Hiện đại hóa, sự Thay đổi Văn hóa, và Dân chủ: Trình tự Phát triển Con Người (kỳ 7)

Donald InglehartChristian Welzel

Nguyễn Quang A dịch

NXB Dân Khí – 2022

Nguyên bản: Modernization, Cultural Change, and Democracy: The Human Development Sequence. Cambridge University Press, 2005.

undefined

4. Sự Thay đổi Giá trị giữa Thế hệ

Như Chương 2 đã chứng minh, chúng ta thấy các sự khác biệt to lớn và nhất quán giữa các giá trị do các công chúng của các xã hội đã phát triển và đang phát triển bày tỏ. Các sự khác biệt này gợi ý (nhưng không chứng minh) rằng sự phát triển kinh tế xã hội mang lại các sự dịch chuyển có hệ thống từ các giá trị truyền thống sang thế tục-duy lý và từ các giá trị sinh tồn sang tự-thể hiện.

Hai chương tiếp trình bày bằng chứng thêm về các thay đổi này. Chương 5 cho thấy các công chúng của các xã hội hậu công nghiệp di chuyển như thế nào tới sự nhấn mạnh tăng lên đến các giá trị thế tục-duy lý và các giá trị tự-thể hiện trong giai đoạn từ 1981 đến 2001. Sự dịch chuyển này là bằng chứng trực tiếp rằng các sự thay đổi văn hóa theo các hướng được tiên đoán thực sự đang xảy ra, tuy nó chỉ phủ một giai đoạn hai mươi năm. Chương hiện thời xem xét các hình mẫu cơ bản của các sự khác biệt thế hệ dẫn đến các thay đổi này. Vì chúng ta thấy rằng trong các xã hội phát triển, các thế hệ trẻ hơn nhấn mạnh các giá trị thế tục-duy lý và các giá trị tự-thể hiện nhiều hơn các thế hệ già hơn rất nhiều. Kết quả này chính xác là cái chúng ta kỳ vọng tìm thấy nếu các sự dịch chuyển giữa thế hệ đang xảy ra.

Dưới một số hoàn cảnh, người ta có thể cho rằng các sự khác biệt liên kết-tuổi này đơn giản phản ánh các tác động vòng đời – cho rằng mọi người có một xu hướng vốn có để đặt sự nhấn mạnh tăng lên đến các giá trị truyền thống và các giá trị sinh tồn khi họ già đi – không phải sự thay đổi giữa thế hệ. Nếu có một tác động vòng đời như vậy, các nhóm tuổi (cohort) trẻ hơn sẽ đặt sự nhấn mạnh nhiều lên các giá trị thế tục-duy lý và các giá trị tự-thể hiện hơn các nhóm tuổi già hơn trong bất kể xã hội nào. Nhưng luận điệu này là không thể biện hộ được trong trường hợp hiện thời, vì các sự khác biệt giữa thế hệ này được tìm thấy trong các xã hội phát triển nhưng không trong các xã hội thu nhập-thấp. Không có xu hướng vốn có nào cho mọi người để dịch chuyển tới các giá trị truyền thống hơn hay nhấn mạnh các giá trị sinh tồn mạnh hơn khi họ già đi.[1] Tương tự, không có xu hướng phổ quát nào cho những người trẻ để đặt nhiều sự nhấn mạnh hơn những người già đến các giá trị thế tục-duy lý và các giá trị tự-thể hiện. Sự hiện diện của các sự khác biệt giữa thế hệ phụ thuộc vào liệu một xã hội có đã đạt các mức phát triển kinh tế xã hội cao hay không. Các sự khác biệt thế hệ được thấy trong các xã hội phát triển có vẻ phản ánh các thay đổi kinh tế xã hội dài hạn hơn là các tác động vòng đời.

Các sự khác biệt liên quan đến tuổi được xem xét trong chương này gợi ý rằng một quá trình thay đổi giá trị giữa thế hệ đã xảy ra trong sáu thập niên qua và dài hơn – nhưng đấy chỉ là bằng chứng gián tiếp của sự thay đổi văn hóa. Nhằm để chứng minh trực tiếp rằng các sự thay đổi văn hóa dài hạn đang xảy ra, chúng ta cần bằng chứng từ các khảo sát đo các giá trị này trong cả các nước giàu và các nước nghèo suốt sáu mươi hay bảy mươi năm qua. Dữ liệu như vậy không sẵn có và sẽ không sẵn có cho một nửa thế kỷ nữa. Chương 5 xem xét các thay đổi theo thời gian do bằng chứng khảo sát từ các Khảo sát Giá trị 1981–2001 cho thấy. Các khảo sát này phủ hai mươi năm trong một số nước, và cho hầu hết các nước chúng phủ một thập niên hay ít hơn. Giai đoạn thời gian này là ngắn hơn thời gian cần rất nhiều cho một kiểm định thuyết phục về sự thay đổi văn hóa giữa thế hệ: trong các thời kỳ tương đối ngắn, các thăng giáng ngắn hạn và các tác động thời kỳ đặc thù-tình huống có thể dễ dàng làm mất các tác động của sự thay đổi văn hóa dựa vào sự thay thế dân cư giữa thế hệ. Tuy nhiên, dữ liệu chuỗi-thời gian mà bây giờ sẵn có cho thấy các thay đổi theo hướng được tiên đoán (tới các giá trị thế tục-duy lý và các giá trị tự-thể hiện) trong hầu hết các xã hội thu nhập cao nhưng không trong các xã hội thu nhập-thấp. Chúng ta không thấy một sự dịch chuyển phổ quát tới các giá trị thế tục-duy lý và tự-thể hiện, như có thể sinh ra từ quá trình phổ quát nào đó của sự khuếch tán văn hóa dựa vào toàn cầu hóa hay internet. Như phiên bản lý thuyết hiện đại hóa được xét lại của chúng tôi ngụ ý, các sự thay đổi văn hóa này liên kết với sự phát triển kinh tế xã hội và không xảy ra ở nơi nó vắng mặt.

Bằng chứng từ ba kiểu phân tích khác nhau đều chỉ theo cùng hướng, cho biết rằng chúng ta đang chứng kiến một quá trình thay đổi giá trị giữa thế hệ liên kết với sự phát triển kinh tế xã hội. Nếu bằng chứng từ chỉ một trong các nguồn này chỉ ra tới kết luận này, nó sẽ ít thuyết phục hơn. Nhưng sự phân tích của một khối khổng lồ bằng chứng từ tám mươi xã hội, sử dụng ba cách tiếp cận khác nhau – so sánh các nước giàu và các nước nghèo, các so sánh thế hệ, và bằng chứng chuỗi-thời gian từ hai thập niên qua – tất cả đều chỉ tới cùng kết luận. Các sự thay đổi văn hóa lớn đang xảy ra, phản ánh một quá trình thay đổi giá trị giữa thế hệ liên kết với công nghiệp hóa và hậu công nghiệp hóa.

Các sự Khác biệt Thế hệ và sự Thay đổi Văn hóa

Sự dịch chuyển từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp và sự dịch chuyển theo sau từ xã hội công nghiệp sang xã hội hậu công nghiệp là các quá trình xảy ra từ từ trong nhiều thập niên; bằng chứng theo chiều dọc của chúng ta về các xu hướng từ các khảo sát hiện có phủ hai mươi hay giỏi nhất ba mươi năm, và cho hầu hết các xã hội thu nhập-thấp, chúng ta có dữ liệu phủ các thời kỳ 5 hay 10 năm. Đấy là thời kỳ quá ngắn để cung cấp các phép đo trực tiếp về các sự thay đổi giữa thế hệ, mà phản ánh các điều kiện thay đổi trong nhiều thập niên.

Cho các nước nguyên-cộng sản (với sự ngoại lệ duy nhất của Hungary, đã được khảo sát lần đầu tiên trong 1981), chúng ta chỉ có dữ liệu khảo sát kể từ 1989–91, bởi vì đã hầu như không thể thực hiện các khảo sát độc lập trong các nước này cho đến sau khi các chế độ độc đoán đã sụp đổ. Hơn nữa, các năm kể từ 1990 đã là một thời kỳ không điển hình cho các xã hội nguyên-cộng sản, một thời kỳ được định hình bởi việc cải tổ lại hoàn toàn các hệ thống kinh tế, xã hội, và chính trị của chúng và sự tan vỡ của Liên Xô thành mười lăm nhà nước kế vị. Trong các xã hội nguyên-Soviet, thu nhập thực tế đã rớt xuống ít hơn một nửa của mức trước kia của nó, mạng lưới phúc lợi xã hội đã tan rã, luật và trật tự bị phá vỡ, hệ thống niềm tin cộng sản đã mất sự tín nhiệm của nó, và bản thân tuổi thọ trung bình đã giảm đột ngột. Đấy đã là một thời kỳ đau thương cho các xã hội nguyên-Soviet, và chúng ta kỳ vọng các sự thay đổi ngắn hạn phản ánh các điều kiện khó khăn này. Như được lưu ý trong Chương 9, kinh nghiệm này giúp giải thích vì sao các nhà nước kế vị Soviet – với ngoại lệ của các nước Baltic – đã ít thành công trong việc chuyển đổi sang dân chủ hơn hầu hết các xã hội cộng sản trước kia.

