Thơ Mỹ-một thời đáng nhớ (Kỳ 1: Elizabeth Alexander và Bruce Bawer)

Khế Iêm

Lời Giới Thiệu

Nhà thơ Khế Iêm và công trình Thơ Mỹ-một thời đáng nhớ (American Poetry-A Memorable time)

IMG-3e6d8d64c1dc0921aade4cafc486c98b-V

Bạn đọc từng biết đến Khế Iêm trong tư cách chủ soái của trào lưu thơ Tân hình thức, tác giả của những tác phẩm thơ (Con đường thơ) và Tiểu luận phê bình (Vũ điệu không vần).

Dịp này, chúng tôi nhận được công trình mới của ông: Thơ Mỹ-một thời đáng nhớ .

Đây là ấn bản song ngữ nhằm giới thiệu một số nhà thơ Mỹ, gồm 2 phần:

-Phần 1: Những thiên thần nổi loạn

-Phần 2: Thơ Tự do.

Trong Lời bạt, Khế Iêm tin rằng, công trình này sẽ giúp cho người đọc: “học hỏi thêm, không những về ngôn ngữ và văn hóa mà còn tiếp thu được cách làm thơ, nhận ra sự khác biệt giữa 2 dòng thơ, học hỏi kinh nghiệm của những nhà thơ Mỹ và làm giàu cho thơ Việt…”. Theo ông:“Đọc song ngữ là một tiến trình hỗ tương, qua bản chính, người đọc có khuynh hướng đi tìm bản dịch và ngược lại, qua bản dịch người đọc sẽ quay lại đọc bản chính…”.  Ông cho rằng: “Thế giới đang thu nhỏ và mỗi nền văn hóa là những người anh em, cùng một mẹ nhân loại, cần chia sẻ và cảm thông, chung sống trong an bình và làm cuộc đời thêm hương sắc”.

Xin cảm ơn nhà thơ đã tin cậy gửi bản thảo và cho phép chúng tôi lần lượt giới thiệu đến bạn đọc thơ của những nhà thơ Mỹ mà ông tuyển chọn.

                                                                                                Văn Việt

 

 

Elizabeth Alexander

 

LETTER: BLUES

 

                                                “Those Great Lake Winds

                                                blow all around:

                                                I’m a light-coat man

                                                in a heavy-coat town.”

                                                                        Waring Cuney

 

Yellow freesia arc like twining arms;

I’m buying shower curtains, smoke alarms,

And Washington, and you, Love – states away.

The clouds are flat. The sky is going grey.

 

I’m fiddling with the juice jug, honey pot,

White chrysanthmums that I just bought.

At home, there is a violet, 3-D moon

And pachysandra vines for me to prune,

 

And old men with checkered shirts, suspenders,

Paper bags and Cutty bottles, menders

Of frayed things and balding summer lawns,

Watching TV baseball, shelling prawns.


The women that we love! Their slit-eyed ways

Of telling us to mind, pop-eyed dismays.

We need these folks, each one of them. We do.

The insides of my wrists still ache with you.

 

Does the South watch over wandering ones

Under different moons and different suns?

I have my mother’s copper ramekin,

A cigar box to keep your letters in.

 

At least the swirl ceilings are very high,

And the Super’s rummy, sort of sly.

I saw a slate-branched tree sway from the roots.

I’ve got to buy some proper, winter boots.

 

So many boxes! Crates and crates of books.

I must get oil soap, bleach, and picture hooks.

A sidewalk crack in Washington, D.C.

Will feed my city dirt roots. Wait for me.

 

 

LÁ THƯ: ĐIỆU BLUE

 

                                                “Gió Ở Hồ Lớn Này

                                                thổi khắp nơi:

                                                Em là người mặc áo mỏng

                                                trong một thị xã mặc áo dầy.”

