(tiếp theo và hết)
Trúc Ty dịch
遗传
我上班的地方
有一张五十年代的老式
办公桌。平时
我把腿架上去
当有人来时,我就移开
让他们看
桌沿上的压痕:一道很深的
腿的压痕
人们往往会惊讶道
如此逼真
而我告诉他们
这不是我一个人的缘故
还有其它人
它以前的主人,是
集体创造
就象楼上的那个女同事
她有一双漂亮的眼睛
那也同样不是她的
独创,那可能是她的母亲的
也可能使他祖母的
甚至有可能
是我爷爷的一个伯父的,他们
一代接着
一代
di truyền
chỗ tôi làm việc
có một cái bàn giấy kiểu cũ của
những năm 50. lúc thường
tôi gác chân lên nó
khi có người đến, tôi dời chân đi
để họ thấy
một vết hằn trên mép bàn: một vết hằn
của chân, thật sâu
thường thường mọi người sẽ kinh ngạc thốt
sao y hệt thế
còn tôi nói với họ
đây không phải là do một mình tôi
còn có người khác nữa –
chủ nhân lúc trước của nó, là
sáng tạo tập thể
giống như nữ đồng nghiệp kia ở trên lầu
cô có đôi mắt thật đẹp
cũng vậy đó không phải là sáng tạo của
riêng cô, đó có thể là của mẹ cô
cũng có thể là của bà cô
thậm chí có thể
là của một người bác của ông tôi, họ
đời này tiếp nối
đời khác
废园
走了那么远只是为了参观一座废园
在荒蛮地带。门上一把生锈的锁,一些疯长的草
掩没了石块,鸟雀飞起飞落
我们看到一只黄鼠狼,你说
象一只大公鸡。当它的身体有一半留在墙的阴影中
但又怎么可能象公鸡
你说,草的颜色在变
那也只是光线的缘故。我知道
你有化朽为奇的能力
在现在和其它日子,记住此刻
因为,它象我们灵魂围住的一块莫名之地
vườn hoang phế
đi xa như vậy chỉ vì để tham quan một khu vườn hoang phế
ở vùng đất hoang dã. trên cửa một ổ khoá gỉ sét, một vài loài cỏ mọc bộn
vùi lấp những phiến đá, chim chóc bay lên bay xuống
chúng ta nhìn thấy một con chồn lông vàng, bạn nói
giống một con gà trống lớn. khi thân thể nó có một nửa lưu lại trong bóng mờ trên tường. nhưng làm sao có thể giống gà trống chứ
bạn nói, cỏ đang thay màu đổi sắc
đó cũng chỉ là do tia sáng mà ra. tôi biết
bạn có năng lực biến cũ thành lạ
ở hiện tại và trong những ngày tháng khác, nhớ mãi phút này
bởi vì, nó giống một mảnh đất không tên mà linh hồn chúng ta vây quanh
一个年轻木匠的故事
年轻的木匠不爱说笑,行事利索
他从墨斗里扯出一根线来,如同一只
黑色的大蜘蛛,吐出一根丝在木板上
但错了。我说去找块橡皮
他没有睬我,只用刨子轻轻一抹
没了。我怎么就没想到
木板锯开来,还是不对,尺寸比我想要的小
他拉起锯子,变成两条腿
但矮了,又剖成四根挡。现在行了吧。他说
然后附向另一快木板。而我忍不住问他
要是又错了呢。那可以削成十六只楔子
他不假思索地答道。接着他师傅来了
我说给他听,问他,这些经验是谁传给他的
师傅笑着说:是斧子
chuyện chàng thợ mộc trẻ tuổi
thợ mộc trẻ không thích nói cười, làm việc mẫn cán
hắn từ lọ mực kéo ra một sợi dây, tựa như một con
nhện lớn màu đen, nhả ra một sợi tơ trên tấm gỗ
nhưng hỏng rồi. tôi nói đi tìm một cục tẩy
hắn không thèm nhìn tôi, chỉ dùng chiếc bào đưa nhẹ một đường
biến luôn. sao tôi lại không nghĩ tới
tấm gỗ cưa ra, vẫn cứ không đúng, kích thước nhỏ hơn cái tôi cần
hắn kéo cưa lên, biến thành hai cái chân
nhưng ngắn quá, lại xẻ thành bốn tấm che. bây giờ được rồi chứ. hắn nói
sau đó quay sang một tấm gỗ khác. mà tôi thì không nhịn được hỏi hắn
nếu mà lại sai nữa thì sao. vậy có thể đẽo thành mười sáu cái nêm