Nhưng trong phần lớn của thế kỷ thứ hai mươi, Liên Xô đã trải nghiệm các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao. Trong các năm 1960, bình luận về sự thực rằng các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa tăng trưởng với các tỷ lệ cao hơn tỷ lệ tăng trưởng của các nền dân chủ Tây phương rất nhiều, Khrushchev đã nói, “Chúng tôi sẽ chôn các vị!” Mối đe dọa đã có vẻ hợp lý đối với nhiều nhà quan sát Tây phương. Tại thời điểm đó, Liên Xô là một trong hai siêu cường thế giới và đã có vẻ có một tương lai chói lọi. Nhưng các năm kể từ 1990 là một thời kỳ khó chịu và bất an nghiêm trọng, Chúng ta kỳ vọng các thay đổi ngắn hạn giữa các công chúng này phản ánh các điều kiện này. Vì thế, chúng ta kỳ vọng các so sánh thế hệ cho một sự phản ánh chính xác về các sự thay đổi văn hóa dài hạn mà đã xảy ra giữa các công chúng nguyên-cộng sản hơn được phản ánh bởi dữ liệu chuỗi-thời gian từ thời kỳ đặc biệt kể từ 1990, mà được đặc trưng bởi sự sụp đổ của các hệ thống chính trị, kinh tế, và xã hội cộng sản.

Trong sự thiếu vắng dữ liệu khảo sát đo các giá trị này trong nhiều thập kỷ, các so sánh thế hệ của các khảo sát mặt cắt ngang (cross-sectional) cung cấp một chỉ dẫn gián tiếp hữu ích về sự thay đổi văn hóa dài hạn. Nếu các giá trị cơ bản của một thế hệ cho trước có khuynh hướng được thiết lập trong các năm hình thành trước trưởng thành và thay đổi tương đối ít sau đó, thì các sự khác biệt giữa thế hệ trong các giá trị cơ bản có thể cho một chỉ dẫn về các xu hướng dài hạn, nhất là nếu chúng ta có bằng chứng phụ giúp chúng ta phân biệt giữa các tác động vòng đời và sự thay đổi giữa thế hệ.

Trong các xã hội được định hình bởi các mức cao của an toàn sinh tồn trong các thời kỳ kéo dài, chúng ta kỳ vọng tìm thấy các sự khác biệt đáng kể giữa các giá trị của các thế hệ già hơn và trẻ hơn. Trong các xã hội như vậy, các nhóm sinh trẻ hơn sẽ đặt hầu hết sự nhấn mạnh lên các giá trị tự-thể hiện, trong khi các nhóm tuổi già hơn sẽ tiếp tục nhấn mạnh các giá trị sinh tồn.

Chúng ta giả thuyết rằng sự lan ra của các giá trị tự-thể hiện không phản ánh một quá trình phổ quát của sự khuếch tán văn hóa toàn cầu; nó còn tùy thuộc vào liệu người dân của một xã hội có trải nghiệm các mức cao của sự an toàn sinh tồn và sự tự trị hay không, hặc liệu họ đã trải nghiệm sự sụp đổ kinh tế và xã hội, như trong các nền kinh tế nguyên-cộng sản ít thành công hơn.

Nếu các sự khác biệt thế hệ này phản ánh sự phát triển kinh tế xã hội, chúng ta sẽ không kỳ vọng để thấy các sự khác biệt giá trị lớn theo thế hệ trong các xã hội đã không trải nghiệm sự tăng lên lớn về an toàn sinh tồn trong vài thập niên qua. Trong các nền kinh tế trì trệ, chúng ta kỳ vọng những người trẻ là truyền thống hệt như những người già. Tính sẵn có của dữ liệu từ các kiểu khác nhau căn bản của các xã hội rọi ánh sáng lên sự diễn giải của các tác động này, bởi vì (như chúng tôi sẽ chứng minh) chúng ta không tìm thấy bất kể xu hướng phổ quát nào cho người dân đặt nhiều sự nhấn mạnh lên các giá trị sinh tồn khi họ già đi: chúng tôi tìm thấy sự nhấn mạnh lớn hơn lên các giá trị tự-thể hiện giữa các nhóm tuổi trẻ hơn so với giữa các nhóm tuổi già hơn trong các xã hội hậu công nghiệp, nhưng không thấy trong các xã hội trải nghiệm ít hay không sự phát triển kinh tế nào.

Cho một phân tích mang tính quyết định, chúng ta cần phân tích các đợt kế tiếp nhau của dữ liệu khảo sát được thu thập tại nhiều điểm thời gian trong nhiều thập kỷ. Việc này sẽ cho phép chúng ta gỡ rối các tác động vòng đời, các tác động thời kỳ, và các tác động nhóm sinh (birth cohort). Chúng tôi không có cơ sở dữ liệu theo chiều dọc lớn cần thiết cho việc này. Trong sự vắng mặt của nó, không một cách tiếp cận nào có thể mang tính quyết định tuyệt đối, nhưng nếu một sự kết hợp của các phương pháp, các chỉ báo, và các bộ dữ liệu đưa ra các phát hiện mà tất cả đều chỉ tới cùng kết luận, nó nâng cao sự tự tin của chúng ta vào sự diễn giải của chúng ta.

Cho đến giờ khối dữ liệu chuỗi-thời gian dài nhất và chi tiết nhất liên quan đến sự thay đổi giá trị là dữ liệu đo các ưu tiên giá trị duy vật versus hậu-duy vật. Các giá trị này được đo ở nhiều nước, và chúng được đo trong các khảo sát Eurobarometer hầu như mọi năm từ 1970 đến nay. Chúng ta hãy bắt đầu với việc xem xét sự dịch chuyển giữa thế hệ từ các giá trị duy vật sang hậu duy vật. Bởi vì các giá trị này là một thành phần chủ chốt của chiều sinh tồn/tự-thể hiện, phân tích của chúng tôi cho một ý tưởng về cái chúng ta sẽ tìm thấy với các thành phần khác của nó nếu chúng ta đã đo chúng hàng năm trong ba thập niên, như chúng ta làm với các giá trị duy vật và hậu duy vật. Hơn nữa, phân tích này là hữu ích về một khía cạnh khác: nó minh họa các vấn đề về phân biệt giữa các sự thay đổi dài hạn giữa thế hệ, các tác động vòng đời, và các tác động thời kỳ liên kết với những thay đổi hiện thời về các điều kiện kinh tế xã hội.

Sự lên của các Giá trị Hậu duy vật

Hơn ba thập niên trước, Inglehart (1977) đã giả thuyết rằng, khắp các xã hội công nghiệp tiên tiến, các ưu tiên giá trị của mọi người đang dịch chuyển từ các mục tiêu “duy vật”, mà nhấn mạnh sự an toàn kinh tế và thân thể, tới các mục tiêu “hậu-duy vật”, mà nhấn mạnh sự tự-thể hiện và chất lượng cuộc sống. Sự dịch chuyển văn hóa này đã được đo hàng năm kể từ 1970 trong các khảo sát được tiến hành trong nhiều xã hội Tây phương. Một khối bằng chứng to lớn chứng minh rằng một sự dịch chuyển giữa thế hệ đã xảy ra theo hướng được tiên đoán.

Lý thuyết này về thay đổi giá trị giữa thế hệ dựa vào hai giả thuyết then chốt (Inglehart, 1990):

1. Một giả thuyết khan hiếm. Hầu như tất cả mọi người đều muốn tự do và sự tự trị, nhưng các ưu tiên của mọi người phản ánh các điều kiện kinh tế xã hội của họ, đặt giá trị chủ quan cao nhất lên các nhu cầu cấp bách nhất của họ. Phương tiện sinh sống vật chất và sự an toàn thân thể là các đòi hỏi đầu tiên cho sự sống sót. Như thế, dưới các điều kiện khan hiếm, mọi người trao ưu tiên cao nhất cho các mục tiêu duy vật, trong khi dưới các điều kiện thịnh vượng, họ có nhiều khả năng hơn để nhấn mạnh các mục tiêu hậu-duy vật.

2. Một giả thuyết hòa nhập xã hội (socialization). Mối quan hệ giữa sự khan hiếm vật chất và các ưu tiên giá trị không phải là một mối quan hệ chủ yếu của sự điều chỉnh tức thời: một thời gian trễ đáng kể có liên quan bởi vì, phần lớn, các giá trị cơ bản của người ta phản ánh các điều kiện thịnh hành trong các năm trước trưởng thành của họ. Chúng thay đổi chủ yếu qua sự thay thế dân cư giữa thế hệ. Hơn nữa, các thế hệ già hơn trong mỗi xã hội có khuynh hướng truyền các giá trị cho các con họ; di sản văn hóa này là không dễ bị xua tan, nhưng nếu nó không phù hợp với kinh nghiệm trực tiếp của người ta, nó có thể xói mòn từ từ.

Giả thuyết khan hiếm là giống với nguyên tắc về độ thỏa dụng biên giảm bớt trong lý thuyết kinh tế. Nó phản ánh sự phân biệt cơ bản giữa nhu cầu vật chất cho sự sống sót và sự an toàn thân thể và nhu cầu phi-vật chất như nhu cầu cho sự quý trọng, sự tự-thể hiện, và sự thỏa mãn thẩm mỹ. Bởi vì nhu cầu vật chất là cốt yếu ngay lập tức cho sự sống sót, khi thiếu thì chúng có khuynh hướng lấy ưu tiên trên bất kể nhu cầu khác nào, kể cả nhu cầu hậu-duy vật. Ngược lại, khi nhu cầu vật chất chắc chắn được thỏa mãn, chúng có khuynh hướng được coi là đương nhiên và các mục tiêu hậu-duy vật nhận được ưu tiên cao hơn, mở rộng đường chân trời của mọi người cho các mục tiêu cao hơn trên tháp động lực Maslow.

