Thơ Mỹ-một thời đáng nhớ (Kỳ 2: David Hermandez và Emily Grosholz)

Khế Iêm

IMG-3e6d8d64c1dc0921aade4cafc486c98b-V

David Hermandez

__________________________

 

HAPPINESS EPIDEMIC

 

Without any warning, the disease

sweeps across the country

like a traveling circus.

 

People who were once blue,

who slouched from carrying

a bag of misery over one shoulder

 

are now clinically cheerful.

Symptoms include kind gestures,

a bouncy stride, a smile

 

bigger than a slice of canteloupe.

You pray that you will be infected,

hope a happy germ invades your body

 

and multiplies, spreading merriment

to all your major organs

like door-to-door Christmas carolers

 

until the virus finally reaches your heart:

that red house at the end of the block

where your deepest wishes reside,

 

where a dog howls behind a gate

every time that sorrow

pulls his hearse up the driveway.

 

* David Hernandez (born in 1971) is an American poet and novelist. Most recently, he was awarded a 2011 National Endow­ment for the Arts Fellowship for Poetry.

 

 

BỆNH DỊCH HẠNH PHÚC

 

Với không lời dự báo, căn bệnh

quét qua khắp nước

giống như đòan xiếc du hành.

 

Người ta có lần buồn rầu,

uể ỏai mang

một túi khốn khổ trên vai

 

nhưng bây giờ thì hớn hở ở gường bệnh.

Triệu chứng bao gồm những điệu bộ ân cần,

bước đi nhún nhảy, nụ cười

 

lớn hơn cả một phiến bí đỏ.

Bạn cầu xin được nhiễm bệnh,

hy vọng mầm hạnh phúc xâm nhập cơ thể

 

và nhân lên, sự hoan hỉ lây lan

tới khắp cơ quan chính

như những người hát mừng Giáng sinh tới từng nhà

 

cuối cùng, cho đến khi con siêu vi tới tim bạn:

ngôi nhà đỏ ở cuối khu phố

nơi những mong ước sâu kín trú ngụ,

 

nơi con chó tru đằng sau cửa cổng

mỗi lần nỗi bất hạnh

dừng chiếc xe tang của nó bên lối vào.

 

* David Hernandez (sinh năm 1971), nhà thơ, tiểu thuyết gia người Mỹ. Gần đây nhất, ông đã được trao tặng Học bổng Nghệ thuật Thơ ca Quốc gia năm 2011.

 

THE TAXICAB INCIDENT

 

A boy runs into a busy street,

a boy who happens to be my father.

Yes he’s careless and yes here comes

the taxicab. This happened

in Bogotá, Colombia. And this:

 

a boy falls, a boy who happens

to be my father, fallen before

the taxicab. You know what

happens next: my existence

spoils the drama. How the taxicab

 

glides over my father and skims

his shoulder blades. He stands

unscathed and brushes the dust off

his clothes and continues to breathe.

Fallen differently, I’m not here.

 

Fallen the way he did, I am.

When the boy who happens to be

my father runs into a busy street,

I’m in the backseat of that taxicab

with my brother and sister.

 

The three of us, we’re outlined.

Our skin is translucent as cellophane.

When we begin to scream

nothing but nothing leaps

from the zeros of our mouths.

 

Such is how the future lives

without influencing the world.

And my mother? She’s the girl

hundreds of miles south, blowing

air into a plastic ring skinned

 

with water and soap. The flimsy

bubbles lift. Whether they are

pushed into a wall, the spikes

of branches, or the sky’s blue field,

it is up to the wind.

SỰ CỐ TAXI

 

Một đứa bé đi vào khu vực đông xe,

một đứa bé ngẫu nhiên trở thành cha tôi.

Vâng nó lơ đễnh và vâng lúc này chiếc taxi

trờ tới. Chuyện này xảy ra

ở Bogotá, Colombia. Và đây:

 

một đứa con trai ngã, một đứa con trai ngẫu nhiên

trở thành cha tôi, ngã trước

chiếc taxi. Bạn biết chuyện gì

xảy ra sau đó: sự hiện hữu của tôi

làm hỏng vở tuồng. Làm sao chiếc taxi

 

lướt qua cha tôi và xém vào

xương bả vai của ông. Ông đứng dậy

không hề hấn và phủi bụi

quần áo và tiếp tục thở.

Nếu đứa con trai ngã theo cách khác, tôi không có mặt ở đây.

 

Nếu đứa con trai ngã như nó vừa ngã, tôi mới có mặt ở đây.