hắn đáp ngay không cần tỏ vẻ nghĩ ngợi. rồi bác thợ cả của hắn đến
tôi nói cho ông ta nghe, hỏi ông, những kinh nghiệm này là do ai truyền cho hắn
bác thợ cả cười nói: là cái búa
先知
树叶飘零的时候,我想起一场消失已久的
爱情。永远如此
我想起一个女人曾对我说:「你将过的更好」。以及
她转动脸庞像一个遥向未来的姿势
长久地,她站在那里
角下彷佛长着根须,缠绕在地下的
泥土和石子间
她因吸取本地营养而越发美丽
她离开了我
到丰腴的油脂中去生活
那里的云彩长着一张成熟妇人的脸
发幅的小草唱着情欲之歌,永远如此
而她则是一个先知
忘了一生中的许多预言
此地的树木、泥土却活在她
应验成真的话语中。一些鸟玩着离开到达的游戏
「你将过得更好。」在这深秋的傍晚
散发出一种香气。宛如一道神示
tiên tri
bản dịch của Ái Vân Quốc & Trúc-Ty
khi lá cây rụng tả tơi, tôi nhớ đến một cuộc tình đã mất
từ lâu. mãi mãi như vậy
tôi nhớ đến người con gái từng nói với tôi: “đời anh rồi sẽ tốt hơn”. nhớ đến
vẻ mặt nàng lúc quay đi tựa một tư thế nhìn xa về tương lai
thật lâu, nàng đứng ở đó
dưới chân phảng phất mọc rễ, quấn quýt dưới đất
giữa bùn đất và đá vụn
bởi hấp thụ dinh dưỡng của đất này mà nàng đẹp hơn
nàng đã rời khỏi tôi,
đến sống trong nhung lụa chất ngất
ở đó màu mây kết thành khuôn mặt người đàn bà thành thục
cỏ non lan rộng đang hát bài ca dục tình. mãi mãi như vậy
mà nàng là một vị tiên tri
đã quên bao nhiêu điều tiên đoán trong đời
chỉ có cây lá, bùn đất nơi này lại sống trong lời nàng
nay đã ứng nghiệm thành sự thật. một vài con chim chơi trò bay đi rồi lại đến
“đời anh rồi sẽ tốt hơn.” trong buổi chạng vạng cuối thu
toả ra một làn hương. hệt như một dấu báo của thần
湖泊地带
一夜欢爱之后床在旋转,人们告诉我
原先这里是湖泊,我睡的地方,那时人们用来
抛置弃婴,一些宗教的后裔
幸存者由尼姑哺育,和尚教化
但他们得到的却是最老到的世俗经验
几座房子,一些人构成小镇稳定的三角
如仰卧的金字。长条形的女人
头发水草般的缠绕,月光在其上投下的
星星点点如欲火散布在沼泽之上
他们有这能力吗?这些人,这些长眠于地下
摆着蛙式的男人。而今夜我站在
亮着一盏灯的邮电所旁边,象是来到一道符咒的边缘
一股风吹来阵阵焚香的气息,我听到
铁锤在地下的声音、纠缠、伸展。彷佛
有什么东西就要从眼前缓缓升起
vùng đầm hồ
bản dịch của Ái Vân Quốc & Trúc-Ty
sau một đêm hoan tình giường đang xoay chuyển, người ta bảo tôi
ở đây vốn là vùng hồ, nơi tôi ngủ, hồi đó người ta dùng để
vứt bỏ trẻ sơ sinh, một vài hậu duệ của tông giáo
những đứa may mắn sống sót được ni cô bón mớm, và hoà thượng dạy dỗ
nhưng cái mà chúng thu nhận được lại là những kinh nghiệm thế tục cổ xưa nhất
một vài nóc nhà, một vài người hợp thành tiểu trấn tam giác ổn định
như chữ Kim nằm ngửa. người đàn bà mình dây
tóc quấn rối như loài rong, ánh trăng hắt xuống mình nàng
từng ánh sao lấp lánh như lửa dục cháy lan trên đầm lầy
họ có năng lực đó không? những người này, những người đàn ông
ngủ giấc dài trong đất theo kiểu ếch. mà đêm nay tôi đứng bên
cạnh một bưu điện với ngọn đèn thắp sáng, giống như đến bên viền của một đạo phù chú,
một ngọn gió thổi đến từng đợt khói nhang, tôi nghe thấy
tiếng búa thép ở dưới lòng đất, lẩn quất, vươn dài. phảng phất