Lịch sử kinh tế của các xã hội công nghiệp tiên tiến trong năm mươi năm qua có các hệ lụy đáng kể dưới ánh sáng của giả thuyết khan hiếm. Vì các xã hội này là một ngoại lệ nổi bật đối với hình mẫu lịch sử thịnh hành: hầu hết dân cư của chúng không sống dưới các điều kiện đói và bất an kinh tế. Việc này đã dẫn đến một sự dịch chuyển từ từ, trong đó nhu cầu cho sự thuộc về, sự kính trọng, và sự thỏa mãn trí tuệ và thẩm mỹ trở nên nổi bật hơn. Chúng ta kỳ vọng các thời kỳ thịnh vượng cao kéo dài để cổ vũ sự lan ra của các giá trị hậu duy vật, và sự sa sút kinh tế kéo dài có tác động ngược lại. Các diễn tiến gần đây, như thất nghiệp tương đối cao, sự sụp đổ của các thị trường chứng khoán và sự cắt xén nhà nước phúc lợi, đã làm tăng sự bất an toàn kinh tế; nếu việc này đi đủ xa, nó có thể làm xói mòn cảm giác thịnh hành rằng sự sống sót có thể được coi là đương nhiên và, trong dài hạn, mang lại một sự trỗi dậy của các giá trị duy vật.

Nhưng không có mối quan hệ một-một giữa sự phát triển kinh tế xã hội và sự phổ biến của các giá trị hậu duy vật, vì các giá trị này phản ánh cảm giác chủ quan của người ta về sự an toàn, không phải bản thân mức kinh tế khách quan của người ta. Hơn nữa, cảm giác chủ quan của người ta về sự an toàn không chỉ phản ánh sự an toàn cá nhân riêng của người ta mà bị ảnh hưởng bởi cảm giác an toàn chung phổ biến trong bối cảnh xã hội của người ta. Trong khi các cá nhân và quốc gia giàu có khuynh hướng cảm thấy an toàn hơn các cá nhân nghèo, các cảm giác này cũng bị ảnh ưởng bởi khung cảnh văn hóa và các định chế phúc lợi xã hội trong đó người ta được nuôi dưỡng. Như thế, giả thuyết khan hiếm phải được diễn giải trong quan hệ với giả thuyết hòa nhập xã hội.

Một trong những khái niệm phổ biến nhất trong khoa học xã hội là quan niệm về cấu trúc nhân cách con người cơ bản có khuynh hướng kết tinh vào lúc một cá nhân đạt tuổi trưởng thành, với tương đối ít sự thay đổi sau đó. Quan niệm này thấm vào văn liệu từ Plato đến tận Freud và được xác nhận bởi các phát hiện từ nghiên cứu khảo sát đương thời. Sự hòa nhập xã hội ban đầu có khuynh hướng mang trọng lượng lớn hơn sự hòa nhập xã hội muộn hơn. Một khối bằng chứng lớn cho biết rằng các giá trị cơ bản của mọi người phần lớn được cố định vào thời gian họ đến tuổi trưởng thành và thay đổi tương đối ít sau đó (Rokeach, 1968, 1973; Inglehart, 1977, 1997; K. Baker, Dalton, and Hildebrandt, 1981). Như Shuman and Scott (1989) chỉ rõ, các thế hệ có “các ký ức tập thể,” được in sâu vào thời thiếu niên và thanh niên, mà dai dẳng suốt vòng đời. Nếu thế, chúng ta sẽ kỳ vọng tìm thấy các sự khác biệt đáng kể giữa các giá trị của những người trẻ và những người già trong các xã hội đã trải nghiệm một cảm giác an toàn tăng lên. Hơn nữa, mặc dù các truyền thống văn hóa có khuynh hướng bền bỉ qua sự hòa nhập xã hội, quá trình này không nhất thiết tái tạo một hệ thống giá trị cho trước không đổi. Trong các năm hình thành của họ, mọi người không nhất thiết hấp thu tất cả các giá trị mà xã hội của họ thử truyền vào họ. Các cá nhân có khả năng nhất để chấp nhận các giá trị hợp với kinh nghiệm trực tiếp của họ trong các năm hình thành của họ và rời xa các giá trị không hợp với kinh nghiệm trực tiếp của riêng họ. Việc này làm cho có thể cho sự thay đổi giá trị giữa thế hệ xảy ra. Nếu các thế hệ trẻ hơn được hòa nhập xã hội dưới các điều kiện khác đáng kể với các điều kiện đã định hình các thế hệ sớm hơn, các giá trị của toàn bộ xã hội sẽ thay đổi từ từ qua sự thay thế giữa thế hệ.

Cùng nhau, các giả thuyết này gây ra một tập rõ ràng của các tiên đoán liên quan đến sự thay đổi giá trị. Thứ nhất, giả thuyết khan hiếm ngụ ý rằng sự thịnh vượng là thuận lợi cho sự lan ra của các giá trị hậu duy vật, nhưng giả thuyết hòa nhập xã hội ngụ ý rằng cả các giá trị của các cá nhân lẫn các giá trị của một xã hội như một toàn thể không chắc thay đổi ngày một ngày hai. Thay vào đó, sự thay đổi giá trị cơ bản xảy ra từ từ; phần lớn, nó xảy ra khi một thế hệ trẻ hơn thay thế thế hệ già hơn trong dân cư trưởng thành của một xã hội.

Vì thế, sau một thời kỳ kéo dài của sự an toàn kinh tế và thân thể tăng lên, người ta kỳ vọng tìm thấy các sự khác việt đáng kể giữa các ưu tiên giá trị của các nhóm già hơn và trẻ hơn: họ được định hình bởi các kinh nghiệm khác nhau trong các năm hình thành của họ. Nhưng có một sự trễ thời gian khá lớn giữa các sự thay đổi kinh tế và các tác động chính trị của chúng. Mười hay mười lăm năm sau một thời kỳ thịnh vượng bắt đầu, các nhóm tuổi mà đã có các năm hình thành của họ trong sự thịnh vượng sẽ bắt đầu trở thành cử tri. Một hay hai thập niên có thể trôi đi trước khi họ bắt đầu đóng các vai trò elite của họ.

Kiểm định Giả thuyết Thay đổi Giá trị

Giả thuyết thay đổi giá trị được kiểm định lần đầu tiên năm 1970 trong các khảo sát ngang-quốc gia ở các nước Anh, Pháp, Tây Đức, Italy, Bỉ, và Hà Lan. Tất cả sáu nước đã cho thấy các sự khác biệt nhóm tuổi được tiên đoán bởi giả thuyết hòa nhập xã hội. Như Hình 4.1 chứng minh, trong năm 1970 các nhà duy vật đông hơn các nhà hậu-duy vật rất nhiều giữa nhóm già nhất; nhưng khi chúng ta di chuyển tới các nhóm trẻ hơn, tỷ lệ các nhà duy vật giảm và tỷ lệ các nhà hậu-duy vật tăng lên (Inglehart, 1977). Giữ nhóm tuổi già nhất (những người trên sáu mươi lăm tuổi), các nhà duy vật đông hơn các nhà hậu-duy vật với hơn mười bốn trên một; nhưng giữa nhóm tuổi trẻ nhất, các nhà hậu-duy vật đã đông hơn các nhà duy vật một chút.

Hình mẫu này có phản ánh các tác động vòng đời, sự thay đổi thế hệ, hay sự kết hợp nào đó của hai thứ? Lý thuyết tiên đoán rằng chúng ta sẽ tìm thấy các sự khác biệt thế hệ; nhưng các sự khác biệt mà chúng ta quan sát giữa những người trẻ và già có thể phản ánh xu hướng vốn có nào đó cho mọi người để trở nên duy vật hơn khi họ già đi. Nếu vậy, thì, khi thời gian trôi đi, các giá trị của các nhóm trẻ hơn cuối cùng sẽ trở nên giống các giá trị của các nhóm già hơn, tạo ra không sự thay đổi nào cả trong xã hội như một toàn thể. Cách duy nhất để xác định liệu các sự khác biệt theo tuổi này phản ánh sự thay đổi thế hệ hay các tác động già đi là theo dõi các nhóm sinh cho trước để xem nếu họ có trở nên duy vật hơn khi họ già đi.

image

HÌNH 4.1. Kiểu giá trị theo nhóm tuổi, giữa các công chúng của các nước Anh, Pháp, Tây Đức, Italy, Bỉ, và Hà Lan trong năm 1970. Nguồn: European Community survey of February 1970, dựa vào bộ câu hỏi bốn khoản các giá trị duy vật/hậu duy vật ban đầu. In lại từ Inglehart, 1990: 76.

 

May thay, chúng ta có thể làm vậy: bộ câu hỏi bốn-khoản các giá trị duy vật- hậu duy vật đã được hỏi trong các khảo sát ngang-quốc gia trong hầu như mỗi năm từ 1970 đến nay.

