Vũ Thư Hiên
Chung cư tôi rặt người già. Hoạ hoằn mới nghe tiếng trẻ con. Gia đình đông con thường ở căn hộ hai phòng, nhưng hiếm. Mà họ cũng chỉ ở tạm một thời gian ngắn rồi chuyển đi, chắc hẳn do tính chất đặc thù không tên của nơi ở.
Như cư dân thành phố, ở đây nhà nọ không biết nhà kia, nhà nọ chẳng quan tâm nhà kia. Một sự kiến giả nhất phận hoàn hảo.
Nhà ở đây có nghĩa là căn hộ, phần nhiều là phòng đơn, tròm trèm 30 thước vuông, có bếp kiểu Mỹ, có phòng vệ sinh, có ban công. Người già ở phòng đơn bề ngoài có vẻ cô độc, nhưng ngó kỹ thì thấy họ chẳng hề cô đơn. Mỗi người đều có việc của mình để bận rộn – người thì giao tiếp với thế giới qua tivi, internet, người thì hằng ngày đến cơ quan trợ giúp xã hội xem lịch chiếu bóng để xin vé, người tìm các chuyến du lịch giá rẻ, người đi bể bơi, đến phòng thể dục, có người thì cả ngày bát phố dán mũi vào tủ kính lời khuyên của bác sĩ. Bà hàng xóm cùng tầng tôi nuôi một con chó nhỏ, nói chuyện với “con trai” bằng giọng ngọt xớt, dắt nó đi dạo ngày vài buổi, đúng giờ như đồng hồ Thuỵ Sĩ. Sự tiếp xúc giữa cư dân gói gọn trong lời chào lịch sự mà các dịch giả nước ta thường dịch sát nghĩa là “chào buổi sáng”, “chào buổi tối”. Thường có sự lầm lẫn giữa chào sáng với chào tối ở những người quá già yếu thảng hoặc mới gặp nhau ở hành lang lúc nào điện cũng sáng trưng.
Không cùng tầng với tôi, có hai ông già cặp kè như hình với bóng: nhà giáo Cuba có cái tên dài thòng khó nhớ là Ricardo Gonzalez del Monte, ông kia là nhà báo Iran có tên dễ nhớ hơn là Bahar Mahdavi. Gặp nhau riết, chào nhau thường, tôi quen cả hai. Quen là quen thế thôi, thân không thân, sơ cũng không sơ. Năm thì mười hoạ bộ đôi này kéo thêm tôi vào, cho nó vui. Nếu tình cờ gặp nhau ở cái công viên bé tẹo gần nhà có tên là “Thiên đường nhỏ”, chúng tôi chuyện vãn về đủ mọi thứ trên đời, từ thời tiết cho chí tin giờ chót trên ti vi. Trong cái thiên đường này có nhiều ghế sắt, nhiều cây, nhiều hoa, nhiều trẻ con chạy lăng xăng chơi đu, tụt cầu trượt, đánh đáo, vọc cát và la hét om sòm.
Nghe Ricardo Gonzalez del Monte kể thì ông từng có một tuổi trẻ hào hùng – chính ông đã cùng Fidel Castro và Che Guevara huyền thoại tấn công pháo đài Moncada năm 1953, cùng lắc lư với họ trên con thuyền Granma lịch sử tiến vào Cuba năm 1956.
Trong bức ảnh được đăng trên các báo thế giới về sự sụp đổ của chính thể Batista năm 1959, có hình ông đứng bên Fidel Castro vẫy chào đoàn quân chiến thắng. Bức ảnh này ông không có để cho tôi xem, nhưng Mahdavi nói ông đã được xem đâu đó. Khi Gonzales bị tống vào trại Combinado del Este thì chính quyền cách mạng ra lệnh xoá cho bằng hết hình ảnh của ông trong mọi thư viện, mọi kho lưu trữ.
Trại Combinado del Este này có tên trong danh sách những trại giam nổi tiếng nhất thế giới.
– Tôi ở đấy 9 năm – một hôm ông vui miệng kể.
– Kinh khủng là cái chắc, phải không? – tôi hỏi.