có vật gì từ từ dâng lên liền ngay trước mắt,
砖雕
雨天下午,一个砖雕的头像
突然从我时常经过的
巷子的墙面上探出来
像在俯视。他的身体仿佛藏在整个
墙体上,脚一直伸到郊外
在水库茂盛的水草间洗濯
要么他就是住在这座房子里的家神
在上阁楼时不小心露出脑袋
这张脸因长期在炉灶间徘徊
变得青灰
这个下午不象现在,倒象以前的一些时刻
我们那时住的地方叫“永宁”
后来叫甚么?反正都是
美好的祝愿。我看到父亲的脸
朝着窗外,我走的雪地里
揣着一张糟糕的成绩单─
三十年前,一张三十岁的男人的面孔
如我现在一般的面孔
tượng gạch
buổi chiều ngày mưa, một cái đầu tượng điêu khắc bằng gạch
đột nhiên thò ra từ bức tường
của cái hẻm tôi thường đi qua
như đang nhìn xuống. thân thể nó tợ hồ lẫn vào cả
bức tường, chân cứ vươn ra đến ngoại ô
rửa ráy giữa đám rong trong hồ chứa nước tràn đầy
nếu cần nó chính là gia thần trú trong ngôi nhà này
lúc lên lầu không cẩn thận để lộ cái đầu
bộ mặt này bởi bồi hồi dài lâu giữa lò nung
trở nên xanh xám
buổi chiều nọ không giống bây giờ, lại giống một vài thời khắc lúc trước
nơi chúng tôi ở lúc đó gọi là “Vĩnh Ninh”
sau đó gọi là gì? dù gì cũng đều là
những chúc nguyện tốt đẹp. tôi nhìn thấy khuôn mặt của cha
hướng ra ngoài cửa sổ, trong đám tuyết tôi đi
vùi một phiếu thành tích tồi tệ
ba mươi năm trước, một khuôn mặt đàn ông ba mươi tuổi
giống hệt gương mặt tôi bây giờ
雨的灵魂
她在窗上写字
手挥动在你和山水之间,或者在一阵离别的烟雾中
她臂膀上的牛痘宛如某个
神秘家族的徽记
肚脐。是只干枯的泪眼
但有时积满幸福的泪水,在沫浴时。在雨地里
雨是她的灵魂
而额角柔软的绒毛中,隐现着一道闪电
那幼年时,在那饥渴的山村,在一颗烧焦的树下
一个如今在山上打石头的男人
用坚硬的石块留下的
鲜血垂下来注入大地
如同雨水穿过她披散的长发
linh hồn của mưa
nàng viết chữ trên cửa sổ
tay khua động giữa mi và sông núi, hoặc là giữa một trận sương khói li biệt
nốt đậu trên cánh tay nàng tựa như huy hiệu
của một gia tộc thần bí nào
cái rốn. là con mắt lệ cạn khô
nhưng có lúc chan chứa nước mắt hạnh phúc, những khi tắm gội. trong vùng đất mưa
mưa là linh hồn của nàng
mà trong lông tơ mịn mềm ở góc trán, ẩn hiện một tia điện chớp
vào năm tháng ấu thời, nơi sơn thôn đói khát, dưới một tàn cây cháy rụi
một người bây giờ là gã đàn ông đang đập đá ở trên núi
dùng phiến đá cứng lưu lại
những giọt máu tươi nhễu xuống thấm vào lòng đất
giống như nước mưa xuyên qua mái tóc dài loà xoà của nàng
圣洁动物
热水窜出冬天的厨房,在宗教节日的深夜
我闻到有人在烹调圣洁动物的香味
野小子正卧在浴缸里胖女人的身上
一条黑鱼和一尾红鲤
她因恋爱而更加生动。他因长着
一双白净的手便善于抚摸
此刻一头黄牛穿过空旷的街道
像某种野蛮而有力的思索,只是渐渐远去
回到它暗中的草料棚前,桔黄色的皮上
仿佛加上了釉彩,等待烧制成一种永恒
động vật thánh khiết
bản dịch của Ái Vân Quốc & Trúc-Ty
nước nóng nhà bếp mùa đông xông ra , trong đêm sâu mùa lễ tôn giáo
tôi ngửi thấy mùi vị của động vật thánh khiết ai đó đang nấu nướng
một thằng man rợ nằm trên tấm thân người đàn bà mập trong bồn tắm
một con cá đen và một con cá chép hồng
bởi yêu đương mà nàng càng thêm sinh động. nhờ sinh ra có
đôi tay trắng sạch mà thằng đó giỏi ngón vuốt ve.