Hình 4.2 cho thấy các giá trị của mỗi nhóm sinh tiến hóa như thế nào theo thời gian, từ 1970 đến 1999, lại sử dụng dữ liệu được tập hợp từ các nước Anh, Pháp, Tây Đức, Italy, Bỉ, và Hà Lan. Vị trí của mỗi nhóm tuổi tại một thời gian cho trước được tính bằng việc trừ tỷ lệ phần trăm của các nhà duy vật trong nhóm tuổi đó khỏi tỷ lệ phần trăm của các nhà hậu-duy vật. Như thế, tại điểm zero trên trục dọc, hai nhóm đông ngang nhau (nhóm sinh trong 1946–55 được đặt gần điểm này trong năm 1970). Tỷ lệ của các nhà hậu-duy vật tăng lên khi chúng ta di chuyển lên; tỷ lệ của các nhà duy vật tăng khi chúng ta di chuyển xuống. Nếu các sự khác biệt theo tuổi phản ánh một tác động vòng đời, thì mỗi đường nhóm tuổi sẽ di chuyển xuống, tới cực duy vật, khi ta di chuyển từ trái sang phải ngang thời kỳ gần ba thập niên này.

image

HÌNH 4.2. Phân tích nhóm tuổi (cohort) với tỷ lệ lạm phát xếp chồng lên (sử dụng thang đảo ngược ở bên phải): phần trăm của các nhà hậu-duy vật trừ phần trăm của các nhà duy vật trong sáu xã hội Tây Âu, 1970–99. Nguồn: Dựa vào mẫu có trọng số được kết hợp của các khảo sát Eurobarometer được tiến hành ở Tây Đức, Pháp, Anh, Italy, Hà Lan, và Bỉ, trong các năm cho trước, sử dụng chỉ số các giá trị duy vật/hậu duy vật bốn-khoản.

Chúng ta thấy không sự chuyển động xuống như vậy nào. Thay vào đó, các nhóm sinh trẻ hơn vẫn hậu-duy vật hơn các nhóm già hơn của họ suốt thời kỳ từ 1970 đến 1999: mọi người đã không trở nên duy vật hơn khi họ già đi – quả thực, nhiều nhóm sinh này đã ít duy vật vào cuối thời kỳ này hơn họ đã là vào lúc bắt đầu.

Hơn nữa, nếu giả như các tác động vòng đời là cơ chế thịnh hành, không sự thay đổi giá trị toàn thể nào sẽ xảy ra. Nhưng, như chúng ta sẽ thấy, các sự thay đổi giá trị lớn đã thực sự xảy ra từ 1970 đến 1999, và chúng di chuyển theo hướng được tiên đoán. Các thay đổi này phản ánh sự thực rằng mỗi nhóm sinh mới, mà bước vào các khảo sát, là hậu-duy vật hơn nhóm sinh trước và vẫn như thế, tạo ra một sự dịch chuyển tới các giá trị hậu duy vật khi các nhóm tuổi trẻ hơn thay thế các nhóm già hơn. Là rõ rệt từ Hình 4.2 rằng các tác động thời kỳ cũng hiện diện, và chúng tạo ra các thăng giáng ngắn hạn về các mức của chủ nghĩa hậu duy vật tác động đến tất cả các nhóm tuổi với mức độ đại thể như nhau. Các điều kiện hiện thời có thể di chuyển tất cả các nhóm sinh lên hay xuống, phụ thuộc vào liệu chúng là thuận lợi hay bất lợi. Nhưng trong dài hạn, các sự lắc lên ngắn hạn của các tác động thời kỳ có khuynh hướng triệt tiêu các sự lắc xuống của chúng, sao cho chúng không có tác động dài hạn nào. Các sự khác biệt giữa thế hệ là tương đối ổn định, cho nên tác động của sự thay thế dân cư giữa thế hệ có thể chuyển động theo cùng hướng trong nhiều thập niên, tạo ra các thay đổi tích lũy lớn.

Cái gì Gây ra các Tác động Thời kỳ?

Các nguyên nhân của các tác động thời kỳ được cho biết trong Hình 4.2, mà cho thấy tỷ lệ lạm phát hiện hành, được xếp chồng lên như đường tô đậm trên các đường cho mỗi nhóm sinh. Bởi vì lý thuyết tiên đoán rằng các giá trị hậu duy vật sẽ tăng khi lạm phát rớt, chỉ số lạm phát chạy từ các tỷ lệ thấp ở đỉnh đồ thị tới các tỷ lệ cao theo hướng xuống đáy. Điều này làm cho rõ rệt rằng [đường] lạm phát và các giá trị hậu duy vật lên và xuống cùng nhau [do thang ngược của lạm phát, nên trên thực tế là ngược nhau] – bên trong một dải thăng giáng hạn chế mà duy trì các sự khác biệt thế hệ.

Các tác động thời kỳ nổi bật là rõ rệt: đã có một xu hướng rõ cho mỗi nhóm tuổi để nhào xuống theo hướng cực duy vật trong suy thoái của giữa các năm 1970 và lại lần nữa trong các cuộc suy thoái của đầu các năm 1980 và đầu các năm 1990. Các tác động này được ngụ ý bởi lý thuyết của chúng tôi, mà liên kết các giá trị hậu duy vật với sự an toàn kinh tế. Các tỷ lệ lạm phát cao có khuynh hướng làm cho mọi người cảm thấy bất an về mặt kinh tế, và như đồ thị chứng minh, có một sự khớp chặt giữa các điều kiện kinh tế hiện hành và các thăng giáng ngắn hạn trong các giá trị duy vật và hậu-duy vật. Các mức lạm phát cao nén tỷ lệ của các nhà hậu-duy vật xuống. Nhưng các tác động thời kỳ này là tạm thời; chúng biến mất khi các điều kiện kinh tế trở lại bình thường. Trong dài hạn, các giá trị của một nhóm sinh cho trước là đặc biệt ổn định. Bất chấp các thăng giáng liên kết với các điều kiện kinh tế hiện hành, các sự khác biệt giữa thế hệ vẫn còn: tại hầu như mọi điểm theo thời gian, mỗi nhóm tuổi trẻ hơn ít duy vật hơn đáng kể so với các nhóm tuổi già hơn. Các sự khác biệt thế hệ kéo dài này phản ánh các sự khác biệt về các điều kiện hình thành mà đã định hình các nhóm sinh tương ứng: các nhóm sinh già hơn đã bị ảnh hưởng bởi sự đói và sự bất an phổ biến trong Chiến tranh Thế giới I, Đại Suy Thoái, và Chiến tranh Thế giới II; các nhóm sinh trẻ hơn đã lớn lên trong các nhà nước phúc lợi tiên tiến, trong một thời đại thịnh vượng và hòa bình chưa từng có về mặt lịch sử.

Có cả các tác động thời kỳ và các tác động hòa nhập xã hội, phản ánh các khía cạnh khác nhau của thực tế, với các tác động thời kỳ phản ánh tác động của các lực ngắn hạn và các tác động hòa nhập xã hội phản ánh tác động của các thay đổi dài hạn giữa thế hệ. Mỗi nhóm sinh phản ứng lại với các cảm giác hiện thời về sự bất an sinh tồn, liên kết với các thăng giáng kinh tế chu kỳ. Nhưng các sự thích nghi này dao động quanh tập hợp điểm ổn định.

Giả thuyết thay đổi thế hệ, được công bố lâu trước khi các dữ liệu này được thu thập, đã tiên đoán cả các sự khác biệt nhóm sinh vững chãi lẫn các tác động thời kỳ mà sau đó được quán sát. Luận đề thay đổi giá trị giữa thế hệ cũng tiên đoán rằng trong dài hạn điều này phải tạo ra một sự dịch chuyển từ các giá trị duy vật hướng tới hậu duy vật giữa dân cư của các xã hội này. Hơn ba thập niên đã trôi qua từ khi các giá trị này được đo lần đầu tiên. Chúng ta có tìm thấy sự dịch chuyển giá trị được tiên đoán? Như Hình 4.3 chứng minh, quả thực chúng ta tìm thấy.

Hình 4.3 cho thấy sự dịch chuyển thuần được quan sát ở mỗi trong sáu nước Tây Âu được khảo sát đầu tiên trong năm 1970, bổ sung các kết quả này với dữ liệu từ Khảo sát Bầu cử Quốc gia Hoa Kỳ 1972 và từ các khảo sát Eurobarometer được tiến hành đầu tiên ở Đam Mạch và Ireland trong năm 1973, khi các nước này gia nhập Cộng đồng Âu châu (EC). Dữ liệu gần đây nhất cho mỗi nước đến từ đợt 1999–2001 của các Khảo sát Giá trị. Như thế, chúng ta có dữ liệu chuỗi-thời gian cho các nước này phủ hầu như ba thập niên.

image

HÌNH 4.3. Sự dịch chuyển hướng tới các giá trị hậu duy vật giữa các công chúng của chín xã hội Tây phương, 1970–2000. [Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Tây Đức, Italy, Hà Lan, Bỉ, Đan Mạch, Ireland]

 

Chúng ta tìm thấy một sự dịch chuyển thuần từ các giá trị duy vật sang hậu duy vật trong tất cả chín nước. Thang dọc của hình này phản ánh tỷ lệ phần trăm của các nhà hậu-duy vật trừ tỷ lệ phần trăm của các nhà duy vật – mà có nghĩa rằng điểm zero trên thang này cho biết rằng các nhà duy vật và các nhà hậu-duy vật là đông ngang nhau. Trong đầu các năm 1970, các nhà duy vật đông hơn các nhà hậu-duy vật trong tất cả chín nước này, tất cả đều rơi dưới điểm zero trên trục dọc. Thí dụ, trong khảo sát Hoa Kỳ sớm nhất, các nhà duy vật đông hơn các nhà hậu-duy vật với 24 điểm phần trăm; ở Tây Đức, họ đông hơn các nhà hậu-duy vật với 34 điểm. Trong ba thập niên tiếp sau 1970, một sự dịch chuyển lớn đã xảy ra: theo các khảo sát 1999–2001, các nhà hậu-duy vật đã đông hơn các nhà duy vật trong tất cả chín nước. Bất chấp các thăng giáng ngắn hạn đáng kể, sự dịch chuyển được tiên đoán hướng tới các giá trị hậu duy vật đã xảy ra.

