Khế Iêm
Paul Lake
__________________________
BLUE JAY
A sound like a rusty pump beneath our window
Woke us at dawn. Drawing the curtains back,
We saw – through milky light, above the doghouse –
A blue jay lecturing a neighbor’s cat
So fiercely that, at first, it seemed to wonder
When birds forgot the diplomacy of flight
And met, instead, each charge with a wild swoop,
Metallic cry, and angry thrust of beak.
Later, we found the reason. Near the fence
Among the flowerless stalks of daffodils,
A weak piping of feathers. Too late now to go back
To nest again among the sheltering leaves.
And so, harrying the dog, routing the cat,
And taking sole possession of the yard,
The mother swooped all morning,
I found her there
Still fluttering round my head, still scattering
The troops of blackbirds, head cocked toward my car
As if it were some lurid animal,
When I returned from work. Still keeping faith.
As if what I had found by afternoon
Silent and still and hidden in tall grass
Might rise again above the fallen world;
As if the dead were not past mothering.
CHIM GIẺ XANH
Âm thanh giống như tiếng máy bơm khàn
khàn đánh thức chúng tôi vào lúc rạng
sáng. Vén bức màn chúng tôi thấy – qua
ánh sáng sớm mai, trên cái chuồng chó –
một con chim giẻ xanh đang quang quác
dữ dội với con mèo hàng xóm, ban
đầu, chúng tôi phân vân hình như những
con chim đã quên mất sự khôn ngoan
là nên bay đi hơn là đánh nhau
và thay vì cứ bổ nhào giận dữ,
với tiếng kêu chát chúa, và nhát mổ
dữ dội. Sau đó chúng tôi khám phá
ra lý do. Gần hàng rào giữa những
cuống hoa thủy tiên vàng, một con chim
non yếu ớt. Con chim non quá yếu
để có thể bay về chiếc tổ bị
che khuất giữa những tàn lá. Và vì
vậy con chim mẹ – quấy chó, đuổi mèo,
độc chiếm chiếc sân, và bổ nhào suốt
buổi sáng. Khi trở lại tôi thấy con
chim mẹ còn đó, vẫn vỗ cánh trên
đầu tôi, vẫn làm cho lũ chim két
bay tán loạn, chu mỏ về phía chiếc
xe của tôi, như thể chiếc xe là
con vật ghê gớm nào đó. Con chim
mẹ quyết bảo vệ chim con. Như thể
tôi đã thấy vào lúc trưa, một thứ
gì đấy, im lặng và tĩnh lặng và
ẩn nấp trong cỏ, có thể trồi lên
từ bên kia thế giới, như thể kẻ
chết được dỗ ngọt trở lại với đời.
A MIDNIGHT DAWN
When tinkling glass
Rang in my ear,
I walked the hall
Where Chanticleer
Had crowed up dawn
With crackling mirth,
Red feathers flashing
From his perch,
While from the breach
In the ceiling swung
Our chandelier
Like a felon strung,
Legs wildly kicking,
Until my eyes
Spied red tongues licking
Toward the skies.
Then as engines
Flashed and roared
To save our roof,
The rooster soared
Passed blackened beams
And joists that left
The acrid scent
Of dragon’s breath.
HÉ RẠNG NỬA ĐÊM
Khi mặt kính leng keng
rung lên bên tai
tôi đi bộ ở hành lang
nơi chú Gà trống
thức suốt đêm với tiếng lục cục
tươi vui, với bộ lông đỏ
lóe sáng nơi chỗ đậu,
trong khi từ một lỗ hổng
trên trần nhà đung đưa
chùm đèn treo giống như
một tội nhân bị treo cổ
đôi chân quẫy đạp cuồng dại
cho đến khi mắt tôi
nhìn thấy chiếc lưỡi đỏ thè ra
hướng lên trời.
Lúc đó như những động cơ
vụt sáng và nổ đùng đùng
để tránh cho mái nhà của chúng tôi,
con gà trống bay lên
qua khỏi sườn nhà đã hóa đen
và những cái rầm nhà còn rơi lại
mùi cay sè của hơi thở rồng.