chính lúc này một con bò chạy xuyên qua con đường trống trải
giống một luồng tư tưởng nào đấy dã man nhưng đầy sức mạnh, chỉ là chầm chậm rời xa
trở về trước phên cỏ mờ tối của nó, trên da màu vàng cam
phảng phất phết thêm sơn dầu, chờ thiêu thành một thứ vĩnh hằng
ghi chú : bài này người dịch lấy lại tiêu đề và chỉnh lại đôi chỗ từ bản đã đăng trên tienve.org, với góp ý của dịch giả Nguyễn Tiến Văn
郑人买履
我穿着妻子从
她前夫那里带来的袜子
上面补着不同时期的
希罕的补丁
那是怎样一颗灵巧的心
或者我渴望优雅
在寂寞的心灵上丈量我们对偶的生活
如同在两只祭物
打开的腹腔中:战争、制药
爱情和泪水
以及其它非此即彼的生活
但是那根金黄的麦秸遗失了
不然。它会成为
十字架,成为木鱼
người đất Trịnh mua giày
tôi mang chiếc tất vợ mang về
từ chỗ người chồng trước của nàng
bên trên vá những miếng vá hiếm có
của những thời kì khác biệt
đó là một trái tim khéo léo biết bao
hoặc là tôi khát vọng ưu nhã
đo lường sinh hoạt vợ chồng của chúng tôi nơi tâm linh im vắng
như mở banh khoang bụng
của hai vật tế: chiến tranh, dược phẩm
tình yêu và nước mắt
cho đến những đời sống khác chẳng này thì nọ
nhưng cái vỏ trấu bằng vàng ấy biến mất rồi
nếu không. nó sẽ trở thành
thập tự giá, trở thành cái mõ
如果我知道人们如何回忆
如果我知道人们如何回忆
我就知道他们是怎样相爱的,有一回
在小镇的深处,我听到一个妇人
正在悲泣,埋怨他死去已久的丈夫
一种长久而深沉的爱的回响
还有一个人来到约会地点
只是为了告诉另一个她将不来
或者再也不来
以及敲错了门的美丽的女士离开后
你却只记得她提到的
一个完全陌生的男人的名字
象是在说某座遥远的城市
要么你告诉她,她是对的
在其它时间和地方,你就是另一个人
至于我在拼命的回忆,一味回忆
那吹灭火柴的温暖的气息
是在香烟燃着之前,还是之后
nếu tôi biết người ta hồi ức thế nào
nếu tôi biết người ta hồi ức thế nào
tôi sẽ biết người ta yêu nhau ra sao, có một dạo
ở chỗ heo hút nơi thị trấn nhỏ, tôi nghe thấy một người đàn bà
đang than khóc, oán trách người chồng đã chết từ lâu
một thứ vọng âm của tình yêu lâu bền mà thâm trầm
lại có một người đi đến điểm hẹn
chỉ để nói với người kia cô sẽ không đến
hoặc chẳng bao giờ đến nữa
rồi cả quý cô xinh đẹp gõ nhầm cửa sau khi rời đi
bạn lại chỉ nhớ mỗi cái tên
của một người đàn ông lạ hoắc mà nàng nhắc đến
giống như đang nói về một thành phố nào xa xôi
hoặc bạn nói với nàng, rằng nàng đã đúng
tại thời gian và nơi chốn khác, bạn cũng là một người khác
đến việc tôi đang cật lực nhớ lại, nhớ mãi một mùi
cái hơi thở ấm áp thổi tắt que diêm ấy
là trước khi điếu thuốc cháy lên, hay là sau
叙事
这家有五个女儿和一个
过了中年的父亲。我常常看到
他拎着空垃圾桶站在路口
他的女儿如放飞的小鸟
在小镇的舞厅和宾馆前笑。而他的妻子
我从未见过, 她可能
象只母鸡。羽毛上闪动整齐
内敛的光芒
有时他伫立在阳台上
象是在守候。在飘动着的
五彩衬裙和他自己朴实的外套后面
我爱上他家最小的哪个
直到她们不断离开
直到我忘了她的美貌和坏名声
如今。他象是消失了,看不见了
仿佛五盏照着他的灯被移开
