Cao Quang Nghiệp
Vấn đề liệu nhà thơ Xuân Diệu có là thành viên Tự Lực Văn Đoàn hay không và nếu có thì từ bao giờ đã là đề tài mang ra thảo luận trong giới văn học sử từ gần 80 năm nay. Ngay từ thời tiền chiến, trong công trình khảo cứu nổi tiếng về Thơ mới Thi nhân Việt Nam 1932–1941 hai tác giả Hoài Thanh và Hoài Chân đã cho biết Xuân Diệu “[C]ó chân trong Tự Lực Văn Đoàn”[1]. Rất tiếc hai tác giả trên đã không trích dẫn nguồn cho thông tin này. Nhưng không thấy ai trong các thành viên Tự Lực Văn Đoàn lúc bấy giờ đang sống ở Hà Nội lên tiếng bác bỏ. Sau 1954, ở miền Nam, nơi Nhất Linh từ năm 1951 đã vào sinh sống, việc giảng dạy và nghiên cứu về Tự Lực Văn Đoàn được tiến hành rất chuyên sâu. Trong quyển Bình giảng về Tự Lực Văn Đoàn, xuất bản năm 1958 nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xung đã viết: “Tự lực văn-đoàn là một nhóm thanh niên trí thức gồm có 7 người: Nhất Linh (Nguyễn tường Tam), Khái Hưng (Trần khánh Giư), Thế Lữ (Nguyễn thứ Lễ), Hoàng Đạo (Nguyễn tường Long), Thạch Lam (Nguyễn tường Lân), Tú Mỡ (Hồ trọng Hiếu)[,] Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu)”[2]. Vì Nguyễn Văn Xung cũng không trích dẫn tài liệu cho nhận định của mình nên chưa thể thuyết phục hoàn toàn được giới nghiên cứu.[3]
Bảy năm sau, trong công trình văn học sử nổi tiếng Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, nhà văn học sử Phạm Thế Ngũ dựa vào tư liệu trong tập Những ngày vui của Khái Hưng để cho rằng những người làm báo Phong Hóa “khi đó có ý định lập một thứ “pleiade” với “bẩy [sic] vì sao””, đó là Nhất Linh, Khái Hưng, Tú Mỡ, Thế Lữ, Hoàng Đạo, Thạch Lam và Nguyễn Gia Trí.[4] Nghĩa là Phạm Thế Ngũ cho Tự Lực Văn Đoàn không có Xuân Diệu. Theo chúng tôi, ý kiến của Phạm Thế Ngũ không đáng tin cậy, vì Những ngày vui là một sáng tác văn học, mang tính hư cấu, không thích hợp để làm căn cứ văn học sử, chưa kể là trong tác phẩm này không có chỗ nào Khái Hưng nhắc đến từ “pleiade” hay “bảy vì sao” cả.[5]
Năm 1974, trong cuốn Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường: Nhất Linh – Hoàng Đạo – Thạch Lam tác giả Nguyễn Thị Thế, là em và chị gái của ba nhà văn Nguyễn Tường trong Tự Lực Văn Đoàn, đưa ra một danh sách tám thành viên Tự Lực Văn Đoàn, trong đó bảy người trùng với danh sách của Phạm Thế Ngũ, người thứ tám là hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường[6] – và cũng không có Xuân Diệu. Tóm lại, trước 1975 có hai luồng thông tin, một luồng cho rằng Xuân Diệu là thành viên Tự Lực Văn Đoàn, còn luồng kia thì phủ nhận điều đó. Nhưng không có bằng chứng nào cụ thể nào đáng tin cậy để ủng hộ các luồng tin ấy.
