một trận Quốc Liên
Thu Bồn nộ khí xung thiên tung hoành
Trần Mạnh Hảo ành ành hỏa pháo
Diệp Minh Tuyền Vũ Bão xuất chiêu
Võ Huy Tâm tuổi về chiều
chấn hưng phong hoá cũng liều tấm thân
Phong Lê nổi rần rần lửa giận
đốt túp lều lý luận con buôn
thình lình hiện một Thu Hương
phăm phăm thân gái dặm trường xông pha
Câu thơ luống đắn đo chẳng viết
viết cho ai, ai biết mình đây?
Nguyễn Duy líu lưỡi chau mày
một phen sống sót là may lắm rồi
Ngoảnh cổ lại ngùi ngùi nhỏ lệ
thảm thương thay huynh đệ tương tàn
chỉ vì mấy mống bút gian
mà nên tao tác cả làng văn ta
Quần hùng bỗng chia ra hai phái
phái vui tươi và phái hằm hằm
phái hằm hằm mặt nhăn nhăn
chỉ thêm khốn khổ nhọc nhằn mà thôi
Phái vui tươi nói cười hể hả
mặc bia hơi đóng giả bia chai
rằng chai thì thật là chai
rót ra ấm ấm khai khai cũng tình
Mẹ và em đều xinh đẹp cả
Mây mỡ gà, Mỹ Dạ thướt tha
Khánh Linh đỏ tựa ráng pha
Anh Thơ áo trắng như là tuyết in
Xuân Cang cứ im lìm gang thép
Nguyên Ngọc cười toe tóet rất tươi
Hồ Phương tới tới lui lui
đầu đội mũ cối mình ngồi Pơ-giô
Bằng Việt khéo ngơ ngơ ngác ngác
Lê Lựu nhìn nhớn nhác không yên
Hữu Mai thắc thỏm đứng tim
khấn Ông Cố Vấn ở trên lưng trời
Sân khấu chuyển sang hồi bầu cử
vận động ngầm, ấm ứ nhỏ to
nhà văn thì cứ tự do
thằng nào xứng đáng ta cho vào hòm
Hòm phiếu đỏ niêm son đã mở
có Hữu Tòng đả hổ trưởng ban
giáo gươm xếp lại hai hàng
phiếu bầu cao nhất về Quang Sáng rồi
Phút ngờ nghệch bồi hồi cởi mở
thở đánh phào hớn hở tin yêu
dẹp đi cái cuộc liêu xiêu
tiếng gươm khua tiếng thơ kêu xé lòng
Đại hội đã thành công tốt đẹp
ban chấp hành đứng xếp hàng ra
Tổng thư ký của hội ta
tướng công vốn có hiệu là Văn Ngan
Lời chia biệt hàng hàng châu ngọc
tiếng cười chen tiếng khóc lâm li
nghẹn ngào kẻ ở người đi
lặng nghe bác Nguyễn Đình Thi tiễn mình…
Tấm ảnh quý-hiếm trong Đại hội IV Hội Nhà văn Việt Nam năm 1989, đại hội kéo dài tới ngày thứ mười. Trong Hội trường Ba Đình. Các anh Nguyên Ngọc, Nguyễn Văn Hạnh (từ phải qua, hàng trước). Ngô Thị Kim Cúc hàng sau.
Một tấm ảnh quý-hiếm khác có anh Nguyễn Văn Hạnh, năm 1994. Các anh chị Lữ Phương, Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Thế Thanh, Tô Hòa, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyên Ngọc, Trần Hữu Tá (hàng ngồi, từ trái qua). Nguyễn Trọng Chức, Lê Ngọc Trà (hàng đứng, từ trái qua)