Ông lắc đầu, cười hiền:
– Nhiều người ở lâu hơn, vẫn sống nhăn.
Tôi chộp lấy dịp may:
– Ông kể coi. Hẳn có nhiều chuyện thú vị.
– Có gì mà kể – ông nhún vai – Nhà tù nào chả là nhà tù. Có xà lim, có trại lớn trại nhỏ. Có người nằm lại nghĩa trang tù, có người ra khỏi đó.
Gonzales ra tù với một con mắt hỏng. Vì sao nó hỏng ông không kể. Theo Mahdavi thì đó là hậu quả của tra tấn. Tra tấn là trò vui của những người được trao quyền đứng trên đồng loại.
Từ những cuộc trò chuyện hiếm hoi, tôi đoán quá khứ được giữ lại trong trí nhớ của ông không phải những năm ở tù, mà là cái khác. Là thời gian trong hàng ngũ nghĩa quân cách mạng. Là cuộc chiến đấu cho tự do. Là tình đồng chí thân thiết trong gian khổ. Chỉ có những kỷ niệm ấy mới hằn sâu, rõ nét, mới làm ông nhớ, hoặc muốn nhớ.
Gonzalez không thích kể chuyện ông đã chống chế độ độc tài Cuba như thế nào. Cái đó có lý của nó – chính ông là người chung tay làm ra nó mà. Bắt đầu bằng những thiên thần, cuộc cách mạng lý tưởng của ông trượt dài trên dốc tha hoá để thiên thần trở thành quỷ dữ. Mà cũng có thể ông bị giày vò bởi mặc cảm có tội. Hoặc ông ân hận vì chưa kịp làm được gì để lôi cuộc cách mạng của ông trở về thời khắc thiên thần. Khi cách mạng bực mình, nó tống ông vào tù quá nhanh.
Tôi rất muốn nghe về Combinado del Este. Nó là nhà tù lớn nhất, nghiêm nhặt nhất Cuba, dành riêng cho những người thường được gọi là bất đồng chính kiến hoặc ly khai. Bất đồng chính kiến hay ly khai là cách nói không đủ chính xác. Khi chính kiến không giống nhau thì người ta tranh luận, người ta cãi nhau, khi người ta không thích chung hàng thì người ta tách ra, chứ sao lại đi nhốt nhau vào tù. Tôi gợi chuyện nhiều lần, nhưng lần nào cũng vậy, không sao cậy được miệng người không muốn nói.
– Ở các nước Bắc Âu, người ta bảo, nhà tù có đủ tiện nghi như nhà ở, các ông ạ. Chỉ khác đã là tù thì không được ra ngoài thôi – một hôm khác tôi mơi, bằng cách bâng quơ chuyện khác, khá xa cái nhà tù của ông – Trong tù có phòng tập thể dục, có thư viện…
– Ờ… – Gonzalez hờ hững.
– Nhiều tù nhân theo học các khoá hàm thụ, ra tù thành tiến sĩ, khoa học gia… – tôi mơn tiếp – Có người tự học vẽ, rồi thành hoạ sĩ nổi tiếng. Tranh của anh ta đẹp, cơ mà tôi quên béng cái tên tay hoạ sĩ tài ba ấy rồi. Tuổi già thật đáng nguyền rủa. Lúc định nhớ thì không sao nhớ ra, lúc chẳng cần nhớ thì nó bật dậy. Không biết ở Cuba chế độ giam giữ nó thế nào?
– Ờ…
– Ở Bắc Triều Tiên nhà tù mới thật khủng khiếp, người ta tả – tôi không chịu rời đề tài – Đói đến nỗi tù nhân phải vặt cỏ mà ăn. Có người bị quỳ ngoài sân trong đêm đông, sáng ngày ra biến thành một cột băng…
– Có thật đấy. Tôi có được xem video một cô gái Triều Tiên vượt thoát khỏi đấy kể chuyện đời sống ở đấy thế nào. Không thể tưởng tượng nổi, các ông ạ. Khiếp lắm – Mahdavi trầm tư – Đặt Iliade và Odyssée của Homère bên cuộc phiêu lưu kinh hoàng của cô này thì nó thành chuyện con nít. Ở Trung Quốc của Mao Trạch Đông chắc cũng vậy. Nếu không hơn.