Năm 1978, trong quyển Lịch sử văn học Việt Nam, tập V, 1930-1945, phần I, tác giả Hoàng Dung, người phụ trách biên soạn chương II về “Tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn” đã cho biết Tự Lực Văn Đoàn trước sau có tám người, gồm Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Xuân Diệu và Trần Tiêu. Tác giả cho biết thông tin này dựa “theo tài liệu của Tú Mỡ.”[7] “Tài liệu của Tú Mỡ” được nhắc đến là hồi ký Trong bếp núc Tự lực văn đoàn được Tú Mỡ viết xong ở Láng, ngày 12.8.1968, tuy thế, mãi đến 20 năm sau mới được công bố trên Tạp chí Văn Học, số 5-6, 1988 và số 1, 1989.[8] Trong hồi ký này Tú Mỡ đã viết: “Đoàn viên nòng cốt của Tự Lực Văn Đoàn là những nhà văn trong tòa soạn báo Phong-Hoá: Anh Tam (đứng đầu giám đốc đoàn). Các anh Long, Lân, Giư, Tú Mỡ và Thế Lữ, tất cả chỉ có 6 người. Anh Tam đề nghị kết nạp thêm một người nữa cho đủ ‘thất tinh’. Anh Giư giới thiệu anh Trần-Tiêu, […], cả đoàn đồng ý. […] Sau cùng, theo đề nghị của anh Tam, đoàn chỉ kết nạp thêm anh Xuân-Diệu, vị chi là ‘bát tú’”.[9] Ở Việt Nam, nguồn tin này rất phổ biến, được đa số giới nghiên cứu chấp nhận, lấy đó làm căn cứ khi viết về Tự Lực Văn Đoàn.[10]
Năm 1985 tạp chí Văn Học Nghệ Thuật (bộ mới) cho đăng lần đầu tiên di cảo ký ức về Đời làm báo của Nhất Linh. Trong hồi ký này Nhất Linh cho biết có 7 nhà văn “có chân trong Tự Lực Văn Đoàn”, đó là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thế Lữ, Thạch Lam, Tú Mỡ và Xuân Diệu.[11] Như vậy, trong cả hai danh sách do hai thành viên nguyên thuỷ của văn đoàn đưa ra đều xác nhận một cách hiển ngôn tư cách thành viên Tự Lực Văn Đoàn của Xuân Diệu. Đến đây đáng lẽ câu hỏi liệu nhà thơ Xuân Diệu có phải là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn hay không đã được giải đáp. Nhưng mà vừa mới đây nhà nghiên cứu Thuỵ Khuê, qua hai bài viết liên tiếp trong công trình nghiên cứu sâu và rộng về Tự Lực văn đoàn – Văn chương và cách mạng đã đặt lại vấn đề này. Ban đầu, trong phần đúc kết bài viết “Tự Lực văn đoàn có những ai?” Thuỵ Khuê còn phân vân, đưa Xuân Diệu vào diện “vẫn còn tồn nghi”[12]. Nhưng sau đó, trong bài viết kế tiếp, chính Thụy Khuê đã phủ nhận tư cách thành viên Tự Lực Văn Đoàn của Xuân Diệu bằng khẳng định như sau: “Trong cả hai trường hợp, chữ Thất tinh đều chỉ bảy người: Nhất Linh, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ và Thế Lữ”[13]. Như vậy, theo Thuỵ Khuê thì trong nhóm “thất tinh” này không có Xuân Diệu.
Và đây là lý do khiến chúng tôi cho đăng bài này – vốn là một phần của bài về những thành viên Tự Lực Văn Đoàn đã đăng trên tạp chí Thế Kỷ 21, số 207, 7.2006[14] – có chỉnh sửa và bổ sung. Trong bài viết này chúng tôi kết hợp nhiều tài liệu khác nhau để chứng minh rằng Xuân Diệu là thành viên Tự Lực Văn Đoàn như Nhất Linh và Tú Mỡ đã viết trong hồi ký của họ.
Xin lưu ý là tất cả các tác giả đã viết về vấn đề này từ trước tới nay, tuy có dựa vào hồi ký của Tú Mỡ hay Nhất Linh để khẳng định tư cách thành viên Tự Lực Văn Đoàn của Xuân Diệu nhưng chưa ai cung cấp bằng chứng nào khác nữa đủ sức thuyết phục, vì cũng có ý kiến cho rằng chính trong hai hồi ký kia cũng có nhiều điều nhầm lẫn.[15] Đây là một sự cẩn trọng chính đáng và cần thiết trong việc nghiên cứu, đồng thời cũng là một nhận xét có phần đúng.[16] Nhưng nhiệm vụ của người làm nghiên cứu là chỉ ra được một cách thuyết phục đâu là (những) nhầm lẫn ấy, điều mà chúng tôi cố gắng trình bày trong bài viết này.