* Paul Lake (1951–2022) was an American poet, essayist, and professor at Arkansas Tech University. Another Kind of Travel won the Porter Fund Award for Literary Excellence. In addition, he won the Richard Wilbur Award for poetry in 2006. He graduated from Towson University with a B.A. and from Stanford University with an M.A. He had served as the poetry editor for First Things.
* Paul Lake (1951–2022), nhà thơ, nhà tiểu luận và giáo sư người Mỹ tại Đại học Công nghệ Arkansas. Tác phẩm của ông, Một Loại Hình Du Lịch Khác, đã giành được Giải thưởng của Quỹ Porter về Văn học Xuất sắc. Ngoài ra, ông đã được Giải thưởng Richard Wilbur về thơ vào năm 2006. Ông tốt nghiệp Đại học Towson với bằng Cử nhân và bằng thạc sĩ tại Đại học Stanford. Ông đã từng là nhà biên tập thơ cho First Things.
Sydney Lea
__________________________
THE WRONG WAY WILL HAUNT YOU
(Shouting a hound)
Spittle beads as ice along
her jaw on this last winter day.
And when I lift her, all her bones
are loose and light as sprigs of hay.
For years her wail has cut the woods
in parts, familiar. Host of hares
have glanced behind as she ploughed on
and pushed them to me unawares.
Now her muzzle skims the earth
as if she breathed a far dim scent,
and yet she holds her tracks to suit
my final, difficult intent.
For years with gun in hand I sensed
her circle shrinking to my point.
How odd that ever I should be
the center to that whirling hunt.
Here a yip and there a chop
meant some prime buck still blessed with breath,
and in the silences I feared
she’d run him to her own cold death.
The snow that clouds my sights could be
a trailing snow, just wet and new
enough to keep a scent alive,
but not so deep that she’d fall through.
* Sydney Lea is an American poet, novelist, essayist, editor, and professor, and was the Poet Laureate of Vermont (2011–15).
ĐIỀU KHÔNG HAY THƯỜNG ĐẾN
(Tiếng kêu một con chó săn)
Những hạt nước dãi như băng giá dọc
theo quai hàm con chó săn vào ngày
cuối đông. Và khi nhấc lên xương cốt
nó lỏng lẻo và nhẹ như một cọng
cỏ khô. Suốt năm tiếng kêu quen thuộc
của nó đã cắt khu rừng thành từng
phần. Bầy thỏ liếc nhìn phía sau không
biết nó đã rẽ và đẩy chúng tới
tôi. Bây giờ mõm nó là đà dưới
mặt đất, như thể sự thính mũi của
nó đã lờ mờ xa, và lúc này
ý định giữ vòng săn đáp ứng mục
tiêu với nó là khó. Suốt năm, với
cây súng trong tay tôi có cảm giác
nó đã bắt đầu già. Tôi chưa bao
giờ trông chờ tôi là trung tâm cuộc
săn cuồng quay đó. Đây là tiếng sủa
và kia là con mồi, có nghĩa là
vài con nai tơ vẫn sống, và trong
yên lặng tôi sợ việc đuổi theo đã
mang tới cái chết lạnh cho chính nó.
Tuyết phủ tầm nhìn của tôi có thể
là tuyết vẽ thành vệt, ướt và mới
đủ để giữ sự thính mũi tồn tại,
nhưng không sâu rằng nó đã thất bại.
* Bài thơ trích trong tuyển tập thơ “Rebel Angels” (Những Thiên Thần Nổi Loạn), 25 nhà thơ tân hình thức, do Mark Jarman và Davis Mason chủ biên, Story Line Press xuất bản 1998.
* Sydney Lea (1942 –), nhà thơ, tiểu thuyết gia, nhà tiểu luận, biên tập viên người Mỹ. Ông cũng là một giáo sư đại học, và nhà thơ đoạt giải Vermont (2011–15).
Ngoài ra, ông cũng là nhà sáng lập và cựu chủ biên tờ “The New England Review”. Tuyển tập thơ của ông bao gồm Searching the Drowned Man, The Floating Candles, No sign, Prayer for Little City và The Blainville Testament. Ông sống ở Newbury, Vermont, USA.
(Còn tiếp)