– Ở đấy họ còn mổ sống tù nhân lấy nội tạng nữa kìa – Gonzales húng hắng ho, chêm vào – Để bán cho bọn nhà giàu thay thận, thay tim ấy mà. Tàn bạo đến thế mới là kỷ lục. Lịch sử nhân loại chưa từng ghi một cái gì tương tự – lấy nội tạng ra ngoài khi con người đang sống. So với những nhà tù Trung Quốc thì Combinado del Este ở Cuba nếu chưa phải thiên đường thì cũng là một nửa thiên đường.
Lại một khía cạnh tâm lý lạ lùng – nếu ở nơi nào đó cuộc sống tù ngục còn tệ hơn so với nơi mình đã ở qua thì người ta thở phào, cảm thấy mình vẫn còn may.
Tôi giật tay áo ông:
– Thì ông kể đi. Xem cái nửa thiên đường của ông nó thế nào?
Gonzales vỗ vai tôi, giọng kẻ cả:
– Ông chúa tò mò. Biết lắm chóng già.
– Tụi mình đâu còn trẻ. Có già thêm một chút cũng chẳng sao. Kể đi cái nào.
– Tôi nói rồi, có gì mà kể – ông lắc cái đầu bù xù, nheo con mắt lành, trong khi con mắt đục vẫn mở – Ở mọi nhà tù xã hội chủ nghĩa, nơi nào mà chả vậy, chúng cùng một kiểu…
– Nhưng cũng vẫn có những cái khác nhau chứ? – tôi đế.
– Nhà tù xã hội chủ nghĩa đều có chung một mục đích – Mahdavi đỡ lời ông bạn già – Ấy là bằng mọi cách làm thui chột đến cùng ý chí chống đối chế độ trong đầu kẻ ương bướng. Cách ở nơi này có khác nơi kia, nhưng mục đích là một.
– Là tôi muốn biết cái khác ở nơi ông Gonzales từng ở kìa – tôi cãi – Chứ ai mà không biết ở đâu tù vẫn cứ là tù. Báo chí viết nhiều về Combinado del Este, không biết trong thực tế nó thế nào. Nghe chứng nhân kể chuyện vẫn thú hơn.
– Ông Mahdavi nói đúng đấy – Gonzales chậm rãi phán – Mục đích của sự trấn áp mới là cái quan trọng, mọi cái khác là chuyện vặt. Ông cứ đọc các hồi ký về cái sự ở tù xã hội chủ nghĩa sẽ thấy. Tôi có tả mấy cũng không bằng các nhà văn tả.
– Không đúng. Qua tay các biên tập viên nhà xuất bản, ông ơi, nó thành văn chương mất rồi – tôi thất vọng – Người trong cuộc kể nghe thú hơn nhiều. Nó nóng hổi, nó sống động. Tôi đã đọc nhiều hồi ký tù. Có nhiều cuốn rất thú vị vì người ta kể thực thà, có sao nói vậy. Nhưng cũng có nhiều cuốn đọc thấy nản, trong đó cái tôi của tác giả che lấp mọi cái mà mình muốn biết.
Mahdavi lẳng lặng nghe. Ông sống năm năm trong nhà tù Evin ở Teheran. Ông bị bắt vì tội viết hai bài báo phê phán những quyết định khắc nghiệt được giải thích bằng kinh Quran của giáo chủ Ayatullah Khomeini.
Nhà tù Evin nổi tiếng có phần còn hơn Combinado del Este. Nó không chỉ là nơi giam giữ những người chống đối chế độ Hồi giáo, mà còn là nơi giam giữ đủ mọi thứ tù lôm côm khác. Một anh nhà báo nước ngoài lang thang vô tình dừng lại trước cửa nhà tù này mới bấm có vài pô là đã bị lôi tuột vào trong. Không bị giam với thường phạm, anh ta bị đưa ngay vào khu 29 là khu đặc biệt hà khắc, dành riêng giam tù chính trị. Báo hại cả thế giới phải nhao nhao phản đối mấy tháng liền mới cứu được anh ta.