Xuân Diệu trong hồi ký Đời làm báo của Nhất Linh (sau 21.7.1948 – cuối 1950)
Đời làm báo gồm hai trang giấy khổ A4, được viết tay với tiểu tựa là “Mấy lời nói đầu”, không ghi ngày tháng, là di cảo của nhà văn Nhất Linh để lại. Tài liệu này lần đầu tiên được công bố trên tạp chí Văn Học Nghệ Thuật, số 3, phát hành tháng 7 năm 1985, tại California, do Võ Phiến làm chủ nhiệm[17], chứ không phải mãi đến năm 2000 mới công bố lần đầu tiên, như Thuỵ Khuê đã nhầm.[18]
Trước kia, trong bài viết “Người thứ bảy trong Tự Lực Văn Đoàn là ai?” trong việc thử thẩm định thời gian ra đời của cuốn ký ức này, chúng tôi cho rằng nó có lẽ được viết trong khoảng thời gian sau ngày 5.2.1940 đến đầu năm 1951.[19] Mới đây trong bài viết “Tự Lực văn đoàn có những ai?” nhà nghiên cứu Thuỵ Khuê nhận định rằng văn bản này có thể được viết trong khoảng thời gian sau cái chết của nhà văn Hoàng Đạo (21.7.1948) và trước khi Nhất Linh về lại Hà Nội (cuối năm 1950)[20], một nhận định mà chúng tôi cho rằng hợp lý và gần sát với sự thật hơn. Đây là thời gian chính trị gia Nguyễn Tường Tam sống lưu vong ở Hồng Kông (sau 9.9.1947 – cuối 1950).[21]
Hình 1: Trang thứ nhất của thủ bút Đời làm báo[22]
Hình 2: Trang thứ hai của thủ bút Đời làm báo[23]
ĐỜI LÀM BÁO
MẤY LỜI NÓI ĐẦU
Đây là cuốn Ký ức về đời làm báo của tôi, về hai tờ báo khôi hài, châm biếm, văn chương: Tờ Phong Hóa (193 – 193) và tờ Ngày Nay (193 – 194) và về những người trong tòa soạn hai tờ báo đó:
Nguyễn Tường Tam tức Nhất Linh, Đông Sơn, Tam Linh, Lãng Du, Bảo Sơn, Tân Việt. Giám đốc và chủ bút báo PH từ số 14 cho đến khi báo bị đóng cửa và Ngày Nay từ số… cho đến… (có chân trong Tự Lực Văn Đoàn)
Trần Khánh Giư tức Khái Hưng, Nhị Linh, Hàn đãi… đậu. Giám đốc báo Ngày Nay từ số 80 (10-10-1937) (có chân trong Tự Lực Văn Đoàn)
Nguyễn Tường Long tức Tứ Ly, Hoàng Đạo, Tường Vân, chủ bút báo Ngày Nay từ số… (có chân trong Tự Lực Văn Đoàn)
Nguyễn Đình Lễ tức Thế Lữ, Lê Ta (có chân trong Tự Lực Văn Đoàn)
Nguyễn Tường Lân tức Thạch Lam, Việt Sinh, Thiện Sĩ, chủ bút báo Ngày Nay từ số 99 (27-2- 38) (có chân trong Tự Lực Văn Đoàn)
Hồ Trọng Hiếu tức Tú Mỡ (có chân trong Tự Lực văn đoàn)
Nguyễn Tường Cẩm. Giám đốc tờ Ngày Nay từ số 1 đến số…
Nguyễn Tường Bách. Giám đốc tờ Ngày Nay trong khi Khái Hưng và Hoàng Đạo ở trại giam và Nhất Linh ở hải ngoại từ số…
(Trong số 8 người này có hai người đã qua đời và 5 người biệt tăm tích, vậy còn lại có một mình Nhất Linh).
Tuy là cuốn sách về báo và người viết báo, nhưng những người viết báo đó lại là những người viết văn (tiểu thuyết, thơ…) nên trong cuốn Ký ức này, không thể không nói đến phần viết văn của những người viết báo.
Tác giả.