他暗了下来
thuật sự
nhà ấy có năm cô con gái và một
người cha đã qua tuổi trung niên. tôi thường nhìn thấy
ông xách cái thùng rác không đứng ở góc đường
con gái ông như bầy chim non sổ lồng
cười trước sàn nhảy và khách sạn trong thị trấn. còn vợ ông
tôi chưa từng thấy lần nào, có thể bà
giống con gà mẹ. trên lông vũ chấp chới thứ ánh sáng chỉnh tề
thâu liễm vào trong
có lúc ông đứng sững trên sân thượng
như là đang trông chừng. ở sau những áo quần
sặc sỡ đang phất phới và chiếc áo khoác giản dị của chính ông
tôi phải lòng cô út trong nhà ông
mãi đến khi các cô lũ lượt ra đi
mãi đến khi tôi quên đi mặt đẹp và tiếng xấu của cô
giờ đây. ông như là đã mất hút rồi, nhìn không thấy nữa rồi
tựa hồ năm ngọn đèn soi vào ông đã bị dời đi
ông mờ hẳn xuống
来自基层的女人
走进办公室的那个女人来自基层
看上去非常健康, 她的乳房坚挺而无邪
象长再那里无所谓似的
她不在我以前的放荡生活中
生活。如今我也健康、有规律
一日三餐、每周一次
如同例会,接吻的嘴只用来喝水
她嬉笑像报春鸟,然后
她通知我们到楼下开会
象只胖乌鸦
我坐在各种柜子之间
当他读到“程序”和“全方位”
象是在读触模和进入
người đàn bà đến từ tầng lớp cơ sở
người đàn bà bước vào văn phòng đến từ tầng lớp cơ sở
xem ra vô cùng khoẻ mạnh, vú nàng căng mà không dâm
cứ như mọc ra bất cần ở đó vậy
nàng không sống trong đời phóng đãng của tôi
trước kia. bây giờ tôi cũng khoẻ mạnh, có quy luật
một ngày ba bữa, mỗi tuần một lần
như đã thành lệ, miệng hôn chỉ dùng uống nước
nàng cười vui như chim báo tin xuân, sau đó
nàng thông báo chúng tôi xuống lầu dưới họp
như một con quạ mập
tôi ngồi giữa các loại tủ
khi nàng đọc đến “trình tự” và “toàn phương vị”
cứ như đang đọc sờ mó và tiến vào
天文学家
清晨他到市场上买菜
长着一双被无数流星划过的玻璃花眼球
他是我的邻居,好思考
我们经常站在各自的阳台上交谈
他看着对楼的房间说:那里象是存有一个
外在空间。因为那里的人很缓慢
可是,我总弄不懂一颗陨星的光
能在这里维持多久
以及他们是否见过地球的反光,如果能
那又能改变甚么
我低着头在想。但他总是把头伸向望远镜
在深夜,脸朝上
像个祈雨的巫师
而在附近的工地上,搅拌机如同一台
灰色的飞行器,装满了那些可能曾是星星的砂石
在月色下它的料斗悬起
底下一个深坑,一种失控
nhà thiên văn học
sáng sớm ông ra chợ mua thức ăn
mở một đôi nhãn cầu hoa thuỷ tinh bị vô số sao băng lướt qua
ông là hàng xóm của tôi, ham suy nghĩ
chúng tôi thường đứng trên sân thượng của mỗi bên trò chuyện
ông nhìn căn phòng của nhà đối diện nói: ở đó tựa như hiện hữu một
không gian cõi ngoài. bởi vì những người ở đó rất chậm rãi
thế nhưng, tôi luôn không hiểu được ánh sáng của một ngôi sao băng
có thể duy trì ở đây bao lâu
đến việc chúng phải chăng từng thấy phản quang của địa cầu, nếu từng thấy
thế thì có thể thay đổi được gì
tôi đang cúi đầu nghĩ ngợi. còn ông thì cứ vươn đầu về phía kính viễn vọng