Gonzales vượt thoát Cuba bằng đường biển. Từ La Havana qua Mỹ gần xịch. Cái khó là làm sao để không bị rơi vào tay tàu tuần duyên Cuba. Ông không ở lại Mỹ vì ông trong sâu thẳm tâm hồn ông vẫn coi mình là một người cách mạng. Ông không muốn chung đụng với những người Cuba sống tụ bạ trong một Cuba Town nhộn nhịp ở Miami. Họ căm thù cộng sản đến tận xương tuỷ.
Thế là ông bỏ Miami, tìm đường sang Tây Ban Nha, nơi ông có đứa cháu gái con người em ruột cũng tị nạn ở đó. Người em chết sớm, đứa cháu gái cũng lại là kẻ ghét cay ghét đắng cộng sản, thế mới khổ. Hai bác cháu gấu ó nhau suốt ngày về chủ nghĩa cộng sản, về chủ nghĩa phát-xít, đến nỗi ông phát chán, phải bỏ Madrid chạy sang Paris.
– Gia đình ông vẫn ở Cuba?
– Vẫn. Ông có nghe về phong trào “Những người đàn bà áo trắng”?
– Không – tôi lắc.
– Đó là vợ những tù nhân chính trị phản kháng bằng một cách độc đáo. Họ mặc áo trắng, đi lũ lượt từng đoàn qua các phố La Havana. Không truyền đơn, không khẩu hiệu, không băng-rôn, không gì hết, chỉ đi trong im lặng, cứ thế mà đi hết phố này qua phố khác. Có cách đấu tranh bất bạo động lạ thế đấy. Nó làm chính quyền lúng túng, không biết nên trấn áp họ bằng cách nào.
– Hay thật – tôi nói.
– Rồi người ta cũng bỏ tù vài người mà họ cho là khởi xướng. Bà nhà tôi ở trong số đó.
Nói đến vợ, con mắt còn lại của Gonzales ướt nhoè.
– Ông vẫn liên lạc được với gia đình?
– Không. Bà nhà tôi chỉ bị giam vài tháng. Rồi mất trước khi tôi ra tù. Nghe đâu bị một chiếc xe tải tông phải.
Tôi không hỏi thêm. Tai nạn xe cộ thường xảy ra ở những nước độc tài với những người mà chính quyền không ưa. Báo chí thế giới đăng nhiều vụ tương tự.
– Tôi còn đứa con gái. Nó lấy chồng, một quan chức to, ông ạ. Nó không thèm liên lạc với bố nữa.
Ông thở dài. Tôi hiểu. Chuyện đời mà.
Mahdavi may mắn hơn Gonzalez. Cuối cùng rồi ông cũng được chính quyền Iran phóng thích sau những cố gắng vận động của các hội nghề nghiệp. Lại cũng giống ở các nước độc tài khác nhau ở màu cờ sắc áo, sự phóng thích có điều kiện – ông phải bỏ xứ mà đi. Nghị hội Các Nhà văn Quốc tế mời ông đến ở Loire, một thành phố Pháp. Sau một năm ở Loire, ông chuyển về Paris, đến ở chung cư này.
Là nhà báo, Mahdavi tất nhiên yêu văn học. Qua trò chuyện, tôi được biết thêm: ông là một độc giả cực kỳ khó tính.
– Ông cũng không thích mấy cái hồi ký ấy à? – Mahdavi nói – Giống tôi đấy, tôi cũng thế,có những cuốn đọc không nổi. Nhiều hồi ký tù không phải là tác phẩm được viết ra cho cuộc đấu tranh vì đời sống, vì nhân phẩm. Cái quan trọng là phải miêu tả cái xã hội không còn có thể chịu đựng nổi để con người hiền lành nhất cũng phải dấn thân vào cuộc tranh đấu tìm đường sống thì các tác giả nọ quên bẵng mục đích, chỉ lo kể lể: ối giời ơi, trong tù tôi khổ lắm, vợ con tôi ở ngoài cũng khổ lắm lắm, các ông các bà ơi…
Mahdavi bao giờ cũng thế, dài giọng mỗi khi chê bai. May cho các nhà văn, ông không viết phê bình.
