Nguyễn Lương Vỵ
Một thiền-sư-thi-sĩ thấu triệt Đời và Đạo
Trần Nhân Tông là một vị vua nổi tiếng “thân dân”. Ngài thấu hiểu tình cảnh đau thương, ly tán của muôn dân trong chiến tranh, nhất là thân phận của những người cô phụ ở hậu phương, khi người chồng phải ra chiến trường đánh giặc. Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt “Khuê Oán” (Nỗi Oán Nơi Phòng Khuê), người đọc có cảm tưởng như có tiếng than thầm của người vợ đang sống trong cảnh cô quạnh, nhung nhớ, mong chờ:
“Thụy khởi câu liêm khán trụy hồng,
Hoàng ly bất ngữ oán đông phong.
Vô đoan lạc nhật tây lâu ngoại,
Hoa ảnh chi đầu tận hướng đông.”
(Ngủ dậy cuốn rèm, xem hồng rơi,
Oanh không ca, oán gió Xuân thôi.
Ngờ đâu chiều rụng lầu Tây đó,
Bóng hoa vươn cánh hướng Đông rồi.)
Chẳng những có lòng nhân hậu với con người, vị thiền-sư-thi-sĩ còn có lòng thương cảm ngay cả với vật dụng gần gũi. Bài thơ tứ tuyệt “Trúc Nô Minh” (Bài Minh Trúc Nô) khắc ghi trong lòng hình ảnh chiếc gối tựa (hay chiếc gối kê tay) được đan bằng trúc, luôn ở bên cạnh mình một cách thân thiết như người bạn tâm giao:
“Ngạo tuyết tâm hư,
Lăng sương tiết kính.
Giả nhĩ vi nô,
Khủng phi thiên tính.”
(Tuyết trải tâm không,
Sương phơi đốt cứng.
Làm tớ, cậy ông,
Ngại tính chẳng khứng.)
Chiếc gối tựa (hay chiếc gối kê tay) này, ngày xưa thường được dùng vào mùa nóng, giúp cho dịu mát, thoải mái cơ thể. Trúc có bản chất “Tuyết trải tâm không”, “Sương phơi đốt cứng” còn hàm ý nói về tính khí cứng cỏi, trung kiên của con người. Với nhà Phật, đây cũng là biểu trưng cho hành giả đã đạt được bản tâm thanh tịnh, an nhiên, tự tại. Đây cũng là ẩn ý thâm diệu của bài thơ vậy.
*
Thơ viết về mùa Xuân của Trần Nhân Tông khá nhiều, đầy ắp cảm xúc, tinh tế, bén nhạy, tư tưởng sâu sắc, khoáng đạt.
“Xuân Hiểu” (Sớm Xuân), bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt, với hình ảnh giản dị nhưng rất sinh động:
“Thụy khởi khải song phi,
Bất tri Xuân dĩ quy.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa phi.”
(Ngủ dậy mở cửa trông,
Nào hay Xuân mênh mông.
Có một đôi bướm trắng,
Vỗ vỗ cánh vờn bông.)
Hai câu thơ cuối, như một nét vẽ phác đơn giản nhưng rất sinh động: “Nhất song bạch hồ điệp / Phách phách sấn hoa phi” (Kìa một đôi bướm trắng / Vỗ vỗ cánh vờn bông). Màu trắng của đôi cánh bướm, hòa quyện vào âm thanh “phách phách” (vỗ vỗ), gợi tả một cách tài tình hình ảnh sinh động, giữa cảnh sắc mênh mông của mùa Xuân.
“Xuân Cảnh” (Cảnh Xuân), bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, với vài nét chấm phá như một họa sỹ tài hoa, nhưng đầy ấn tượng:
“Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì,
Họa đường thiềm ẩn mộ vân phi.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thúy vi.”
(Chim chậm lời ca, liễu nở đầy,
Họa đường bóng lộng, mây chiều bay.
Khách đến, chuyện đời không hỏi nữa,
Cùng tựa lan can ngắm biếc ngày.)
Động và tĩnh quyện vào nhau cả âm vang và sắc màu, khiến cho cảnh Xuân đẹp một cách sinh động và lãng mạn, làm cho “Khách lai bất vấn nhân gian sự / Cộng ỷ lan can khán thúy vi” (Khách đến chuyện đời không hỏi nữa / Cùng tựa lan can ngắm biếc ngày). Trước cái đẹp của Cảnh Xuân, “khách đến” chỉ còn biết thinh lặng, thưởng thức, tận hưởng, nên “Chuyện đời không hỏi nữa” vì đã có cái đẹp của Cảnh Xuân nói hết rồi!
Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt “Nhị Nguyệt Thập Nhất Nhật Dạ” (Đêm Mười Một Tháng Hai) thể hiện sự mẫn cảm, tinh tế của một vị vua còn rất trẻ, tuy đang sống trong cung điện sang trọng, đài các, nhàn nhã, nhưng cảm xúc trước cảnh Xuân vẫn rất nồng nàn, đắm say, hòa nhập vào khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, với rung động đầy mỹ cảm, tinh tế của một thi nhân:
“Hoan bá kiêu sầu phong vị trường,
Đào sinh, trúc đạm ổn long sàng.
Nhất thiên như thủy, nguyệt như trú,
Hoa ảnh mãn song, xuân mộng trường.”
(Chén rượu vơi sầu ấm mãi thôi,
Giường rồng chiếu trúc khỏe thân rồi.
Trời trong như nước, trăng ngời sáng,
Hoa đầy song cửa, mộng Xuân dài.)
Bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt “Động Thiên Hồ Thượng”(Cảnh Trên Hồ Động Thiên), chỉ một vài nét phác đơn giản của hình ảnh “Hoa thảo giảm Xuân dung” (Hoa cỏ có vẻ giảm sút nét Xuân tươi), khiến cho “Thượng đế liên sầm tịch” (trời thương xót vẻ vắng lặng u tịch nơi này) rồi cảm ứng với không gian mênh mông: “Thái thanh thì nhất chung” (Thỉnh thoảng điểm một hồi chuông trên tầng biếc). Cảm xúc tinh nhạy trước cái đẹp vắng lặng, tĩnh mịch của ngoại cảnh đi vào tâm thức một cách trực tiếp, dậy lên một niềm rung động sâu xa:
“Động thiên hồ thượng cảnh,
Hoa thảo giảm Xuân dung.
Thượng đế liên sầm tịch,
Thái thanh thì nhất chung.”
(Cảnh trên hồ Động Thiên,
Dáng Xuân gầy hoa cỏ.
Trời thương xót niềm riêng,
Một hồi chuông xanh tỏ.)
“Xuân Vãn” (Chiều Xuân), bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, như một sự bày tỏ chân thành: Trải qua những chiêm nghiệm từ thời niên thiếu cho đến bây giờ, vị thiền-sư-thi-sĩ đã lĩnh hội được, đã thấy được một cách thấu đáo về lẽ Sắc-Không của cuộc đời huyễn ảo. Một khi đã tỏ ngộ, đã thấy rồi thì ung dung tự tại:
“Niên thiếu hà tằng liễu Sắc-Không,
Nhất Xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.”
(Thuở nhỏ chưa từng thấu Sắc-Không,
Xuân tươi trăm đóa gửi chuyện lòng.
Gương mặt chúa Xuân nay đã tỏ,
Nệm cỏ ngồi xem rụng cánh hồng.)
Vẻ đẹp của hoa mai khoe sắc trong mùa Xuân, đã cho thi sĩ nhiều xúc cảm thâm trầm, sâu lắng trong bài thơ thất ngôn bát cú “Tảo Mai Kỳ Nhất” (Hoa Mai Sớm – Lần Một):
“Ngũ xuất viên ba kim niễn tu,
San hô trầm ảnh hải lân phù.
Cá tam đông bạch chi tiền diện,
Tá nhất biện hương xuân thượng đầu.
Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh,
Dạ quang như thủy khát cầm sầu.
Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ
Quế lãnh thiềm hàn chỉ ma hưu”
(Tròn xoe năm cánh, nhụy vàng phơi,
Chìm bóng san hô, vảy cá trồi.
Đông ba tháng lạnh, cành im trắng,
Xuân một ngày hanh, nhánh ấm ngời.
Sương ngọt mùi hương, lay bướm dậy,
Đêm ngời ánh nước, khiến chim lơi.
Hằng Nga nếu biết hoa mai đẹp,
Bóng quế cung thiềm sẽ chán thôi.)
Tiếp theo, bài thơ thất ngôn bát cú “Tảo Mai Kỳ Nhị” (Hoa Mai Sớm – Lần Hai), cảm xúc càng sâu lắng hơn. Thiền-sư-thi-sĩ “lãn xuất môn” (lười ra khỏi cửa). Nhưng cửa ở đây, không còn là cửa trong cung son điện ngọc nữa, mà là cửa của một ngôi chùa ở Yên Tử, khi nhà-vua-thi-sĩ đã trở thành thiền-sư-thi-sĩ, an nhiên thanh tịnh, chiêm nghiệm lẽ Đạo và lẽ Đời:
“Ngũ nhật kinh hàn lãn xuất môn,
Đông phong tiên dĩ đáo cô côn [căn].