                                                                                    Waring Cuney

 

Cây dây leo hoa vàng như cánh tay xoắn lại;

Em mua tấm màn che bồn tắm, máy báo khói,

Và Washington, và anh, Tình yêu – ở xa đây.

Những đám mây phẳng lặng. Bầu trời ngả xám.

 

Em đùa nghịch với bình nước trái cây, hũ mật ong,

Hoa cúc trắng em mới mua.

Ở nhà trăng tròn màu tím

Và có những cây nho cho em tỉa tót,

 

Và có những ông già mặc áo ca rô, đeo dây quần, mang túi giấy

Và những chai rượu Cutty, người thợ sửa

Những thứ sờn cũ và có những bãi cỏ mùa hè trơ đất,

Họ đang coi trận đấu bóng chày trên TV, bóc vỏ tôm thẻ.

 

Những người đàn bà chúng ta yêu! Những cách nhìn híp mắt

Tuân phục và trố mắt nói lên sự thất vọng ngạc nhiên.

Chúng ta cần tất cả, mỗi người họ. Chúng ta cần.

Em đau tay vì viết thư cho anh.

 

Có phải ở miền Nam trông chừng những kẻ lang thang

Dưới mặt trăng khác nhau và mặt trời khác nhau?

Em có cái khay bằng đồng,

Hộp thuốc lá xì gà đựng những lá thư anh.

 

Ít nhất những cái trần nhà quay mòng mòng trên cao,

Và người Giám thị là tay say rượu ranh mãnh.

Em thấy một cái cây cành xám lung lay từ gốc.

Em phải mua vài đôi giày ống hợp với mùa đông.

 

Rất nhiều hộp! Từng thùng sách.

Em phải mua xà bông lỏng, thuốc tẩy, những chiếc móc treo tranh.

Một khe nứt trên vỉa hè Washington, D. C.

Đủ cho nhu cầu hạn chế sự tiếp cận thiên nhiên. Hãy đợi em.

 

WHO I THINK YOU ARE

 

Empty out your pockets nigh time, Daddy.

key and pennies, pocket watch, a favored

Photograph of Ma, and orange-flavored

sucker-candies, in the dresser-caddy.

 

Grandpa, leaves his silver in his trousers

potions for catarrh set on the bureau,

and his Castile soap, “All pure.” Oh,

those oval, olive cakes for early rousers!

 

Baba’s home is different from my Daddy’s:

the sofa arms are draped with quiet lace,

Does he fix fish with cardamon and mace?

Coupons in a cookie tin. Meat patties,

 

Steaming Cream of Wheat and ripe banana,

Juice cup with the little paper hats

the guava jelly jars on plastic mats.

We are your children and receive your manna.

 

I see you both. I see what’s in your pockets.

Coins from you, Dad’. Baba? What’s for me?

Fortune cookies, child, and sacks of tea,

cigar bands and glinting, dimestore lockers.

 

 

TÔI NGHĨ ANH LÀ AI

 

Ban đêm Ba hãy móc hết những gì trong túi ra.

Chìa khóa, tiền xu, đồng hồ bỏ túi, tấm ảnh

ngọai hình của Mẹ, và những chiếc kẹo

ngậm mùi cam, bỏ trong cái hộp.

 

Ông nội để những đồng bạc trong túi quần dài

những liều nước mũi đông đặc trên bàn giấy,

và cục xà bông Castile, “Tất cả còn nguyên”. Ôi,

những chiếc bánh ngọt ô liu hình bầu dục cho kẻ thức sớm!

 

Nhà của Ông bà nội khác với nhà Ba tôi:

những tay ghế xô pha được phủ đăng ten trang nhã

Ông có cá kho với hương liệu gừng và hạt dẻ?

Phiếu bớt giá trong hộp bánh bích qui. Nhân thịt xay,

 

Bánh ngũ cốc Cream of Wheat hấp và chuối chín,

ly nước Trái cây với chiếc nón giấy nhỏ

những lọ mứt ổi trên miếng đệm lót bằng nhựa trên bàn.