Khi đứa con trai ngẫu nhiên trở thành

cha tôi đi vào khu vực đông xe,

tôi ngồi ở băng ghế sau chiếc taxi

với em trai và em gái tôi.

 

Cả ba chúng tôi là dạng hình bên ngòai.

Da thịt chúng tôi trong suốt như giấy bóng kiếng.

Khi chúng tôi bắt đầu kêu lên

chẳng có gì thốt ra

trong những cái miệng tròn vo.

 

Như vậy tới mức độ nào những sinh mạng tương lai

không tác động đến thế giới.

Và mẹ tôi? Bà là cô gái

ở cách xa hàng trăm dặm phía nam, thổi

vào không khí bằng một ống nhựa tròn

 

nhúng vào nước xà bông. Những chiếc bong bóng

dễ vỡ bay lên. Hoặc chúng đụng và một bức tường,

những nhánh cây, hoặc bay lên trời xanh,

tùy theo gió.

 

* Chú thích

Bài thơ đề cập tới câu chuyện giả thiết về quá khứ, người cha còn là đứa con trai, người mẹ còn là đứa con gái và những đứa con còn trong tương lai, chưa sinh ra.

 

* David Hernandez’s third collection, Hoodwinked, recently won the Kathryn A. Morton Prize and is forthcoming from Sarabande Books in 2011. His other collections include Always Danger (SIU Press, 2006), winner of the Crab Orchard Series in Poetry, and A House Waiting for Music (Tupelo Press, 2003). His poems have appeared in FIELD, The Threepenny Review, Plough­shares, The Missouri Review, TriQuarterly, The Southern Review, and Poetry Daily. David is also the author of two YA novels, No More Us for You and Suckerpunch, both published by HarperCol­lins. David teaches at the University of California, Irvine and in the MFA program at Anitoch University-Los Angeles. He lives in Long Beach and is married to writer Lisa Glatt.

 

* David Hernandez: Tuyển tập thứ ba của ông, Hoodwinked, mới đây đã thắng giải Kathryn A. Morton và dự tranh Sarabande Books năm 2011. Những tuyển tập khác bao gồm Always Danger (SIU Press, 2006), thắng giải Crab Orchard Series in Poetry, và A House Waiting for Music (Tupelo Press, 2003). Thơ ông xuất hiện trên FIELD, The Threepenny Review, Ploughshares, The Mis­souri Review, TriQuarterly, The Southern Review, và Poetry Daily. Ông cũng là tác giả của hai tiểu thuyết cho tuổi mới lớn, No More Us for You và Suckerpunch, cả hai xuất bản bởi HarperCollins. Ông dạy ở Đại học Irvine và chương trình MPA (dạy thơ) tại đại học Anitoch – Los Angeles. Ông sống ở Long Beach và kết hôn với nhà văn Lisa Glatt.

Emily Grosholz

__________________________

 

EDEN

 

In lurid cartoon colors, the big baby

dinosaur steps backwards under the shadow

of an approaching tyrannosaurus rex.

“His mommy going to fix it,”you remark,

serenely anxious, hoping for the best.

 

After the big explosion, after the lights

go down inside the house and up the street,

we rush outdoors to find a squirrel stopped

in straws of haft-gnawed cable. I explain,

trying to fix the facts, “The squirrel is dead.”

 

No, you explain it otherwise to me.

“He’s sleeping. And his mommy going to come.”

Later, when the squirrel has been removed,

“His mommy fix him,” you insist, insisting

on the right to know what you believe.

 

The world is truly full of fabulous

great and curious small inhabitants,

And you’re the freshly minted, unashamed

Adam in his garden. You preside,

Appreciate, and judge our proper names.

 

Like God, I brought you here.

Like God, I seem to be omnipotent,

mostly helpful, sometimes angry as hell.

I fix whatever minor faults arise

with bandaids, batteries, masking tape, and pills.

 

But I am powerless, as you must know,

to chase the serpent sliding in the grass,

or the tall angel with the flaming sword

who scares you when he rises suddenly

behind the gates of sunset.

 

* Emily Rolfe Grosholz (born 1950 Philadelphia) is an American poet and philosopher. She is Edwin Erle Sparks Professor of Phi­losophy, African American Studies and English, and a member of the Center for Fundamental Theory / Institute for Gravita­tion and the Cosmos, at the Pennsylvania State University.

VƯỜN ĐỊA ĐÀNG

 

Trong màu sắc nhợt nhạt của tranh truyện, con

khủng long con to lớn bước tới lui lại gần

dưới bóng con khủng long chúa.

“Má nó sẽ chữa nó,” đứa bé nhận xét,

thoáng lo lắng, mong được toại nguyện.