– Nói thực với ông, tôi rất ngán cái dòng văn học tố khổ – ông nói thêm – Là người đã qua cầu, mọi chuyện các vị ấy tả mình biết cả, mình thấy hết, tất tần tật. Nhưng câu hỏi được đặt ra là: có cần tốn nhiều giấy mực cho những miêu tả như thế không?
– Tả cảnh tù ở các nước độc tài cũng cần cho người đọc chứ.
– Một liều lượng vừa đủ thì được. Quá là hỏng. Chứ ai không hiểu trong chuyện này văn chương bất lực. Không sách nào có thể tả hết những gì người tù nếm trải.
– Vậy cái gì mới là quan trọng?
– Ông vẫn chưa hiểu? Là cái này này: sự miêu tả đến nơi đến chốn cái xã hội trong đó có sẵn, có đủ, mọi điều kiện để con người, kể cả những người hiền lành nhất, đưa chân vào tù. Họ sa vào đấy bằng đủ mọi đường, bằng đủ mọi cách: lừa đảo, trộm cướp, giết người… Là nói về những tội hình sự thôi. Ở đây ta đang nói tới những người vào tù vì muốn xoá bỏ cái xã hội tồi tệ ấy. Họ là những chiến sĩ tranh đấu cho tự do, cho con người được là người chứ không phải những tên nô lệ.
– Đúng vậy – Gonzales đồng ý – Cái môi trường sinh ra tội lỗi mới là cái cần được lột tả. Ở trong tù chúng tôi cũng đã có những cuộc tranh luận về đề tài này.
– Văn chương lải nhải về những cực khổ trong tù, tôi gọi nó là văn chương tố khổ, không phải cái chúng ta cần. Bị cuốn theo dòng hồi tưởng kinh hoàng của cuộc sống tù ngục, các tác giả của nó chết chìm trong những chi tiết cho dù rất kinh hoàng: trong tù có những kiểu tra tấn gì, cai tù hành hạ thế nào, chế độ ăn uống thế này, chỗ ở thế kia, gia đình mình ở ngoài bị phân biệt đối xử ra sao… Rất dài dòng. Mà vô ích. Ố là là, cái thứ ấy tôi ngấy đến tận cổ…
Người ít nói khi đã nói thì nói nhiều. Tôi phải lôi Mahdavi trở lại với chuyện tôi muốn nghe:
– Tôi đồng ý với ông – khi tác giả sa đà vào chuyện cái tôi quá nhiều ắt đi xa cái anh ta cần phải làm, cái mà người đọc muốn biết. Nhưng, với tư cách nhân chứng của Evin, ông thấy cái nhà tù ấy thế nào? Nó có khác các nhà tù khác từng được miêu tả trong các hồi ký không?
Mahdavi trân trân nhìn tôi:
– Ông đúng là cứng đầu. Cái gì cũng thích đi tới tận cùng. Tôi chưa có ý định viết về Evin, cho nên tôi không muốn nói trước những gì tôi sẽ viết. Có một điều ông thừa biết, chế độ độc tài nào thì cũng thế, nó coi những người không ưa nó là kẻ thù…
– Trừ ở những nước theo thể chế dân chủ.
– Chúng ta đang nói về những nước độc tài cơ mà. Ở đó không hề có pháp luật theo sự hiểu bình thường của nhân loại bình thường, là nơi chỉ có pháp luật do những kẻ cai trị đặt ra, và chính chúng cũng chẳng thèm đếm xỉa đến thứ pháp luật ấy. Ở những nước như thế lối giam giữ đều na ná nhau, với vài dị bản nho nhỏ. Các ayatollah ở Iran cũng biết cách hành hạ kẻ thù không kém gì các Fidel Castro. Những quốc gia độc tài và phần thế giới còn lại là hai thực thể rất khác biệt.
– Ngay trong số các quốc gia độc tài cũng có sự khác biệt, Iran của ông và Cuba của Gonzales. Chúng không giống nhau – tôi nói.