trong đêm sâu, mặt ngước lên
giống một vu sư cầu mưa
còn trên công trường phụ cận, máy trộn vữa giống một chiếc
phi thuyền màu tro, chứa đầy những sa thạch có thể từng là những vì sao
dưới màu trăng chiếc đấu chứa vật liệu của nó treo lên
dưới đáy là một cái hố sâu, một kiểu mất điều khiển
外交
经过大街的这个女孩,正在进行一次远足
就像一小片国土那样带着她
独有的气息。她来自我年龄之外的其它地方
甚至她的神情也像某种
异国语言,美妙,但难懂。仿佛
她将要穿过这块荒蛮之地寻找
新的友邦。背包里放着全部历史:几本相册
日记和几件证书……
我知道首先会有一个坏小子的接近,像个刚刚独立的
殖民地。然后是一个邻国般的男生
一个世代好友的姨夫,一个年迈的足以改造她的强国
ngoại giao
một cô bé đi qua con đường lớn, đang thực hiện một chuyến viễn hành
giống như một mảnh nhỏ đất nước mang
hơi thở riêng cô. cô đến từ một nơi khác bên ngoài độ tuổi của tôi
thậm chí thần thái của cô cũng giống
ngôn ngữ của một đất nước nào khác, đẹp lạ, nhưng khó hiểu. vẻ như
cô sẽ xuyên qua vùng đất hoang dã này để tìm kiếm
tình bang giao mới. trong túi đeo lưng mang toàn bộ lịch sử: vài cuốn bưu ảnh
nhật kí và vài tờ chứng thư…
tôi biết đầu tiên sẽ có sự thân cận của một đứa trẻ hư, giống như một vùng thuộc địa vừa mới
độc lập. sau đó là một cậu trai như nước láng giềng
một ông dượng hữu hảo truyền đời, một cường quốc già lão đủ để cải tạo cô.
一个人穿越旷野寻找宗教
他认真观察那里的每一次落日
如同观察某种智慧的形成
他燃起篝火看上去象一类新起源
他认为这样做可以提高
人们站立的高度,比如原先对一个人的爱
可以转化为对所有人的爱,甚至是
对天空土地的爱
相反,原先的恨会消失
变成虚空,只存放恨的影子
他要求我同样去做一次
我拒绝了他
因我觉得自己就近认识了一位天使
节日前她常常擦拭着一扇窗子
在某幢很高的楼房里。我知道其实
她是在练习飞翔
khởi nguồn mới
một người băng qua hoang dã đi tìm tông giáo
hắn chăm chú quan sát mỗi lần mặt trời lặn nơi ấy
tựa như quan sát một thứ trí tuệ hình thành
hắn đốt đống lửa ngước nhìn lên như một khởi nguồn mới
hắn cho rằng làm vậy có thể nâng
tầm cao chỗ đứng của mọi người, tỉ như tình yêu nguyên sơ với một người
có thể chuyển hoá thành tình yêu với mọi người, thậm chí là thành
tình yêu với trời, đất
ngược lại, mối hận ban đầu rồi sẽ tan
thành hư không, chỉ lưu lại bóng ảnh của hận
hắn yêu cầu tôi làm như vậy một lần
tôi đã từ chối hắn
bởi tôi cảm thấy mình sắp quen một vị thiên sứ
trước ngày lễ nàng thường lau chùi một cánh cửa sổ
trong căn phòng của một toà lầu cao. tôi biết thực ra
nàng đang vỗ cánh tập bay
窥视
关于这个女人。她的一个情人曾躲进
大衣柜。另一个情人藏在床下。接着她丈夫回来了
所有的情感一下子绽放
如同一扇久闭的大门
他和他是同一个人,甚至他和他们也是的
在一些时间,一些气候里
象是在模仿。他的丈夫脱去衣裤,照镜子
他就是镜子后面的那人。他躺在床上
则是床下之人的反影
nhìn trộm
về người đàn bà này. có một gã nhân tình từng núp vào