Hình 4.3 cho thấy chỉ điểm xuất phát và điểm kết thúc của chuỗi thời gian của mỗi nước. Trong một phân tích chi tiết hơn, dựa vào ít nhất ba mươi ba khảo sát cho mỗi quốc gia, Inglehart and Abramson (1999) xem xét các xu hướng của mỗi trong tám nước Tây Âu; rồi, sử dụng phân tích hồi quy, họ chứng minh rằng các nước Anh, Pháp, Tây Đức, Italy, Hà Lan, Ireland, và Đan Mạch đều cho thấy các xu hướng dài hạn lớn và có ý nghĩa thống kê từ các giá trị duy vật sang hậu duy vật từ 1970 đến 1994. Trong trường hợp thứ tám (Bỉ), xu hướng đã không có ý nghĩa thống kê bởi vì một sự tăng lên độ ngột của các mức thất nghiệp phần lớn bù lại các tác động của sự thay thế dân cư giữa thế hệ. Nhưng một phân tích, mà kiểm soát cho các tác động chung của lạm phát và thất nghiệp, chứng minh rằng đã có một xu thế có ý nghĩa thống kê hướng tới chủ nghĩa hậu duy vật trong tất cả các nước Tây Âu mà chuỗi thời gian chi tiết này là sẵn có.

Luận đề thay đổi giá trị giữa thế hệ tiên đoán một sự dịch chuyển từ các giá trị duy vật tới hậu duy vật giữ dân cư của các xã hội này. Bằng chứng kinh nghiệm được thu thập trong một thời kỳ ba thập niên phù hợp với tiên đoán này: các sự khác biệt lớn và bền bỉ mà chúng tôi tìm thấy giữa các nhóm sinh già hơn và trẻ hơn có vẻ phản ánh một quá trình thay đổi giá trị giữa thế hệ. Rất nhiều sự thay thế dân cư giữa thế hệ đã xảy ra kể từ 1970, đóng góp cho một sự dịch chuyển quan trọng tới các giá trị hậu duy vật. Xu hướng dài hạn giữa thế hệ này, tất nhiên, sẽ đảo chiều nếu các điều kiện kinh tế xã hội thay đổi sấu sắc đến mức các thế hệ mới trải nghiệm sự bất an sinh tồn suốt các năm hình thành của họ.

Sự dịch chuyển giữa thế hệ tới các giá trị hậu duy vật có các hệ lụy quan trọng liên quan đến các sự thay đổi chính trị mà chúng ta có thể kỳ vọng trong các thập niên tới; như chúng tôi sẽ chứng minh, sự dịch chuyển hướng tới các giá trị hậu duy vật là phần của một sự dịch chuyển văn hóa rộng hơn nhiều mang lại các đòi hỏi ngày càng mạnh cho dân chủ (ở nơi nó chưa tồn tại) và cho nền dân chủ phản ứng nhanh nhạy hơn (ở nơi nó tồn tại rồi).

Một sự nhấn mạnh đang nổi lên đến các vấn đề chất lượng sống đã được xếp chồng lên các sự chia tách cũ hơn, dựa vào giai cấp của xã hội công nghiệp. Từ giữa thế kỷ thứ mười chín đến giữa thế kỷ thứ hai mươi, chính trị đã bị chi phối bởi xung đột giai cấp về sự phân phối thu nhập và quyền sở hữu công nghiệp. Trong các thập niên gần đây, việc bỏ phiếu theo giai cấp xã hội đã giảm sút và bây giờ chia sẻ sân khấu với các vấn đề hậu duy vật mới hơn mà nhấn mạnh các vấn đề phong cách sống và bảo vệ môi trường.

Sự lên của chủ nghĩa hậu duy vật không có nghĩa rằng các vấn đề và các nỗi lo duy vật biến mất. Các xung đột về làm sao để bảo đảm sự thịnh vượng và sự phát triển kinh tế bền vững sẽ luôn luôn là các vấn đề chính trị quan trọng. Hơn nữa, các công chúng trong các xã hội hậu công nghiệp đã phát triển các hình thức tinh tế hơn của chủ nghĩa tiêu dùng, chủ nghĩa duy vật, và chủ nghĩa khoái lạc. Nhưng các hình thức mới này của chủ nghĩa duy vật đã được định hình bởi sự lên của các giá trị hậu duy vật. Các hình thức mới của sự tiêu dùng không còn hoạt động chủ yếu để cho biết giai cấp kinh tế của mọi người nữa. Chúng ngày càng là một phương tiện của sự tự-thể hiện cá nhân mà mọi người sử dụng để bày tỏ sở thích cá nhân và phong cách sống của họ. Sự nhấn mạnh này đến sự tự-thể hiện là một đặc điểm vốn có của chủ nghĩa hậu duy vật, là thành phần trung tâm của các giá trị tự-thể hiện.

Bằng chứng cho thấy rõ các sự khác biệt giá trị giữa thế hệ tìm thấy trong các xã hội hậu công nghiệp không phản ánh các tác động vòng đời. Như Hình 4.2 chứng minh, các nhóm sinh cho trước đã không trở nên duy vật hơn khi họ già đi. Hình 4.4 chứng minh rằng hình mẫu này cũng vẫn đúng cho sự dịch chuyển văn hóa rộng hơn bao quanh các giá trị hậu duy vật – sự dịch chuyển từ các giá trị sinh tồn sang tự-thể hiện.[2] Từ bắt đầu của chuỗi thời gian này, các nhóm sinh trẻ hơn đặt nhiều sự nhấn mạnh lên các giá trị tự-thể hiện hơn các nhóm tuổi già hơn đã đặt, và các nhóm sinh cho trước đã không di chuyển từ các giá trị tự-thể hiện tới các giá trị sinh tồn khi họ già đi từ 1981 đến 1999–2001 (vì các lý do cho sự đơn giản, các điểm này trong thời gian được nhắc đến như 1980 và 2000, một cách tương ứng, trong Hình 4.4). Suốt giai đoạn này, các nhóm sinh trẻ hơn tiếp tục đặt nhiều sự nhấn mạnh lên các giá trị tự-thể hiện hơn các nhóm sinh già hơn. Và mặc dù mỗi trong các nhóm sinh đã già đi hai mươi tuổi trong thời kỳ được phủ trong Hình 4.4, chẳng nhóm nào đặt ít sự nhấn mạnh lên sự tự-thể hiện trong 1999–2001 hơn nó đã đặt trong 1981 – như sẽ xảy ra nếu các sự khác biệt theo tuổi này phản ánh các tác động vòng đời. Hoàn toàn ngược lại, chúng tôi thấy rằng tất cả các nhóm sinh thực sự đã đặt sự nhấn mạnh nhiều hơn một chút lên các giá trị tự-thể hiện khi thời gian trôi đi. Điều này đặc biệt đúng về các nhóm tuổi trẻ hơn, mà cho thấy một sự dịch chuyển đáng kể tới các giá trị tự-thể hiện từ 1981 đến 1999–2001; các nhóm tuổi già hơn đã vẫn tương đối ổn định, nhưng chẳng nhóm nào trong số chúng đã dịch chuyển hướng tới các giá trị sinh tồn.

image

HÌNH 4.4. Sự nhấn mạnh lên các giá trị tự-thể hiện trong các nhóm sinh cho trước trong các xã hội hậu công nghiệp.

 

Chúng ta vừa xem xét bằng chứng về sự thay đổi giá trị giữa thế hệ trong một số nước mà từ đó bằng chứng chuỗi thời gian dài nhất và chi tiết nhất là sẵn có. Nhưng tất cả các nước này đều là các nền dân chủ giàu, hậu công nghiệp. Cái gì đã xảy ra trong phần còn lại của thế giới? Hãy xem xét bằng chứng từ số lớn hơn nhiều của các xã hội được phủ trong các Khảo sát Giá trị.

Sự dịch chuyển tới các giá trị hậu duy vật không phản ánh một sự khuếch tán toàn cầu của các giá trị. Lý thuyết của chúng tôi quy sự dịch chuyển này cho một sự thay đổi giữa thế hệ liên kết với sự nổi lên của các mức phát triển kinh tế xã hội cao hơn, mà ngụ ý rằng sự dịch chuyển tới chủ nghĩa hậu duy vật sẽ là rõ rệt nhất trong các xã hội hậu công nghiệp giàu có và có thể không xảy ra trong các nước vẫn nghèo. Trong khảo sát các năm 1970, dữ liệu từ các xã hội thu nhập-thấp đã rất hiếm, và dữ liệu khảo sát từ các xã hội cộng sản và độc đoán khác đã hầu như không thể để có được. Nhưng các Khảo sát Giá trị bây giờ cung cấp dữ liệu từ một dải rộng hơn nhiều của các xã hội.

image

HÌNH 4.5. Các sự khác biệt thế hệ về các giá trị truyền thống/thế tục-duy lý trong năm kiểu xã hội.