– Chúng chỉ khác nhau về tôn giáo mà thôi – Mahdavi khẳng định chắc nịch – Iran theo đạo Hồi, Cuba theo đạo cộng sản.
Gonzales nhăn nhó:
– Ông nói bậy rồi, chủ nghĩa cộng sản không bao giờ là một tôn giáo. Nó là một lý thuyết.
Trong chuyện này Gonzales rất giống mấy ông bạn trotskiste mà tôi quen. Họ kịch liệt chống chủ nghĩa cộng sản kiểu Stalin, nhưng khăng khăng bảo vệ chủ nghĩa cộng sản kiểu Trotsky. Họ miêu tả thời Stalin như một “cuộc cách mạng bị phản bội” so với thời Lenin, trong khi người ta đã có đủ bằng chứng là cả hai đều giống nhau, đều chủ trương một nền độc tài gọi là chuyên chính vô sản.
– Cái xã hội mà người cộng sản muốn dựng nên giống hệt một tu viện, ông không thấy thế sao? – Mahdavi phản bác – Họ muốn mọi người phải sống theo cách mà chưởng quản tu viện, tôi muốn nói tay tổ của cái đảng ấy đặt ra, bắt dân chúng phải tôn thờ Chúa mà cái đảng ấy tôn thờ. Đúng thế không nào?
– Là tôi nói cái khác, cái chủ nghĩa cộng sản mà Marx và Engels khởi xướng, với tư cách một lý thuyết được đúc kết từ những nghiên cứu xã hội học – Gonzalez càu nhàu – Gọi nó là tôn giáo sao được.
– Nhưng cái lý thuyết ấy được áp dụng trong đời sống ở các nước cộng sản thì đúng là như vậy đấy, bạn thân mến ạ. Họ chắt lọc cái tinh tuý, cái cốt lõi của nó đem áp dụng vào thực tại đấy – Mahdavi hiền lành khẳng định – Là cái gọi là chuyên chính vô sản đấy, bất kể những người vô sản có muốn nó hay không. Nhà cầm quyền cộng sản cố tình quên phần dễ thương trong lý thuyết ấy, một ước mong cho dù chỉ là ảo vọng về một xã hội không có người bóc lột người, sống trong tự do và hạnh phúc, mà biến nó thành một ban thờ bắt buộc cho mọi thần dân. Sau lưng đám thần dân bị tọng đầy thuốc lú vào họng, những tên đao phủ khoác áo thầy tu mặc sức kiếm chác – cả quyền lực, cả tiền tài, cả danh vọng. Tôi biết chắc là như thế, cho dù tôi chưa từng sống ở một nước được gọi là cộng sản nào. Mà thôi, tranh luận làm gì, về chuyện này hiểu biết của ông hơn đứt tôi.
Gonzales ngả lưng vào tựa ghế, mắt lim dim nhìn trời. Rõ ràng ông nén một tiếng thở dài. Hai người bạn già thỉnh thoảng lại có những cuộc cãi vã nho nhỏ.
Y như ông bạn Cuba, Mahdavi cũng không muốn kể chuyện tù. Ông nói nhiều về cái khác chỉ để đánh trống lảng.
Tôi hiểu họ, cả hai đều là kẻ chiến bại trong cuộc chiến đấu cho tự do. Nói nhẹ đi, họ là những người khốn khổ trong tâm trạng chiến bại, thấy mình chẳng làm được cái gì, hoặc chưa làm được cái gì cho ra hồn. Ai là người muốn kể về việc làm của mình với kết quả chẳng thành, hoặc chưa thành? Thất bại nào mà chả cay đắng.
Gonzales đay:
– Ông cũng là cộng sản mà nói thế đấy nhá.
Mahdavi vặc lại:
– Bậy nào. Tôi là cộng sản hồi nào? Tôi là ngòi bút tự do. Tôi không công nhận bất kỳ chế độ độc tài nào, cộng sản hay kẻ thù của cộng sản. Ông đừng tròng cái thòng lọng bẩn thỉu ấy vào cổ tôi. Ông ấy, ông mới là cộng sản.