tủ áo lớn. một gã khác trốn ở dưới giường. rồi chồng nàng trở về
tất cả tình cảm phút chốc òa vỡ
như một cánh cửa lớn từ lâu đóng kín
hắn và hắn cùng là một người, thậm chí hắn và bọn hắn cũng vậy
tại một vài thời điểm, trong một vài khí hậu
giống như đang mô phỏng. chồng nàng cởi quần áo, soi gương
hắn chính là cái gã ở phía sau gương. ngả người trên giường
hắn chính là ảnh ngược của gã dưới giường
老式电话
进入老年,我父亲的身体开始好转
越加灵活。他爬到围墙上修剪树枝,紧张地
站在风中,他在沉默中独自干着,如果
有谁跟他搭话,他就会咆哮。因为他知道那将是危险的
也不管电话铃声,他总说没有甚么要紧的事
有一天仿晚我从外面回家
听到铃在响,一部老式电话,发了疯似的
我爬上楼,拿起来,却是一个打错的电话
灯光从户外照到地板上,一个倒放的楔形
我想起另一些日子,多么相象,但又不知道是哪些日子
记得和另一小男孩,站在刚刚雨晴的蓝色背景中
在一根暗黑的杂树做的电话干线下
一个男人正向我们走来,瘦长、急促,象是我父亲
cái điện thoại kiểu cũ
những năm về già, sức khoẻ cha tôi bắt đầu khá lên
càng thêm linh hoạt. ông trèo lên tường rào cắt tỉa lá cành, hồi hộp
đứng trong gió, ông làm việc một mình trong yên lặng, nếu như
có ai nói chuyện với ông, ông sẽ kêu ầm lên. bởi vì ông biết rằng như vậy là nguy hiểm
cũng mặc kệ tiếng chuông điện thoại, ông luôn nói chẳng có việc gì mà gấp gáp
có một ngày trời chập tối tôi từ ngoài trở về nhà
nghe thấy tiếng chuông đổ, một cái điện thoại kiểu cũ, cứ như đang phát điên
tôi chạy lên lầu, nhấc lên, nhưng là một cuộc gọi nhầm
ánh đèn từ ngoài cửa hắt vào chiếu trên nền nhà, một hình nêm đặt ngửa xuống
tôi nhớ đến những ngày tháng khác, giống nhau đến thế, nhưng cũng không biết là những ngày nào, nhớ cùng một bé trai khác, đứng trong cái nền màu xanh vừa tạnh mưa
dưới một cái cột điện thoại làm bằng loại cây tạp đen thẫm
một người đàn ông đang bước về phía chúng tôi, gầy nhom, vội vã, như là cha tôi
一首中国人关于命运的诗
我用别针钉死一只蜘蛛
那却不是我的缘故
一个妓女对警察说
我不想干,但没办法
其实这是一种古老的说法。无论我在哪里
总是同一个地方
一个工人从脚手架上摔下来
也是几十年前注定的
尽管那时没有这座建筑,没有
建造它的蓝图,甚至想要建造它的人还未出生
我向西会影响他人,向南则损坏自己
而我女儿几个世纪前就已出生
她如此苍老,我又如此年轻
被伤害的人又回到伤害他的人身边
象只来去镖,在它弧形空间里
有一会,我坐在火车上,我看到黄河
一条泛滥的生命线,我却弄不清
它是否与我有关
một bài thơ về người trung quốc nói về vận mệnh
tôi dùng kim băng đính chết một con nhện
nhưng duyên cớ không phải do tôi
một ả điếm nói với cảnh sát
tôi không muốn làm, nhưng đã hết cách
thực ra đây là một kiểu nói cổ xưa. bất kể tôi ở đâu
cũng luôn là ở cùng một nơi chốn
một công nhân từ trên giàn giáo ngã xuống
cũng là sự an bài của mấy mươi năm trước
cho dù lúc đó không có toà kiến trúc này, không có