Ảnh hoành thủy diện băng sơ bạn,
Hoa áp chi đầu noãn vị phân.
Thúy vũ ca trầm sơn điếm nguyệt,
Hoạ long xuy thấp Ngọc Quan vân.
Nhất chi mê nhập cố nhân mộng,
Giác hậu bất kham trì tặng quân.”
(Năm ngày sợ lạnh, biếng rời nhà,
Gió Xuân vừa ghé gốc cây già.
Mặt nước bóng chao, băng sớm lở,
Cành hoa cánh ép, ấm chưa ra.
Thúy Vũ chim vờn, trăng xóm núi,
Họa Long sáo ướt, Ngọc Quan nhòa.
Cành hoa lạc mộng người xưa gặp,
Tỉnh giấc nên không tặng được mà.)
Tuy lấy cảm hứng từ hai câu cuối của bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt “Tặng Phạm Diệp” của Lục Khải (nhà thơ cuối đời nhà Hán, nước Tàu): “Giang Nam hà sở hữu / Liêu tặng nhất chi Xuân” (Giang Nam chẳng có gì cả / Chỉ tặng bạn một cành Xuân) nhưng tác giả đã chuyển ý rất sáng tạo và rất đẹp, hợp với tâm cảnh của mình ở hai câu thơ cuối: “Nhất chi mê nhập cố nhân mộng / Giác hậu bất kham trì tặng quân” (Cành hoa lạc mộng người xưa gặp / Tỉnh giấc nên không tặng được mà).
“Đăng Bảo Đài Sơn” (Lên Núi Bảo Đài), bài thơ ngũ ngôn bát cú tuyệt bút nói về mùa Xuân. Có thể xem đây là bài thơ quí hiếm trong kho tàng thơ cổ điển Việt Nam. Ngôn ngữ thơ giản dị, nhưng dung hợp tài tình giữa cảnh và tâm, thấu đáo giữa thấy và nghe của một người đã thực chứng bản thể của cái-đang-là, cái mộng huyễn bào ảnh của vạn pháp, để rồi, trước phong cảnh của núi Bảo Đài, tác giả đã “Ỷ lan hoành ngọc địch / Minh nguyệt mãn hung khâm” (Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc / Ánh trăng sáng chan hòa, đầy tràn trước ngực):
“Ðịa tịch đài du cổ,
Thời lai Xuân vị thâm.
Vân sơn tương viễn cận.
Hoa kính bán tình âm.
Vạn sự thủy lưu thủy,
Bách niên tâm dữ [ngữ] tâm.
Ỷ lan hoành ngọc địch,
Minh nguyệt mãn hung khâm.”
(Đất vắng, lầu càng cũ,
Xuân mới về chưa lâu.
Mây núi gần xa tỏ,
Ngõ hoa râm sáng màu.
Vạn sự giòng nước cuốn,
Trăm năm tấc lòng cầu.
Tựa lan can nâng sáo,
Ngực sáng ánh trăng cao.)
Hai bài thơ thất ngôn tứ tuyệt “Sơn Phòng Mạn Hứng Kỳ Nhất” (Mạn Hứng Tại Sơn Phòng – Lần Một) và “Sơn Phòng Mạn Hứng Kỳ Nhị” (Mạn Hứng Tại Sơn Phòng – Lần Hai) thấm đẫm hương vị thiền rất thanh thoát, tự tại:
“Thùy phọc cánh tương cầu giải thoát,
Bất phàm hà tất mịch thần tiên.
Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão,
Y cựu vân trang nhất tháp thiền.”
(Ai buộc gì đâu cầu giải thoát,
Không phàm đừng nhọc kiếm thần tiên.
Vượn nhàn ngựa mỏi thân già yếu,
Vẫn một am mây một chiếu thiền.)
.
“Thị phi niệm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch,
Nhất thanh đề điểu hựu Xuân tàn.”
(Phải quấy rụng cùng hoa buổi sáng,
Lợi danh lạnh theo mưa ban đêm.
Mưa tạnh hoa tàn, non vắng lặng,
Một tiếng chim kêu, Xuân úa thêm.)
*
Thơ viết về mùa Thu của Trần Nhân Tông tuy ít hơn, nhưng thi tứ, thi cảnh trong từng bài thơ rất cô đọng và rất đẹp. Những bài thơ thất ngôn tứ tuyệt đạt tới mức u nhã, uyên mặc.
Bài thơ “Thiên Trường Vãn Vọng” (Dạo Ngắm Cảnh Chiều Ở Thiên Trường):
“Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.”