Tôi can:
– Ông ấy cũng bị nhà nước cộng sản bỏ tù mà.
– Thì thế! – Mahdavi mặt sa sầm, quay đi.
Tôi là người kể chuyện không thích thêm mắm muối. Tôi tường thuật một cuộc đối thoại mẫu của hai ông bạn già chỉ để diễn đạt điều khó hiểu đối với tôi: hai người có hai quá khứ khác hẳn nhau về tư tưởng chính trị không hiểu sao lại có thể trở thành bạn, lại là bạn thân. Có phải vì cả hai đang phải ăn nhờ ở đậu một nước thứ ba, nơi rộng lượng chứa cả hai – cả ông cộng sản bị cộng sản bỏ tù lẫn ông không cộng sản bị nước ghét cộng sản bỏ tù?
Đấy mới thật sự là nghịch lý.
Cái chung cư của chúng tôi là một chung cư bình thường trong rất nhiều chung cư bình thường ở thành phố. Người ngoài tinh ý thì thấy có sự không bình thường – nó chỉ dành cho người rất già, phần nhiều là di dân. Số người như hai ông bạn tôi, có căn cước tị nạn chính trị, không có bao nhiêu. Từ từ, từng người một, hoặc hai người một, những cư dân cũ lặng lẽ ra đi, nhường chỗ cho người mới. Tôi chỉ biết người nào đã ra đi khi thấy hòm thư của ai đó bị dỡ bỏ tung toé vào một ngày nào đó và cái tên cũ trên hòm thư được thay thế bằng một tên mới.
Một hôm tôi nghe tiếng chuông cửa. Nhòm qua lỗ kính thì thấy Mahdavi.
Ông quệt mũi, nghẹn ngào:
– Gonzales đi rồi.
Tôi không ngạc nhiên. Nhưng giật mình. Tin về cái chết bao giờ cũng bất ngờ. Người ta thường đinh ninh mọi việc dưới vòm trời hôm nay vẫn như hôm qua. Tuần trước, tôi còn gặp Gonzales bá vai Mahdavi đi về phía Thiên đường nhỏ.
– Ông tiễn ông ấy chứ?
– Nhất định rồi.
– Tôi sẽ gọi ông nhé?
– OK.
Những người không có thân nhân làm tang thì nhà nước làm tang. Lệ ở nước Pháp là thế.
Chi phí cho một tang lễ không rẻ. Nhà càng giàu tang lễ càng lớn. Người ta đặt tang lễ cho mình trong khi còn đủ sức đi du hí vòng quanh trái đất. Những công ty tang lễ rất tôn trọng hợp đồng, lo đến từng chi tiết: chôn ở đâu hay hoả táng, người đặt hàng chọn quan tài nào, hoa gì, nhạc sống hay nhạc máy, chơi bản nào trong đám tang, bản nào khi hạ huyệt… Tiền đất chôn rất đắt. Giá một nấm mồ có khi bằng cả một căn hộ sang trọng. Cứ đặt hàng là công ty lo tất. Rất chu đáo.
Tang lễ cho Gonzales tất nhiên do nhà nước chi. Nó xuềnh xoàng, nhưng không vì thế mà kém trang trọng.
Tôi ngỡ ngàng thấy trong đám tang có mặt một linh mục Thiên Chúa giáo trẻ măng, đẹp giai, giống một sinh viên hơn một thầy tu.
– Gonzales mới đây đã nhập đạo – Mahdavi ghé vào tai tôi – Đó là ước muốn cuối cùng của ông ấy.
Tôi hiểu. Khi không còn gì để tin thì người ta mới sực nhớ Chúa – đấng vô hình chỉ biết yêu thương.
Người đi đưa thưa thớt – vài người Cuba và Mỹ La-tinh, một bà đại diện cơ quan an sinh xã hội quận, mấy nhà báo hay viết về Cuba có quen biết người chết, Mahdavi đã từng gặp.