Chúng ta là con cháu và nhận bánh thánh của Ba và Ông bà nội.

 

Tôi thấy cả hai. Tôi thấy những gì trong túi Ba.

Những đồng cắc của Ba, của Ông bà nội? Cái gì cho con?

Những chiếc bánh bích qui rủi may, đứa trẻ, và những bị trà

những băng xì gà và tủ đựng đồ lấp lánh rẻ tiền.

 

DEADWOOD DICK

 

                        “Come on and slant your eyes again, O Buffalo Bill.”

                                                                                    Carl Sandburg

 

Colored cowboy named Nat Love,

They called him Deadwood Dick.

A black thatch of snakes for hair,

Closed-mouthed. Bullet-hipped.

 

One knee bent like his rifle butt,

Just so. Rope. Saddle. Fringe.

Knock this white boy off my shoulder.

Stone-jawed, cheekboned man.

 

Mama, there are black cowboys.

A fistful of black crotch.

Deadwood Dick: Don’t fuck with me.

Black cowboy. Leather hat.

 

DEADWOOD DICK

                                    “Cố lên và liếc mắt lần nữa, Ôi Buffalo Bill”

                                                                                    Carl Sandburg

 

Cao bồi đen tên Nat Love,

Chúng gọi hắn là Deadwood Dick.

Tóc quắn đen như rắn,

Miệng mím chặt. Còm nhom

 

Một đầu gối cong như báng súng,

Đúng thế. Dây thừng. Yên ngựa. Viền tua.

Chơi chết gã trắng này đi

Hàm trơ. Gò má cao.

 

Má, có những cao bồi đen.

Một nhúm người đen.

Deadwood Dick: Đừng kiếm chuyện với tao.

Cao bồi đen. Mũ da.

 

*Deadwood Dick, một nhân vật tiểu thuyết của tác giả Edward Lytton Wheeler (1854 – 1885). Còn Nat Love (1854 – 1921), một cao bồi da đen Mỹ.

——–

 

*Elizabeth Alexander (b. 1962) published her first collection of poems, The Venus Hattentot, in 1990. She was educated at Yale and Boston University, where she studied with Derek Walcott. More of her work has appeared in The Southern Review and other periodicals, and she has taught at the University of Chi­cago since 1991.

 

* Elizabeth Alexander (sinh ra năm 1962), tập thơ đầu tiên của bà, The Venus Hattentot, được in vào năm 1990. Bà đã theo học tại đại học Yale và Boston, cùng với nhà thơ Derek Walcott. Những tác phẩm khác của bà xuất hiện trên tạp chí từng kỳ Southern Review và các tạp chí từng kỳ khác. Bà dạy tại đại học Chicago từ năm 1991.

 

 

Bruce Bawer

 

ON LEAVING THE ARTISTS’ COLONY

 

The way love rests upon coincidence,

the way a sense of family and home

can flow now, like a stream, through several hearts

transplanted from their diverse native climes

by strangers’ choices, violates all sense.

 

If we had all been here at different time

I know we’d have formed other loyalties,

drawn other eyes and written other poems,

and I know there are friendship I’d have made

with people whom I now may never meet.

 

But so be it. Heard melodies are sweet,

and unheard melodies are never played

except on the harmonium of art.

This place we love reminds us how immense

the world is, and how small our cherished part,

 

and why we feel drawn on toward mysteries,

compelled to paint and sculpt, compose and write.

To think of those who’ll be here three months hence,

who’ll fell just as we do, and find it hard

believing that emotions so intense

 

can be so commonplace, is to regard

those mysteries as if with second sight.

It is to sense an elemental rhyme

of soul and soul, to feed a river flow

between our hearts and those we’ll never know.