Dưới đây là tên những người không ở trong tòa soạn nhưng thường có bài đăng ở hai tờ báo:
Lê Thạch Kỳ tức Chàng thứ 13 (viết bài khôi hài về khoa học)
Đỗ Đức Thu (tiểu thuyết)
Xuân Diệu, có chân trong Tự Lực văn đoàn (thơ mới)
Huy Cận (thơ mới)
Trọng Lang (phóng sự)
Bùi Hiển (truyện ngắn)
Tô Hoài (truyện ngắn)
Đinh Hùng (tranh khôi hài)
Nguyễn Công Hoan (truyện ngắn)
Vi Huyền Đắc (kịch)
Phạm Thị Cả Mốc (tên thật là Phạm Cao Củng) thơ khôi hài
Mụ Béo Sài Gòn (tên thật: không có)
Bút Sơn ở Sài Gòn (người đã đẻ ra Xã Xệ) (tên thật chưa biết). Xin ông Bút Sơn (nếu ông còn sống) hoặc các bạn ông cho biết tên thật.
Nguyễn Khắc Hiếu (dịch Đường Thi)
Nhất Sách (tranh khôi hài)
Các hoạ sĩ đã từng vẽ giúp:
Nguyễn Gia Trí
Tô Ngọc Vân
Trần Bình Lộc
Cát Tường
Trần Văn Cẩn
Lưu Văn Sìn
Trong hồi ký này Nhất Linh đã đưa ra danh sách “những người làm trong toà soạn hai tờ báo”, “những người không ở trong tòa soạn nhưng thường có bài đăng ở hai tờ báo” và “các hoạ sĩ đã từng vẽ giúp”. Đặc biệt ông còn cẩn thận ghi thêm dòng chữ “có chân trong Tự Lực Văn Đoàn”[24] sau 7 nhà văn, trong đó có Xuân Diệu (dòng B trong hình 2).
Nhất Linh rạch ròi trong việc chính danh từng người theo công việc mà người ấy đảm nhận và theo tư cách thành viên trong văn đoàn của họ. Cụ thể, trong tám người làm trong toà soạn hai tờ báo, ngoài Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ, Tú Mỡ thì còn có Nguyễn Tường Cẩm và Nguyễn Tường Bách, là hai anh em của gia đình Nguyễn Tường, từng có thời gian làm giám đốc cho tờ Ngày Nay, nhưng không phải là những người “có chân trong Tự Lực Văn Đoàn”. Còn trường hợp Xuân Diệu thì ngược lại: Ông không nằm trong danh sách “những người làm trong toà soạn hai tờ báo” nhưng lại nằm trong số “những người không ở trong tòa soạn nhưng thường có bài đăng ở hai tờ báo” và thuộc vào số người “có chân trong Tự Lực Văn Đoàn” (dòng B trong hình 2).
Sự việc đã tỏ như ban ngày. Nhưng Thuỵ Khuê cho rằng “Nhất Linh không xác định các thành viên của Tự Lực văn đoàn là ai, ông chỉ ghi trong ngoặc như chú thích “có chân trong Tự Lực văn đoàn””[25]. Nhận định này theo chúng tôi là chưa thoả đáng. Vì nếu không thể xem dòng ghi chú “có chân trong Tự Lực Văn Đoàn” sau tên những người mà ông nêu danh là một hành vi xác nhận tư cách thành viên của Tự Lực Văn Đoàn của người ấy thì chúng ta nên hiểu dòng chữ này như thế nào!? Không phải ngẫu nhiên mà 7 nhà văn sau tên họ được Nhất Linh ghi chú dòng chữ “có chân trong Tự Lực Văn Đoàn” (Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thế Lữ, Thạch Lam, Tú Mỡ và Xuân Diệu) đồng thời cũng là những tác giả, mà trong tác phẩm của họ đều có dòng chữ “Trong Tự Lực Văn Đoàn” dưới tên của họ, và họ đều là những người có mặt trong bức hoạ “Thất tinh hội bên bàn làm việc”, như chúng tôi sẽ tiếp tục trình bày sau đây.