 

Bảng A-6 trong Phụ lục Internet[3] cho thấy các sự dịch chuyển từ các giá trị duy vật sang hậu-duy vật xảy ra trong ba mươi ba xã hội thêm không được phủ trong Hình 4.4, từ khảo sát sớm nhất sẵn có cho đến khảo sát muộn nhất sẵn có. Trong một số trường hợp, khảo sát sớm nhất được tiến hành trong 1981, nhưng trong nhiều trường hợp khảo sát sớm nhất là trong 1989–91 và khảo sát muộn nhất trong 1999–2001, phủ một khoảng thời gian chỉ 10 năm (chúng tôi không bao gồm dữ liệu phủ ít hơn 10 năm). Chỉ 14 trong số các xã hội trong bảng này cho thấy các sự dịch chuyển dương, 18 xã hội cho thấy các sự dịch chuyển âm (xa khỏi các giá trị hậu duy vật), và hướng của các sự dịch chuyển này phản ánh các mức thu nhập quốc gia.

Trong Bảng A-6 các dấu hoa thị (*) xuất hiện cạnh tên của các nước “thu nhập-cao” – các nước với thu nhập trên đầu người nhiều hơn 15.000 $ trong năm 2000 (sử dụng các ước lượng ngang sức mua của World Bank). Đủ 10 trong số 14 xã hội thu nhập cao cho thấy các sự dịch chuyển dương trong thời kỳ này. Số này không bao gồm 9 nước thu nhập cao thêm mà đã được phân tích sớm hơn; tính cả chúng, 19 trong số 23 nước thu nhập cao mà chúng ta có dữ liệu đã di chuyển hướng tới sự nhấn mạnh tăng lên đến các giá trị hậu duy vật. Nhưng 14 trong số 19 xã hội với thu nhập trên đầu người thực tế dưới 15.000 $ đã cho thấy các sự dịch chuyển âm. Nói cách khác, 83 phần trăm của các nước thu nhập cao đã dịch chuyển hướng tới chủ nghĩa hậu duy vật, bất chấp các khó khăn kinh tế của các năm 1990; nhưng 74 phần trăm của các nước ít thịnh vượng hơn đã dịch chuyển theo hướng ngược lại. Điều này là điển hình của hình mẫu nổi lên từ phân tích về sự thay đổi văn hóa trong các thập niên gần đây: những người sống trong các nước giàu đã di chuyển tới sự nhấn mạnh tăng lên đến các giá trị tự-thể hiện và hành vi liên kết với chúng. Nhưng thế giới như một toàn thể đã không di chuyển theo hướng này – ngược lại, các công chúng của các nước nghèo đã vẫn giữ sự nhấn mạnh của họ đến các giá trị sinh tồn. Do đó, các sự khác biệt giữa các thế giới quan của những người sống trong các nước giàu và nghèo đã tăng lên hơn là giảm xuống.

Các sự Khác biệt Giá trị giữa Thế hệ quanh Thế giới

Hình 4.5 cho thấy các khác biệt giữa thế hệ về các giá trị truyền thống/thế tục-duy lý giữa 7 nhóm sinh, sinh trong khoảng thời gian 70 năm từ 1907 đến 1976. Ở đây, chúng ta không còn xem xét các sự thay đổi theo thời gian nữa, mà đơn giản so sánh các giá trị của các nhóm sinh khác nhau. Bất cứ đồ thị nào thử vẽ các sự khác biệt tuổi giữa rất nhiều xã hội sẽ không thể đọc được, cho nên chúng tôi kết hợp các xã hội này thành 5 nhóm, dựa vào lịch sử kinh tế của chúng trong thế kỷ thứ hai mươi:[4]

Các nền dân chủ hậu công nghiệp có GDP đầu người trên 10.000$ (dựa vào các ước lượng ngang giá sức mua của World Bank trong năm 1995). Các nước này đã trải nghiệm sự tăng trưởng kinh tế đáng kể trong thế kỷ thứ hai mươi: theo dữ liệu từ các bảng Penn World (see http://pwt.econ.upenn.edu), GDP trên đầu người trung bình thực tế của chúng trong 1992 đã cao hơn mức trong 1950 đến 6,3 lần.

Các xã hội đang phát triển gồm tất cả các nước không-cộng sản với GDP trên đầu người thực tế từ 5.000$ đến 10.000$ một năm. Tăng trưởng kinh tế dài hạn của chúng đã ngang với tăng trưởng của các nền dân chủ hậu công nghiệp cho nên, về trung bình, khoảng cách thịnh vượng giữa các nền dân chủ hậu công nghiệp và các xã hội đang phát triển đã vẫn không đổi.

Các xã hội thu nhập-thấp gồm tất cả các nước không-cộng sản với GDP trên đầu người thực tế dưới 5.000$. Nhóm này đã trải nghiệm sự tăng trưởng dài hạn ít nhất, với GDP trên đầu người thực tế trong 1992 chỉ cao hơn 2,4 lần mức trong năm 1950. Các xã hội này đã nghèo từ lúc bắt đầu, và sự nghèo tương đối của chúng thực sự đã tăng lên trong quan hệ với thế giới hậu công nghiệp.

Các xã hội nguyên-cộng sản Tây phương, gồm các xã hội nguyên-cộng sản với một di sản Công giáo Roma hay Tin lành, thuộc hạng thu nhập-trung bình của World Bank (GDP từ 5.000$ đến 10.000$ trên đầu người). Trong 50 năm qua, các nền kinh tế của chúng đã tăng đáng kể, đến mức trong năm 1992 các mức thu nhập của chúng đã cao hơn 4,2 lần mức của chúng trong năm 1950. Hơn nữa, các xã hội này đã tìm được cách để chuyển đổi sang các nền kinh tế thị trường thành công hơn các nước nguyên-cộng sản Đông phương rất nhiều.

Các xã hội nguyên-cộng sản Đông phương gồm các xã hội với một di sản tôn giáo Chính thống giáo Đông phương hay Islamic, bao gồm tất cả các nhà nước kế vị Soviet (trừ ba nước cộng hòa Baltic) cộng thêm Albania, Bulgaria, Romania, Serbia, và Bosnia. Bắt đầu từ các mức thu nhập thấp trong các năm 1950, hầu hết các nước này đã đạt sự tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong vài thập kỷ, cho nên trong 1992 chúng đã có các mức thu nhập 7 lần cao hơn mức trong 1950. Nhưng các nước này đã trải nghiệm các khó khăn kinh tế tăng lên sau năm 1980, lên đỉnh điểm trong sự sụp đổ kinh tế của Liên Xô, mà đã mang lại sự giảm đột ngột thu nhập trên đầu người và thậm chí tuổi thọ trung bình giảm sút trong vài trường hợp.[5]

Như Hình 4.5 cho biết, những người trẻ là ít truyền thống hơn những người già rất nhiều trong các nền dân chủ hậu công nghiệp và trong các xã hội nguyên-cộng sản, đặc biệt các xã hội nguyên-cộng sản tây phương.[6] Nhưng chúng tôi tìm thấy rất ít xu hướng cho những người trẻ để là thế tục hơn những người già trong các xã hội đang phát triển, và không xu hướng như vậy chút nào trong các xã hội thu nhập thấp, mà đã trải nghiệm ít sự tăng trưởng kinh tế thực tế kể từ 1950. Sự thay đổi về các điều kiện kinh tế xã hội có vẻ đóng một vai trò đáng kể trong các sự khác biệt ngang các nhóm sinh, nhưng đó chỉ là một phần của câu chuyện. Lưu ý rằng các nhóm sinh già hơn trong các xã hội nguyên-cộng sản cả tây phương và đông phương có các giá trị thế tục-duy lý nhiều hơn các nhóm già hơn trong bất kể kiểu xã hội khác nào. Trong cả hai kiểu xã hội nguyên-cộng sản, các năm hình thành của những người già được đặc trưng bởi sự tăng trưởng kinh tế nhanh trong một thời đại khi chủ nghĩa cộng sản có vẻ vượt qua chủ nghĩa tư bản. Hơn nữa, họ đã phải chịu các chiến dịch mạnh mẽ để xóa bỏ tôn giáo và các giá trị truyền thống. Vì vậy, chúng ta tìm thấy các sự khác biệt giá trị dốc đứng giữa các nhóm già hơn và trẻ hơn trong các xã hội nguyên-cộng sản. Nhưng trong hai thập niên qua, các xã hội này trải nghiệm sự trì trệ kinh tế và sự nhiệt tình ý thức hệ suy giảm. Các sự khác biệt giữa thế hệ phẳng ra và hầu như biến mất giữa những người trẻ. Điều này đặc biệt đúng trong các xã hội nguyên-cộng sản đông phương (hầu hết nguyên-Soviet và Chính thống giáo); trong các nước nguyên-cộng sản tây phương (hầu hết Công giáo) độ dốc phẳng ra, nhưng các nhóm sinh trẻ nhất trong nhóm tây phương là thế tục hơn các nhóm sinh trẻ nhất ở nhóm Đông phương một cách đáng kể. Ngược lại, các nhóm già nhất giữa các xã hội hậu công nghiệp cho thấy các giá trị truyền thống hơn các nhóm già nhất trong các xã hội nguyên-cộng sản rất nhiều. Nhưng các xã hội hậu công nghiệp cho thấy một độ dốc đứng dốc hơn mà tiếp tục lâu hơn, cho nên các nhóm trẻ nhất của chúng là thế tục như các nhóm trẻ nhất trong các xã hội nguyên-cộng sản đông phương.[7]

Hình mẫu trong Hình 4.5 nhất quán với kỳ vọng mà chúng ta phải tìm thấy các sự khác biệt giá trị giữa thế hệ lớn nhất trong các xã hội đã trải nghiệm tuổi thọ trung bình tăng lên và sự tăng trưởng kinh tế dài hạn, và các sự khác biệt giá trị giữa thế hệ nhỏ hơn trong các xã hội chỉ bắt đầu làm vậy.