 

Sau tiếng nổ lớn, khi ánh đèn

tắt dần trong nhà cùng với ngoài đường

chúng tôi ùa ra ngòai cửa thấy một con sóc chết

vì bị điện giật đứt tua ra. Tôi giải thích,

cố xác định sự việc, “Con sóc chết.”

 

Không, đứa con giải thích trái hẳn với tôi.

“Nó đang ngủ. Mẹ nó đang tới.”

Sau đó, khi con sóc bị mang đi,

“Má nó sẽ chữa nó,” đứa con khăng khăng

suy nghĩ theo cách nó tin tưởng.

 

Thế giới đầy rẫy những con vật hoang tưởng

lớn lao và nhỏ bé lạ lùng,

Và đứa bé Adam, được tạo ra, không ngượng

trong khu vườn của nó. Đứa con điều khiển

Đánh giá, và xét đoán những cái tên riêng của chúng ta.

 

Như Chúa, mẹ đưa con tới đây.

Như Chúa, mẹ chừng như có quyền hạn vô biên,

hầu hết là giúp ích, đôi khi giận dữ chết thôi.

Mẹ sửa chữa bất cứ lỗi nhỏ nào nổi lên

với băng cá nhân, pin, băng dán, và thuốc.

 

Nhưng mẹ bất lực, như con biết,

đuổi theo con rắn trườn bò trong cỏ,

hay thiên thần cao lớn với thanh gươm cháy rực

làm con kinh sợ khi hiện ra bất ngờ

đằng sau cánh cửa trong ánh sáng lờ mờ lúc hoàng hôn.

 

* Emily Rolfe Grosholz (sinh năm 1950 tại Philadelphia), một nhà thơ và triết gia người Mỹ. Bà là Giáo sư Triết học tại trường đại học Edwin Erle Sparks: Nghiên cứu về người Mỹ gốc Phi và tiếng Anh, đồng thời là thành viên của Trung tâm Lý thuyết Cơ bản / Học Viện Lực hấp dẫn và Vũ trụ, tại Đại học Bang Penn­sylvania.

ON THE FERRY, TOWARD PATRAS

 

Corfu appears, and then the distant blue

draws her away again: uncertain hours

as time begins to drown in voyaging,

no talk, no books, no breakfast taken later.

The sea, divided, falls behind the boat;

I see that blue laid back on darker blue

the way Odysseus must have, when his mind

was emptied of its cleverness at last

by ten years’ wandering. His thoughts are mine,

an island without houses, flocks, or trees,

undressed of all its causes. Memory

slides by like waves against the running prow.

 

What memories could wake my tiredness?

The clothes upon my back, unspoken words

I always carry, wounds from an embrace

too often entered, now are all I own;

along my flesh I feel them hardening,

a frieze that tells the future as the past

and scrolls my progress roundly on my breast.

I cannot keep my secrets to myself.

I am the figure of the ship, and where

I’ve traveled, where I go, what I will do,

Assail and tear aside the simple blue.

QUA BẾN PHÀ ĐẾN HY LẠP

 

Đảo Corfu xuất hiện, và rồi xa dần đường

chân trời xa: những thời khắc hay thay đổi như

thời gian bắt đầu chìm ngập trong chuyến du hành,

không truyện trò, không sách vở, không điểm tâm sau

đó. Biển, bị phân chia, lùi lại phía sau con

tàu; tôi thấy thế giới đằng sau biển thẫm xanh

lộ trình mà Odysseus phải trải qua, khi

sự khôn khéo trong tâm trí hắn cuối cùng trống

rỗng bởi mười năm lang thang. Suy nghĩ của hắn

cũng là của tôi, một hòn đảo không nhà cửa,

không bầy cừu, cây cối, không nguyên cớ. Ký ức

lướt giống như những con sóng ngăn mũi tàu chạy.

 

Những ký ức nào có thể đánh thức sự nhàm

chán của tôi? Chăn gối sau lưng tôi, những chữ

không nói tôi luôn mang theo, những vết thương từ

bên trong thường xuyên hiện ra, bây giờ tất cả

tôi có; dọc theo da thịt tôi cảm thấy chúng

cứng lại, một hoa văn trang trí cho biết tương

lai cũng như quá khứ và cuộn rõ trong lòng

tôi. Tôi không thể giữ bí mật cho riêng tôi.

Tôi là hình dung của chiếc tàu, và ở đâu

tôi du hành tới, ở đâu tôi đi, cái gì

tôi sẽ làm, lao vào và xé ra thế giới

không biết.

 

Kh. I

Comments are closed.