Vậy tại sao Thuỵ Khuê không căn cứ vào dòng ghi chú trên để khẳng định tư cách thành viên Tự Lực Văn Đoàn của Xuân Diệu? Lý do là bà không tin vào trí nhớ của Nhất Linh trong bản Đời làm báo, mà lại căn cứ vào bản Tiểu sử của Nhất Linh do Nguiễn Ngu Í ghi[26], được chính Nhất Linh đọc lại trước khi in: “Đã có vốn ít nhiều, lại có thêm đồng chí, nên dầu làm báo lúc bấy giờ có khổ như cái gì, cũng quyết không lui. Sẵn có tờ "Phong Hóa" ra tới số 13, lối văn cổ không được hoan nghênh, và người bỏ tiền ra muốn giao lại, anh bèn lãnh lấy, có Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí phụ lực (1932). Sau đó vài tháng, thêm Thế Lữ.”
Thụy Khuê đặt câu hỏi: “Nhất Linh, trong bản Tiểu sử không nhắc đến Xuân Diệu, tại sao?”[27]. Căn cứ vào đoạn văn trên đây trích trong Tiểu sử, Thụy Khuê quả quyết rằng Nhất Linh xác nhận “Tự Lực văn đoàn có bảy người Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Thế Lữ”[28]. Kết luận này của Thụy Khuê là do bà đồng nhất thời điểm thành lập Tự Lực Văn Đoàn với việc Nhất Linh lãnh nhận tờ Phong Hóa. Thực vậy, trong bài viết trên, Thụy Khuê khẳng định: “Tự Lực văn đoàn thành lập trong khoảng thời gian từ Phong Hóa số 11 (25-8-32) đến Phong Hóa số 13 (8-9-32), tức là những ngày cuối tháng tám đầu tháng chín năm 1932”. Sự đồng nhất đó mâu thuẫn với chính bản Tiểu sử mà bà dựa vào. Nhất Linh ghi rõ ngay sau đó mấy dòng: “Dựng nhà xuất bản “Đời nay” và văn đoàn “Tự lực” (1933)” (xem hình 3). Đọc kỹ đoạn văn mà Thụy Khuê trích dẫn, ta chỉ thấy Nhất Linh kể tên những người thuở ban đầu cùng nhau làm tờ Phong Hóa, chứ không hề đưa ra danh sách thành viên Tự Lực Văn Đoàn, một danh sách không thể có khi Văn đoàn một năm sau mới thành lập.
Hình 3. Trích trang 21 bản Tiểu sử[29]
[1] Thi nhân Việt Nam 1932–1941 của Hoài Thanh và Hoài Chân được Nguyễn Đức Phiên xuất bản lần đầu tiên năm 1942. Ở đây chúng tôi dùng phiên bản Hoài Thanh – Hoài Chân. Thi nhân Việt Nam 1932-1941. Sách in lần thứ 20. Hà Nội: Văn Học, 2000, trang 112.
[2] Nguyễn Văn Xung. Bình giảng về Tự Lực Văn Đoàn: Khái Hưng – Nhất Linh – Hoàng Đạo – Thạch Lam – Thế Lữ. Saigon: Tân Việt, 1958, trang 10.
[3] Ví dụ nhà nghiên cứu Nguiễn Ngu Í đã viết như sau: “Nguyễn Văn Xung trong quyển ‘Bình giảng về Tự Lực văn đoàn’ cho rằng ‘Tự lực văn đoàn là nhóm thanh niên trí thức gồm có 7 người […] Mặc dù về sau, họ gây được nhiều ảnh hưởng và có nhiều người cộng tác, họ vẫn giữ nguyên con số 7 ấy, vì muốn bắt chước thi phái Pléiade (Thất-tinh) của Pháp vào thế kỷ XVI’, e rằng không đúng lắm”. Xem Nguiễn Ngu Í. “Giải Tự Lực Văn Đoàn”. Trên Bách Khoa, số 140, ngày 1.11.1962, trang 39-52, trang trích dẫn 39.
[4] Phạm Thế Ngũ. Việt Nam văn học sử giản ước tân biên – Tập 3: Văn Học Hiện Đại 1862 – 1945. Saigon: Quốc Học Tùng Thư, 1965, trang 433-434.