Hình 4.6 cho thấy các mức giá trị sinh tồn/tự-thể hiện giữa 7 nhóm sinh trong 5 kiểu xã hội. Lại lần nữa, chúng ta tìm thấy các sự khác biệt giữa thế hệ dốc nhất trong các xã hội hậu công nghiệp và trong các xã hội nguyên-cộng sản cả tây phương và đông phương, các sự khác biệt giữa thế hệ khiêm tốn trong các xã hội đang phát triển, và hầu như không sự khác biệt nào giữa các giá trị của các nhóm già hơn và trẻ hơn trong các xã hội thu nhập-thấp. Nhưng Hình 4.6 tương phản với Hình 4.5 trong một khía cạnh quan trọng. Các xã hội nguyên-cộng sản đông phương xếp hạng thấp hơn các xã hội khác rất nhiều về hội chứng của sự tin cậy, sự khoan dung, sự an lạc chủ quan, hoạt động công dân, và sự tự-thể hiện mà tạo thành chiều chính thứ hai này của sự biến thiên ngang-văn hóa. Điều này có vẻ phản ánh các tác động thời kỳ liên kết với khủng hoảng đau thương trong các xã hội này: trong thập niên qua tất cả các xã hội nguyên-cộng sản đông phương đã trong hỗn loạn, với nhân dân của các nhà nước kế vị Soviet trải nghiệm sự sụp đổ của các hệ thống kinh tế, chính trị, và xã hội của họ. Cuộc sống đã bất an và không thể tiên đoán được. Như thế, mặc dù chúng ta tìm thấy một độ đốc giữa thế hệ tương đối dốc, gợi ý rằng xu hướng dài hạn trong 60 năm qua đã là xu hướng trong đó đời sống của nhân dân trở nên ngày càng an toàn, nhân dân của các xã hội nguyên-cộng sản đông phương bây giờ nhấn mạnh các giá trị sinh tồn thậm chí còn mạnh hơn nhân dân của các xã hội thu nhập-thấp. Nói cách khác, chúng tôi tìm thấy các tác động thời kỳ xếp chồng lên các tác động nhóm tuổi.

image

HÌNH 4.6. Các sự khác biệt thế hệ về các giá trị sinh tồn/tự-thể hiện trong 5 kiểu xã hội.

 

Sự yếu của các giá trị tự-thể hiện trong các xã hội nguyên-cộng sản đông phương được phản ánh trong sự thiếu dân chủ nổi bật trong các nước này (Rose, 2001). Như Chương 8 chứng minh, các giá trị tự-thể hiện có một tác động to lớn lên mức độ mà nền dân chủ đích thực nổi lên trong một xã hội. Và sự yếu tương đối của các giá trị tự-thể hiện trong các xã hội nguyên-cộng sản đông phương tiên đoán chính xác các thiếu sót của chúng về dân chủ. Các xã hội nguyên-cộng sản tây phương, ngược lại, cho thấy sự nhấn mạnh rõ rệt hơn lên các giá trị tự-thể hiện, và đã đạt các định chế dân chủ hiệu quả hơn các xã hội nguyên-cộng sản đông phương rất nhiều, như chúng ta sẽ thấy. Các xã hội hậu công nghiệp cho thấy sự nhấn mạnh lớn nhất hơn hẳn lên các giá trị tự-thể hiện, và chúng tạo thành hầu hết các nền dân chủ đích thực. Ngược lại, các giá trị tự-thể hiện yếu dẫn đến hoặc các chế độ phi-dân chủ (như trong hầu hết các xã hội thu nhập-thấp) hay các nền dân chủ phi hiệu quả (như trong hầu hết các xã hội nguyên-cộng sản đông phương).

Bởi vì chúng tôi chỉ có dữ liệu từ các khảo sát 1990 và 1995 cho hơn một nửa các xã hội này, chúng tôi không thể thực hiện loại phân tích nhóm tuổi mà cho phép chúng tôi tách các tác động của các thay đổi dài hạn và ngắn hạn này. Sự thực rằng các xã hội nguyên-cộng sản đông phương hiện nay xếp hạng thấp đến vậy gợi ý rằng sự sụp đổ kinh tế và chính trị đã có một tác động đáng kể. Bằng chứng Từ Khảo sát các Giá trị 1981 (trong đó khu Tambov, một khu đại diện của nước Nga, đã là xã hội cộng sản phương đông duy nhất được bao gồm) gợi ý rằng các xã hội này đã có các mức an lạc chủ quan trong 1981 cao hơn chúng có hiện nay rất nhiều. Các mức an lạc tổng thể đã xói mòn đột ngột với sự sụp đổ của các hệ thống cộng sản, hầu hết số đó bây giờ cho thấy các mức an lạc chủ quan dưới xa mức của các nước thu nhập thấp. Bởi vì an lạc chủ quan là một thành phần lõi của chiều giá trị này, chúng tôi nghi rằng sự nhấn mạnh rõ rệt lên các giá trị sinh tồn hiện thời cho thấy bởi nhóm nguyên-cộng sản đông phương trong Hình 4.7 liên kết với sự sụp đổ của hệ thống kinh tế và xã hội trong các xã hội này.

Có ít bằng chứng về sự thay đổi giữa thế hệ trong các xã hội thu nhập-thấp; sự yếu của các sự khác biệt liên quan đến tuổi gợi ý một sự nhấn mạnh tiếp tục lên các giá trị sinh tồn bởi đa số áp đảo của nhân dân của chúng suốt nhiều thập niên qua. Trong các xã hội nguyên-cộng sản đông phương, ngược lại, chúng tôi tìm thấy các dấu hiệu rằng các nhóm sinh liên tiếp đã trải nghiệm các mức tăng lên của sự an toàn kinh tế cho đến các tác-động-thời-kỳ to lớn liên kết với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản đã kéo tất cả chúng xuống đột ngột.

Hình 4.7 cho thấy các sự khác biệt thế hệ trong các nước chọn lọc, vẽ nơi các nhóm tuổi khác nhau từ khảo sát sẵn có mới nhất rơi trên bản đồ hai-chiều của chúng tôi. Tây Đức[8] cho thấy vài trong số các sự khác biệt lớn nhất liên quan đến tuổi của bất cứ nước nào trên thế giới, và các giá trị của các nhóm sinh tương ứng của nó mở rộng ra ngang bản đồ văn hóa, với nhóm già nhất được định vị gần trung tâm bản đồ, và nhóm trẻ nhất gần góc đông bắc (chúng tôi đã phải mở rộng các ranh giới bắc và đông được dùng trên các bản đồ sớm hơn nhằm để vẽ các vị trí của các nhóm tuổi trẻ nhất Tây Đức và Thụy Điển. Sáu nhóm tuổi Tây Đức phản ánh sáu thập niên của các kinh nghiệm hình thành khác nhau: hai nhóm già nhất đã trải nghiệm Đại Suy thoái (mà đã nghiêm trọng ở Đức hơn ở bất cứ nước khác nào) và sự tàn phá và tổn thất to lớn về sinh mạng của Chiến tranh Thế giới II. Bốn nhóm tuổi sau-chiến tranh đã lớn lên trong một nước Đức mà đã trở thành một trong các xã hội thịnh vượng nhất trên thế giới với một trong các nhà nước phúc lợi tiên tiến nhất và một trong các nền dân chủ ổn định nhất.

Chúng tôi cũng tìm thấy các khoảng cách lớn đặc biệt giữa các giá trị của các nhóm trẻ nhất và già nhất ở Tây Ban Nha và Hàn Quốc. Trong cả hai trường hợp, các nhóm tuổi già nhất đã lớn lên trong các nước khác với nước họ sống bây giờ. Thời thơ ấu của họ đã ở trong các chế độ chuyên quyền không ổn định mà đã có các tiêu chuẩn sống thấp và tuổi thọ trung bình thấp; bây giờ họ sống trong các nền dân chủ thịnh vượng và ngày càng ổn định.

 

image

HÌNH 4.7. Các sự khác biệt thế hệ trên bản đồ văn hóa. Mỗi mũi tên chạy từ nhóm tuổi già nhất đến trẻ nhất.

 

Pháp, Anh, Thụy Điển, và Hoa Kỳ cũng cho thấy các sự khác biệt giữa thế hệ ít hơn nhưng đáng kể. Và ba xã hội nguyên-cộng sản được xem xét ở đây – Nga, Trung Quốc,[9] và Romania – cũng cho thấy các sự khác biệt giữa thế hệ đáng kể, tuy không lớn như ở Đức, Tây Ban Nha, và Hàn Quốc. Trong hầu như mọi trường hợp nơi sự thay đổi giữa thế hệ xảy ra, có vẻ di chuyển hướng tới sự nhấn mạnh tăng lên đến các giá trị cả thế tục và tự-thể hiện.

Nhưng các sự khác biệt giữa thế hệ không phải là một hình mẫu phổ quát. Ấn Độ (India), Nigeria, và Tanzania cho thấy không xu hướng rõ nào: các sự khác biệt giữa một nhóm tuổi và nhóm khác là đủ nhỏ để được quy cho lỗi lấy mẫu, và chúng nảy từ một hướng sang hướng khác, cho thấy rất ít chuyển động thuần. Pakistan và Zimbabwe cho thấy sự chuyển động thuần nào đó hướng tới sự nhấn mạnh tăng lên đến các giá trị tự-thể hiện, nhưng khiêm tốn.