phác đồ xây dựng nó, thậm chí người muốn xây dựng nó vẫn chưa ra đời
tôi hướng tây sẽ ảnh hưởng người khác, hướng nam ắt tổn hại chính mình
mà con gái tôi mấy thế kỉ trước đã chào đời
nó già sọm như thế, tôi lại trẻ trung như thế
người bị tổn thương lại trở về bên người làm tổn thương mình
giống chiếc lao khứ hồi, trong không gian cong của nó
có một lần, ngồi trên xe lửa, tôi nhìn thấy sông Hoàng
một dòng sinh mệnh tràn bờ, nhưng tôi ngẫm không ra
nó có quan hệ gì với tôi không
一张照片
一张照片因他后面写有文字而生动
因此我知道你以前的样子。但是人
却不能重复自己
当时,我渴望留住每一片景色
还有那么多的爱情。我说,我还要回来
尽管我知道,我再也不能
几年前,我看到一个人的头发被剃去
又在以后被允许的日子里长出来
一如某种黑色的光线渐被调增
一个医生曾对我说:思想就像
卫生间里省钱的八瓦灯管,它彻夜亮着。而有时
它坏了,熄灭了。像一个人死了
名字留了下来,又在不断更替的日子中消失
先是名,后是姓
甚至他的衣服也会被拆开,用来
适合另一个身体,他的女人
会重新学会爱、接吻、重新长出处女膜
学会笑,在新的记忆中
một tấm hình
một tấm hình bởi mặt sau có viết chữ mà sinh động
nhờ vậy tôi biết dáng bạn trước thế nào. nhưng con người
thì không thể lặp lại mình
hồi đó tôi khát vọng giữ lại mỗi một cảnh sắc
với lại nhiều tình yêu đến thế. tôi nói, tôi sẽ còn trở lại
dù tôi biết, tôi chẳng còn có thể
mấy năm trước, tôi nhìn thấy đầu tóc của một người bị cạo
rồi sau đó lại mọc ra trong những ngày được cho phép
như một tia quang tuyến màu đen được chỉnh dài thêm
một bác sĩ từng nói với tôi: tư tưởng cũng giống
bóng đèn tiết kiệm 8 watt trong phòng vệ sinh, nó được thắp thâu đêm. mà có lúc
nó bị hỏng, tắt ngúm. giống một người đã chết
để lại cái tên, rồi lại biến mất theo ngày tháng đổi thay
trước là tên, sau đến họ
thậm chí áo quần hắn cũng bị lột ra, mặc vừa vặn
cho một thân thể khác, và người đàn bà của hắn
sẽ lại học biết yêu, biết hôn lại từ đầu, mọc màng trinh lại từ đầu
học biết cười, trong kí ức mới tinh.
在糖果店
有一会我在糖果店的柜台上
写下一行诗,但是
我不是在写糖果店
也不是写那个称秤的妇人
我想着其它其它事情:一匹马或一个人
在陌生的地方,展开
全部生活的戏剧、告别、相聚
一个泪水和信件的国度
我躺在想象的暖流中
不想成为我看到的每个人
如同一座小山上长着
本来该长在荒凉庭院里的杂草
tại tiệm kẹo mứt
có một hồi trên quầy tại tiệm kẹo mứt
tôi viết xuống một dòng thơ, nhưng
không phải tôi đang viết về tiệm kẹo mứt
cũng không phải viết về người đàn bà cân lường nọ
tôi nghĩ về những việc khác việc khác: một con ngựa hoặc một người
trên một xứ sở xa lạ, bày ra
toàn bộ trò đời, cáo biệt, tương ngộ
một đất nước của nước mắt và thư từ
tôi nằm trong dòng ấm của tưởng tượng
không muốn trở thành một ai tôi thấy
giống như loài cỏ tạp mọc trên một ngọn núi nhỏ
mà lẽ ra phải mọc trong sân vườn hoang lương