[5] Năm 1971, trong tác phẩm Chân dung Nhất Linh tác giả Nhật Thịnh có kể một giai thoại, theo đó các thành viên của văn đoàn, nhân một buổi dã ngoại, đã tự đặt tên nhóm của mình là “Thất Tinh”, trong đó có Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ và Nguyễn Gia Trí – cũng không có Xuân Diệu. Quyển Chân dung Nhất Linh hay Thân thế sự nghiệp Nguyễn-Tường-Tam của Nhật Thịnh do Sống Mới xuất bản lần đầu tiên năm 1971 ở Sài Gòn. Trong bài này chúng tôi dùng phiên bản Nhật Thịnh. Chân dung Nhất Linh hay Thân thế sự nghiệp Nguyễn-Tường-Tam. [California]: Đại Nam, [1982], trang 127 và 129-130.
[6] Quyển hồi ký này lần đầu tiên do Sóng xuất bản năm 1974 ở Sài Gòn. Trong bài này chúng tôi dùng phiên bản Nguyễn Thị Thế. Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường: Nhất Linh – Hoàng Đạo – Thạch Lam. Tái bản lần thứ 3. California: Văn Hoá Ngày Nay xuất bản, 1996, trang 117.
[7] Huỳnh Lý et al. Lịch sử văn học Việt Nam. Tập V: 1930-1945. Phần I. In lần thứ năm. Hà Nội: Giáo Dục, 1978, trang 63.
[8] Bài viết này sử dụng phiên bản đăng lại trong Mai Hương (tuyển chọn và biên soạn). Tiếng cười Tú Mỡ. Hà Nội: Văn Hoá – Thông Tin, 2000, trang 351-390.
[9] Mai Hương (tuyển chọn và biên soạn). Tiếng cười Tú Mỡ. Hà Nội: Văn Hoá – Thông Tin, 2000, trang 351-390.
[10] Khác với đại đa số các tác giả viết về Tự Lực Văn Đoàn, trong mục từ “Tự Lực Văn Đoàn” của quyển Từ điển Văn học (bộ mới), giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã viết Tự Lực Văn Đoàn có 7 người gồm Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng, Tú Mỡ, Thế Lữ và Xuân Diệu. Rất tiếc tác giả không trích dẫn nguồn cho nhận định của mình. Xem Đỗ Đức Hiểu et al. Từ điển Văn học (bộ mới). Hà Nội: Thế Giới, 2004, trang 1899.
[11] Nhất Linh. “Ký ức về đời làm báo”. Văn Học Nghệ Thuật (bộ mới), số 3, 7.1985, trang 308-309. Trong phần sau chúng tôi sẽ trình bày và phân tích kỹ hơn về văn bản này.
Chúng tôi đoán rằng tác giả Nguyễn Văn Xung, khi viết quyển Bình giảng về Tự Lực Văn Đoàn năm 1958, là lúc Nhất Linh còn sống ở Sài Gòn, có lẽ đã phỏng vấn Nhất Linh hay tiếp cận được tài liệu này nên danh sách về những thành viên Tự Lực Văn Đoàn ông đưa ra trùng khớp với danh sách của Nhất Linh.
[12] Thuỵ Khuê. “Tự Lực văn đoàn có những ai?”. Văn Việt. 22.1.2021. http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/tu-luc-van-don-van-hoc-v-cch-mang-12/. [1.3.2021].
[13] Thuỵ Khuê. “Đỗ Tốn và Chúc thư văn học của Nhất Linh”. Văn Việt. 1.2.2021. http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/tu-luc-van-don-van-hoc-v-cch-mang-13/ [1.3.2021]. Trong bài viết này chúng tôi chỉ tập trung vào vấn đề tư cách thành viên Tự Lực Văn Đoàn của Xuân Diệu, nên sẽ không bàn đến trường hợp của hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí. Việc Nguyễn Gia Trí không phải là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn sẽ được chúng tôi bàn thảo trong một bài viết khác, sẽ công bố sau.
[14] Cao Quang Nghiệp. “Người thứ bảy trong Tự Lực Văn Đoàn là ai?”. Thế Kỷ 21, số 207, 7.2006, trang 62-76.
[15] Trong bài viết “Tự Lực văn đoàn có những ai?”, Thuỵ Khuê có viết: “Chúng ta tin vào mấy chữ của Nhất Linh trong bài Mấy lời nói đầu: “Xuân Diệu (có chân trong Tự Lực Văn Đoàn)”, nhưng Nhất Linh nhớ nhầm khá nhiều”. Xem Thuỵ Khuê. “Tự Lực văn đoàn có những ai?”. Văn Việt. 22.1.2021. http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/tu-luc-van-don-van-hoc-v-cch-mang-12/. [1.3.2021].