 

RỜI KHỎI HỘI NGHỆ SĨ

 

Đường tình dựa vào sự ngẫu nhiên và đường nhận

biết về gia đình nhà ở có thể tuôn chảy

như một dòng suối qua vài tấm lòng di chuyển

từ những nơi chốn sinh quán đa dạng bởi chọn

lựa của người xa lạ, vi phạm mọi nhận biết

 

trí tuệ. Nếu tất cả chúng ta đã ở đây

vào những thời điểm khác nhau tạo thành những cam

kết khác nhau vẽ những đôi mắt khác viết những

bài thơ khác và tôi biết những tình bạn tôi

đã có với những người tôi chưa một lần gặp

 

mặt. Chấp nhận như thế. Nghe những giai điệu ngọt

ngào, và không nghe những giai điệu chưa một lần

hát lên trừ ra nơi trí tưởng. Nơi yêu mến

này nhắc chúng ta thế giới bao la làm sao,

nhỏ bé làm sao, phần thương mến, và tại sao, những

 

bí mật lôi cuốn thúc đẩy chúng ta vẽ tranh,

tạc tượng, sáng tác và viết. Để nghĩ về những

người sẽ ở đây ba tháng từ lúc này, ai

sẽ cảm thấy, và thấy khó tin những tình cảm

cuồng nhiệt có thể quá bình thừơng, quan tâm tới  

 

bí mật đó như thế nào với tầm nhìn lần

thứ hai. Để nghĩ cảm nhận một vần cơ bản

của linh hồn này tới linh hồn khác, nuôi dưỡng

một dòng sông trôi giữa trái tim và những thứ

chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết.

 

THE VIEW FROM AN AIRPLANE AT NIGHT

OVER CALIFORNIA

 

This is a sight that Wordsworth never knew,

whether looking down from mountain, bridge, or hill:

An endless field of lights, white, orange, and blue,

as small and bright as stars, and nearly still,

but moving slowly, many miles below,

in blackness, as stars crawl across the skies,

and ranked in rows that stars will never know,

like beads strung on a thousand latticed ties.

Would even Wordsworth, seeing what I see,

know that these lights are not well-ordered stars

that have been here a near-eternity,

but houses, streetlamps, factories, and cars?

Or has this slim craft made too high a leap

above it all, and is the dark too deep?


NHÌN TỪ PHI CƠ ĐÊM, TRÊN CALIFORNIA

 

Đây là cảnh tượng mà Wordsworth chưa hề biết,

dù nhìn xuống từ trên cầu hay núi đồi: một

cánh đồng ánh sáng vô tận, trắng, cam, xanh, nhỏ

và sáng như những vì sao, và gần như phẳng

lặng, chuyển động chậm chạp, nhiều dặm phía dưới, trong

tối đen, như những vì sao ngang qua bầu trời,

và kết thành hàng, những vì sao sẽ không bao

giờ nhận biết, giống như những chuỗi hạt xâu trên

cả ngàn dây mắt cáo. Ngay cả Wordsworth, đang

nhìn những gì tôi nhìn, đâu biết rằng ánh sáng

này không phải những vì sao được sắp đặt ngăn

nắp, đã hiện diện ở đây từ lâu, mà chỉ

là những ngôi nhà, đèn đường, xưởng máy, xe cộ?

Hoặc có phải chiếc máy bay này đã vọt lên

quá cao bên trên, và bóng tối thì quá sâu (bên dưới)?

——-

 

*Bruce Bawer (born October 31, 1956) is an American writer who has been a resident of Norway since 1999. He is a literary, film, and cultural critic and a novelist and poet, who has also written about gay rights, Christianity, and Islam.

*Bruce Bawer (sinh ngày 31 tháng 10 năm 1956), nhà văn người Mỹ, cư trú tại Na Uy từ năm 1999. Ông là một nhà phê bình văn học, điện ảnh và văn hóa. Ông cũng là nhà thơ, tiểu thuyết gia, đã viết về quyền của người đồng tính, các tôn giáo như Cơ đốc giáo, và Đạo Hồi.

 

Kh. I

Comments are closed.