Kết luận

Các sự thay đổi giá trị giữa thế hệ phản ánh các thay đổi lịch sử trong các điều kiện sinh tồn của một xã hội. Còn xa mới là phổ quát, các thay đổi này được tìm thấy chỉ trong các xã hội trong đó các thế hệ trẻ hơn đã trải nghiệm các điều kiện hình thành khác đáng kể với các điều kiện mà đã định hình các thế hệ già hơn.

Phân tích nhóm tuổi và các so sánh giữa thế hệ cho biết rằng chúng ta đang chứng kiến một quá trình từ từ của sự thay đổi giá trị giữa thế hệ liên kết với sự phát triển kinh tế xã hội, phản ánh sự thực rằng các điều kiện sinh tồn ngày càng thuận lợi có khuynh hướng làm cho mọi người ít phụ thuộc vào tôn giáo và dẫn họ để đặt sự nhấn mạnh tăng lên đến sự tự-thể hiện. Các phát hiện này củng cố bằng chứng từ Chương 2, mà đã chứng minh rằng các công chúng của các xã hội giàu chắc có khả năng hơn nhiều để nhấn mạnh các giá trị thế tục-duy lý và các giá trị tự-thể hiện so với các công chúng của các xã hội thu nhập-thấp. Ngoài ra, các phát hiện hội tụ với bằng chứng chuỗi thời gian liên quan đến các thay đổi về các giá trị hậu duy vật được trình bày trong chương này, và bằng chứng chuỗi thời gian liên quan đến nhiều biến khác được trình bày trong chương tiếp theo. Một khối bằng chứng khổng lồ, sử dụng ba cách tiếp cận khác nhau – các so sánh các nước giàu và nghèo, các so sánh thế hệ, và bằng chứng thời gian từ hai thập niên qua – tất cả đều chỉ ra kết luận rằng các sự thay đổi văn hóa lớn đang xảy ra, và chúng phản ánh một quá trình về sự thay đổi giữa thế hệ, liên kết với các mức an toàn sinh tồn tăng lên.


[1] Tuy vậy, sự thay thế dân cư giữa thế hệ có khuynh hướng cho ấn tượng đó: khi các nhóm tuổi trẻ hơn với các giá trị ngày càng hiện đại thay thế các nhóm tuổi già hơn với các giá trị tương đối truyền thống, nhóm tuổi sinh trẻ nhất có khuynh hướng đi từ việc có các giá trị hiện đại nhiều hơn các nhóm tuổi khác, sang việc có ít các giá trị hiện đại hơn các nhóm tuổi khác – không bởi vì các giá trị của chúng đã thay đổi, mà bởi vì các nhóm tuổi với ít các giá trị hiện đại đã chết đi.

[2] Các phân tích trong Hình 4.4 bao gồm tất cả các xã hội hậu công nghiệp đã được khảo sát trong các đợt thứ nhất, thứ hai, và thứ tư của các Khảo sát Giá trị; chúng gồm Bỉ, Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đại Anh, (Tây) Đức, Ireland, Italy, Nhật Bản, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển, và Hoa Kỳ.

[3] Phụ lục Internet có thể tìm thấy tại http://www.worldvaluesurvey.org/publications/

humandevelopment.html.

[4] Xem Phụ lục Internet (#67 dưới Variables) để kiểm tra việc các nước của mẫu các Khảo sát Giá trị được sắp xếp như thế nào vào sự phân loại năm nhóm này.

[5] Chỉ báo tốt nhất về an toàn sinh tồn trong các năm hình thành của người ta là các mức tuổi thọ trung bình của một nước từ 1900–10 (trong thời tuổi thơ của những người trả lời già nhất của chúng tôi) cho đến hiện nay. Mặc dù chúng tôi không có dữ liệu chuỗi-thời gian như vậy cho hầu hết các nước, chúng tôi có biết rằng các tuổi thọ trung bình đã tương đối thấp một thế kỷ trước và đã tăng lên đầy kịnh tính trong tất cả các xã hội mà đã trải nghiệm sự tăng trưởng kinh tế, đã cải thiện chế độ ăn uống và chăm sóc y tế, và các nhân tố liên quan. Ngay cả ở Hoa Kỳ (là xã hội giàu nhất trên trái đất rồi), tuổi thọ trung bình trong năm 1900 đã chỉ là 48 năm; một thế kỷ sau, nó đã tăng lên 78 năm. Tất cả các xã hội với các tuổi thọ trung bình cao ngày nay đã trải nghiệm những sự tăng lớn về sự an toàn kể từ 1900. Bởi vì tuổi thọ trung bình là chỉ báo khách quan tốt nhất của chúng ta về an toàn sinh tồn, điều này gợi ý rằng cảm giác thịnh hành về an toàn sinh tồn phải cũng đã tăng lên trong các nước này. Nếu điều này đúng, chúng ta kỳ vọng để tìm thấy các tương quan mạnh giữa tuổi thọ trung bình của một xã hội cho trước và độ lớn của các sự khác biệt giá trị giữa thế hệ trong xã hội đó. Chúng tôi có tìm thấy. Các sự khác biệt giá trị giữa thế hệ là lớn nhất trong các xã hội với các tuổi thọ trung bình cao nhất. Ngang 61 xã hội, tương quan giữa tuổi thọ trung bình 1995 và độ lớn của các sự khác biệt giữa thế hệ trong các giá trị truyền thống/thế tục-duy lý là 0,56, có ý nghĩa thống kê ở mức 0,000. Và tương quan giữa tuổi thọ trung bình và các giá trị sinh tồn/tự-thể hiện là 0,41, có ý nghĩa ở mức 0,001. Mặc dù các điều kiện trong các xã hội nguyên-cộng sản đông phương đã xấu đi đột ngột trong những năm gần đây, suốt phần lớn thế kỷ thứ hai mươi các tuổi thọ trung bình đã tăng lên đáng chú ý không chỉ trong các xã hội hậu công nghiệp mà cả trong hầu hết các nước cộng sản nữa.

[6] Vài nước thu nhập thấp được bao gồm trong các Khảo sát Giá trị trước các đợt 1995–97 hay 1999–2001. Vì thế, chúng tôi hạn chế các phân tích trong các Hình 4.5 và 4.6 cho dữ liệu trên hai đợt này, nhằm để so sánh các nhóm sinh từ các kiểu xã hội khác nhau đồng thời. Xem Phụ lục Internet, Variables, #67 cho việc các nước cho trước được nhóm lại như thế nào trong năm loại này.

[7] Các xã hội với các giá trị truyền thống cũng có các tỷ lệ sinh cao hơn xã hội với các giá trị thế tục-duy lý rất nhiều, mà có nghĩa rằng các giá trị truyền thống vẫn phổ biến bất chấp các lực hiện đại hóa. Chỉ số các giá trị truyền thống/thế tục-duy lý của chúng tôi cho thấy một tương quan âm mạnh với các tỷ lệ sinh 1995 của các xã hội này (r = –0,75). Ngày nay, hầu hết các xã hội công nghiệp có các tỷ lệ sinh dưới mức thay thế dân cư. Tại Đức, Nga, Nhật Bản, Tây Ban Nha, và Italy, phụ nữ trung bình thuộc tuổi sinh con bây giờ sinh từ 1,2 đến 1,6 con (2,1 là tỷ lệ thay thế). Ngược lại, các xã hội thu nhập-thấp tiếp tục có các tỷ lệ sinh cao hơn nhiều (một phần, do tỷ lệ sinh sản cao được cổ vũ bởi các giá trị truyền thống). Tại Nigeria, thí dụ, phụ nữ trung bình hiện thời sinh 5,5 con, và có con sớm hơn trong đời, làm cho khoảng cách giữa các thế hệ ngắn hơn. Sự khác biệt khả năng sinh sản giữa các xã hội công nghiệp và đang phát triển là lớn đến mức chúng ta tìm thấy hai xu hướng có vẻ không tương thích: hầu hết các xã hội đang công nghiệp hóa, và công nghiệp hóa có khuynh hướng mang lại các thế giới quan ngày càng thế tục; nhưng ngày nay có nhiều người hơn bao giờ hết giữ các giá trị truyền thống. Trong 1970, 73 phần trăm dân số thế giới sống trong các nước đang phát triển, và 27 phần trăm sống trong các nước đã phát triển. Vào năm 1996 các nước đã phát triển chiếm chỉ 20 phần trăm dân số thế giới; vào 2020 chúng sẽ chiếm khoảng 16 phần trăm dân số thế giới (U.S. Bureau of the Census, 1996). Nhân dân của các nước đã phát triển nhất có các giá trị ngày càng hiện đại, nhưng các xã hội của họ chiếm một phần giảm dần của dân số thế giới.

[8] Chúng tôi tiếp tục phân tích dữ liệu từ khu vực tây của Cộng hòa Liên bang Đức tách biệt khỏi dữ liệu từ khu vực đông (Cộng hòa Dân chủ Đức trước kia), bất chấp sự thực rằng Đức đã thống nhất trong 1990. Chúng tôi làm vậy bởi vì các kinh nghiệm hình thành của hai công chúng đã khác nhau một cách đáng kể, và các sự khác biệt này tiếp tục được phản ánh trong các giá trị và các niềm tin của họ.

[9] Mặc dù Trung Quốc tiếp tục bị cai trị bởi một đảng cộng sản, nền kinh tế và văn hóa của nó đã di chuyển khỏi mô hình cộng sản kể từ 1978 – đến điểm nơi hơn một nửa sản lượng (output) của nó bây giờ được sản xuất trong khu vực thị trường. Theo nghĩa này, Trung Quốc tạo thành một nước nguyên-cộng sản khác.

Comments are closed.