[16] Trong bài viết đăng trên Thế Kỷ 21 nêu trên chúng tôi đã đưa ra dẫn chứng để chỉ ra rằng Tú Mỡ đã viết nhớ lầm khi cho rằng Trần Tiêu là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn. Đồng thời chúng tôi đã kết hợp nhiều tư liệu khác nhau để chứng minh rằng Trần Tiêu không phải là thành viên Tự Lực Văn Đoàn. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này mộ lần nữa trong một bài viết riêng, sẽ được công bố sau.
[17] Nhất Linh. “Đời làm báo”. Văn Học Nghệ Thuật (bộ mới), số 3, tháng 7.1985, trang 308-309. Thủ bút này do nhà văn Nguyễn Tường Thiết, là con trai, đồng thời cũng là người được nhà văn Nhất Linh phó thác di sản văn chương của mình, cung cấp. Nhân đây xin tỏ lòng biết ơn đến nhà văn Nguyễn Tường Thiết đã tận tình giúp đỡ, góp ý kiến và cung cấp nhiều tư liệu quí hiếm.
Vì chữ viết trong thủ bút của nhà văn Nhất Linh rất khó đọc nên chúng tôi cho đăng lại ở đây hai trang thủ bút này dưới dạng typo, dựa vào phiên bản đăng trên Văn Hoá Nghệ Thuật (bộ mới), có đối chiếu với thủ bút và chỉnh sửa một vài chỗ mà chúng tôi cho rằng trung thực với thủ bút hơn.
[18] Thuỵ Khuê. “Tự Lực văn đoàn có những ai?”. Văn Việt. http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/tu-luc-van-don-van-hoc-v-cch-mang-12/ [20.2.2021].
[19] Cao Quang Nghiệp. “Người thứ bảy trong Tự Lực Văn Đoàn là ai?”. Thế Kỷ 21, số 207, 7. 2006, trang 62-76, trang trích dẫn 66.
[20] Thuỵ Khuê. “Tự Lực văn đoàn có những ai?”. Văn Việt. http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/tu-luc-van-don-van-hoc-v-cch-mang-12/ [20.2.2021].
[21] Trương Bảo Sơn. “Những kỷ niệm riêng với Nhất Linh Nguyễn Tường Tam”. Trong Nhiều tác giả. Nhất Linh: Người nghệ sĩ – Người chiến sĩ. California: 2004; trang 69-82, trang trích dẫn 74.
[22] Trang thứ nhất của thủ bút Đời làm báo. Tư liệu riêng, do nhà văn Nguyễn Tường Thiết cung cấp.
[23] Trang thứ hai của thủ bút Đời làm báo. Tư liệu riêng, do nhà văn Nguyễn Tường Thiết cung cấp.
[24] Dòng chữ “có chân trong Tự Lực Văn Đoàn” này giống hoàn toàn với dòng chữ mà Hoài Thanh – Hoài Chân đã dùng năm 1942 để nói về Xuân Diệu. Xem ra cách nói này có lẽ đã phổ biến rộng rãi trong văn giới vào thời bấy giờ.
[25] Thuỵ Khuê. “Tự Lực văn đoàn có những ai?”. Văn Việt. http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/tu-luc-van-don-van-hoc-v-cch-mang-12/ [20.2.2021].
[26] Nguiễn-Ngu-Í. Sống và viết. Saigon: Ngèi Xanh, 1966, trang 20-23.
[27] Thuỵ Khuê. “Tự Lực văn đoàn có những ai?”. Văn Việt. http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/tu-luc-van-don-van-hoc-v-cch-mang-12/ [20.2.2021].
[28] Thuỵ Khuê. “Tự Lực văn đoàn có những ai?”. Văn Việt. http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/tu-luc-van-don-van-hoc-v-cch-mang-12/ [20.2.2021].
[29] Nguiễn-Ngu-Í. Sống và viết. Saigon: Ngèi Xanh, 1966, trang 21.