Khế Iêm
I MARRIED A BEAUTIFUL WOMAN
I married a beautiful woman,
and at night the stars fight
the ambient light,
in order to peer at her.
I married a beautiful woman,
and the moon hungers
because it is entranced,
as one come home from faëry.
I married a beautiful woman,
and I am not sad,
for I am as those moths
that drink of the tears of sleeping lovers.
I married a beautiful woman,
and her love makes me someone.
TÔI CƯỚI MỘT NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐẸP
Tôi cưới một người đàn bà đẹp,
và ban đêm những vì sao đẩy lùi
ánh sáng chung quanh,
để nhìn ngắm nàng.
Tôi cưới một người đàn bà đẹp,
và mặt trăng thèm muốn
bởi bị mê mẩn,
như kẻ trở về từ cõi thiên thai.
Tôi cưới một người đàn bà đẹp,
tôi không buồn,
vì tôi là những con bướm đêm
uống những giọt nước mắt của cặp tình nhân đang ngủ.
Tôi cưới một người đàn bà đẹp,
và tình yêu nàng biến tôi thành một người nào đó.
AN ALLITERATIVE SONNET FOR CLARE
I dream of the day that dies to night,
I dream of the suns that seem unstill,
turning and wheeling with tempered will
that knows nothing of knowledge, delight
in wisdom’s ways, or the warlike fight
of fang and claw, that cleanses, still,
the world of the frail, that will fall the while
the quick and the timid will take to flight.
I dream of that fairer Whangarei, clad
with waterfall’s ways, in a wider land,
and dream of the sorrowless songs of the birds
that seem to speak with their sounds, that, glad,
redeem the islands that are as a stand
of a certain tree, that sings with no words.
BÀI SONNET ĐIỆP ÂM CHO CLARE
Tôi mơ thấy ngày trở thành đêm,
tôi mơ thấy những định tinh không đứng yên,
xoay và lượn vòng với tính quả quyết
không biết đến kiến thức, đến khóai cảm
của những cung cách thông tuệ, hoặc trận chiến kiểu
răng nanh và móng vuốt, (tính quả quyết) thanh tẩy, thinh lặng,
cái thế giới mỏng manh đó rơi trong thoáng chốc
nhanh chóng và rụt rè rồi bay bổng.
Tôi mơ về một Whangarei tốt hơn, mang
phong cách một dòng thác, trong vùng đất rộng hơn,
và mơ tới những tiếng hót không chút ưu phiền của chim chóc,
chừng như chúng nói bằng âm thanh, vui sướng,
đền bù cho những hòn đảo như một chỗ đứng
của cái cây nào đó, hát không lời.
NAMING JUDITH RODRIGUEZ
From the first words of the opening line,
the thin seasound in my ears named poet
and tugged insistently at my shoulder,
saying Judith Rodriguez is her name;
look for her elsewhere in the wider world
of letters. I was not done, but the poem,
“Naming Nasturtium”, was soon echoing
as if the poet had taken a thunk
at the side of the mahogany ship
as it lay unburied on the sand, with
words strong enough to echo in its depths,
past the remnants of bilgewater crawling
with crabs addled by sudden sunlight, past
the remnants of ages, eddying in
still air, out into the open, dreamt air.
GỌI TÊN JUDITH RODRIGUEZ
Từ những chữ đầu tiên của dòng mở đầu,
cái âm miền biển mỏng manh gọi tên nhà thơ
và kéo lay mạnh nơi vai tôi,
bảo, Judith Rodriguez là tên cô;
hy vọng cô ở đâu đó trong thế giới rộng lớn hơn
của văn học. Tôi đã không hòan tất, trừ bài thơ,
“Đặt tên cây hoa sen đất” đã chẳng mấy chốc vang dội
như thể nhà thơ đập mạnh vào
bên sườn con tàu màu gụ
như nó nằm trên bãi cát với
những chữ mạnh mẽ đủ vang dội tới bề sâu của nó,
bên kia những tàn tích của nước bẩn trong đáy tàu
với những con cua lổn ngổn xuyên qua ánh nắng bất ngờ, bên kia
những tàn tích của thời đại, cuộn xóay trong
không khí tĩnh lặng, từ đâu đó vào khỏang rộng mở, mơ màng.
HEROES (FOR CLARE)
Life to me is like a play, no heroes,
only villains, who love banality
as they gnash their teeth, they rage, and they twirl
moustaches, scheming. It amuses me
to think these cliches like a cloak over
the faces and forms of others, and then
let them advance their prissy repertoire
of motion, as they chew the scenery.
But now that all tumbles down, for you are
my hero, my story’s protagonist;
I do not ask for salvation, although
that’s the gift you’ve brought from the underworld,
and now it is my duty, to but care
for you, and protect you, be your hero.
NHỮNG ANH HÙNG (CHO CLARE)
Đời sống với tôi như một vở tuồng, không anh hùng,
chỉ là những kẻ bất lương, tầm thường
như chúng nghiến răng, giận dữ, vân vê
râu mép, mưu mô. Điều đó làm cho tôi tức cười
nghĩ rằng những lời nói rập khuôn này che dấu
những khuôn mặt và dáng vẻ kẻ khác, và rồi
để chúng tăng tiến những sở trường tỉ mỉ
về điệu bộ của chúng, như nhai nuốt cảnh tuồng.
Nhưng bây giờ mọi thứ sụp đổ, vì em là
anh hùng của tôi, vai chính câu truyện của tôi;
tôi không cầu xin sự cứu rỗi, mặc dầu
đó là món quà em đã mang tới từ địa ngục,
và bây giờ đó là bổn phận của tôi, chỉ để quan tâm
tới em, và bảo vệ em, là anh hùng của em.
EVERYTHING DIES
The sound of a gull that slips through the wind,
the ocean a greyness tipped with a white,
the sky like a sea of clouds, with their hands
together in prayer, I know it is time.
It’s time to be dark of heart, with the waste
of sky and the water shivering, cold;
it’s time to reflect on time and the past
that’s left us as tokens, toys of the world.
The ocean splinters the rock, and tears it till sand,
and lays it upon the shore, till it’s rock,
but lives, they will ebb and flow, and the skies
will cry not, unknowing sorrows or joys.
And ocean, sand, and the gulls of skies, and the skies,
you’ll pass, at the end, when sun will consume
all things of the world, as everything dies
in turn; so remember: everything dies.
MỌI THỨ CHẾT
Âm thanh của con hải âu lướt nhẹ trong gió,
biển cả là một màu xám viền trắng,
bầu trời giống một biển mây, với những bàn tay
chắp tay cầu nguyện, tôi biết là đúng lúc.
Đó là lúc trở thành bóng tối trái tim, với bầu trời
hoang phế và nước rùng mình, lạnh;
đó là thời gian phản ảnh đúng lúc và quá khứ
đã rời xa chúng ta như vật lưu niệm, những đồ chơi thế gian.
Biển làm vỡ đá, và kéo tới cát,
và rải lên bãi, vẫn là đá,
nhưng sống, chúng sẽ lên xuống theo triều nước, và bầu trời
không kêu khóc, những niềm vui và nỗi buồn không hay biết.
Và biển, cát, và những con chim hải âu của trời mây, và mây trời,
bạn sẽ trải qua, lúc cuối, khi mặt trời tiêu thụ
mọi thứ của thế gian, như mọi thứ chết
lần lượt; hãy nhớ: mọi thứ chết.