Không có điếu văn. Quan tài lặng lẽ trôi vào nơi hoả thiêu trong tiếng nhạc buồn của bản Requiem từ một cái cát-xét. Về đến chung cư, Mahdavi kéo tôi về phòng ông. Lần đầu tiên tôi bước vào căn phòng bề bộn sách báo ám mùi thuốc lá rẻ tiền này. Bên cái desktop Dell cổ lỗ chồng chất đủ thứ giấy má.
Thấy cái nhìn tò mò của tôi, Bahar Mahdvi đưa mắt chỉ cái bàn viết bề bộn:
– Toàn bản thảo là bản thảo.
Tôi ngó những dòng chữ Ả Rập ngoằn ngoèo:
– Có về nhà tù Evin chứ?
– Có chứ, nhưng rất ít. Về cuộc đời tôi là chính. Nó cũng là cuộc đời của thế hệ tôi.
– Bao giờ nó sẽ được in?
– In ư? Có lẽ chẳng bao giờ. Tôi viết rồi xé, rồi viết lại – cứ thế mãi. Không có thậm chí sự tạm bằng lòng.
Ông rót Brandy mời tôi. Chúng tôi lặng lẽ cụng ly, lặng lẽ uống.
– Người quản gia bảo tôi có thể đến lấy bất cứ thứ gì của Ricardo trước khi người ta dọn phòng và đem mọi thứ đi tiêu huỷ. Anh ta đưa chìa khoá cho tôi. Ông xem có thứ gì ông ấy để lại còn dùng được không?
– Không, tôi không muốn có thứ gì gợi nhớ đến ông ấy.
Chúng tôi lấy thang máy lên tầng trên cùng, tầng tám, mở cửa vào phòng người quá cố. Từ ban công phòng ông có thể nhìn bao quát một vùng rộng nhấp nhô những mái bằng với chi chít ống khói và ăng ten chảo. Thang máy mà hỏng bất ưng thì một ông già leo từng bậc lên tới tầng này thật vất vả.
Hệt như phòng của Mahdavi, phòng của Gonzales bề bộn sách báo.
– Ông ấy vẫn viết hằng ngày. Viết gì, tôi không biết. Tôi không biết tiếng Tây Ban Nha. Tôi tính sẽ tha về số bản thảo này. Chúng có thể có ích cho ai đó, biết đâu đấy. Hiềm nỗi phòng tôi chật quá rồi. Tôi có thể gửi nhờ ông một ít không?
– Tất nhiên được. Nhưng không nhiều quá.
– Ông ấy vẫn cặm cụi làm việc hằng ngày. Cho cuộc đấu tranh chống lại cái ông ấy trót làm ra. Ông không nói ra, nhưng tôi biết. Thỉnh thoảng vẫn có vài nhà báo đến thăm. Họ mang đi những tài liệu gì đó, chắc để chuyển đi Cuba.
Chúng tôi bó những trang bản thảo lộn xộn lại thành từng cuộn rồi tha xuống hai tầng dưới, về phòng Mahdavi.
Bahar lại rót rượu. Chúng tôi uống trong im lặng, tưởng nhớ người không còn ở thêm với chúng tôi.
Đến khi tôi ra về, Mahdavi mới chìa cho tôi một mảnh giấy. Đó là lá thư của Gonzales:
“Thư này không có ngày tháng. Tôi viết sẵn, người ta tìm thấy sẽ chuyển cho ông. Chuyến tàu của tôi đến rồi, Tôi đi đây. Lời cuối tôi muốn nói với ông là đừng buồn khi thiếu tôi. Hãy đánh bạn với anh chàng châu Á dễ mến – người cánh ta đấy. Tôi đi nhẹ nhàng. Tôi đã sống như tôi muốn, được là chính mình. Được là chính mình – ấy là phúc thật. Ôm hôn bạn, Gonzales”.
Tôi ôm Mahdavi để ông có thể gục vào vai tôi mà khóc thầm. Tệ thế đấy: đàn ông nào cũng xấu hổ khi để rơi nước mắt.
Tất cả, không trừ một ai, đều ở phòng đợi.
Những người có phúc thật – được là mình. Và những người có phúc giả – được làm nô cho kẻ khác.
Ai rồi cũng có chuyến tàu của mình.