(Trước thôn sau thôn, trời nhạt nhòa,
Nửa không nửa có, bóng chiều tà.
Mục đồng thổi sáo, trâu về hết,
Cò trắng trên đồng, cánh nhẹ sa.)
Hình ảnh bóng chiều tà “bán vô bán hữu” (nửa không nửa có) và hình ảnh “Mục đồng địch lý quy ngưu tận / Bạch lộ song song phi hạ điền” (Mục đồng thổi sáo, trâu về hết / Cò trắng trên đồng, cánh nhẹ sa) vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp, có cả âm vang và sắc màu, tĩnh và động, thực và ảo của mùa Thu ở vùng nông thôn Việt Nam, vừa tĩnh mịch, vừa thanh thoát, giao cảm đồng điệu với tâm hồn của thi sĩ.
“Nguyệt” (Trăng), bài thơ tả một đêm trăng Thu, cũng là một bức tranh tuyệt đẹp, tứ thơ trầm mặc, thanh thoát:
“Bán song đăng ảnh mãn sàng thư,
Lộ trích Thu đình dạ khí hư.
Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ,
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.”
(Đèn soi nửa bóng, sách đầy giường
Sân Thu đêm thoáng, mát hơi sương
Tỉnh giấc chày khua đâu đó vẳng
Trăng trên bông quế ngát đưa hương).
Như bức tranh thủy mặc với những nét vẽ bảng lảng mênh mông, âm vang lắng trong sắc màu: “Chiếc cầu, có bóng in ngược xuống mặt nước, bắc ngang qua suối. Một vạt nắng chiều tỏa sáng bên ngoài ngấn nước. Ngàn núi tịch mịch yên lắng, những chiếc lá đỏ rơi. Áng mây ướt như giấc mộng đời, có tiếng chuông vang lên từ xa vọng lại.” Đó cũng là nội dung cô đọng trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt “Vũ Lâm Thu Vãn” (Chiều Thu Ở Làng Vũ Lâm) với bút lực tài hoa hiếm có, tác giả đã cho người đọc một cảm xúc thanh thoát diệu kỳ:
“Họa kiều đảo ảnh trám khê hoành,
Nhất mạt tà dương thủy ngoại minh.
Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc,
Thấp vân như mộng viễn chung thanh.”
(Ngược bóng, cầu ngang suối bắt qua,
Ngấn nước chiều loang vạt nắng nhòa.
Yên lắng non ngàn, rơi lá đỏ,
Mây ướt mộng đời, chuông gióng xa.)
Nét sầu u tịch trong buổi chiều mùa Thu ở Lạng Châu với nét đẹp mênh mông diệu vợi trong bài thơ “Lạng Châu Vãn Cảnh” (Cảnh Chiều Ở Châu Lạng):
“Cổ tự thê lương Thu ái ngoại,
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ.
Thủy minh sơn tĩnh bạch âu quá,
Phong định vân nhàn hồng thụ sơ.”
(Chùa xưa sầu ngất, mây Thu nhuốm,
Thuyền cá buồn tênh, chuông chiều rơi.
Núi tạnh nước trong, âu trắng lượn,
Gió lặng mây nhàn, lá đỏ phơi.)
Cám cảnh u tịch của mùa Thu để gửi gắm lòng mình, bài thơ “Đề Phổ Minh Tự Thủy Tạ” (Đề Thơ Ở Nhà Thủy Tạ Chùa Phổ Minh) toát lên vẻ đẹp thanh thoát lạ thường:
“Huân tận thiên đầu mãn tọa hương,
Thủy lưu sơ khởi bất đa lương.
Lão dong ảnh lý tăng quan bế,
Đệ nhất thiền thanh Thu tứ trường.”
(Thơm ngát ngàn hương, tỏa khắp nhà,
Dòng nước êm trôi, dịu mát qua.
Dưới bóng đa già, chùa khép cửa,
Ve rân một tiếng, tứ Thu xa.)
*
Bài thơ thất ngôn bát cú “Thiên Trường Phủ” (Phủ Thiên Trường), tác giả viết khi về thăm quê cha đất tổ (sau khi nhà Trần khởi nghiệp lên ngôi vua, đã xây một hành cung ở hương Tức Mạc, đến năm 1262 vua Trần Thánh Tông đổi tên là phủ Thiên Trường, hàng năm đều có tổ chức thăm viếng, cúng tế tổ tiên):
“Lục ám hồng hi bội tịch liêu,
Tễ vân thôn vũ thổ hoa tiêu.
Trai đường giảng hậu tăng quy viện,
Giang quán canh sơ nguyệt thượng kiều.
Tam thập tiên cung hoành dạ tháp,
Bát thiên hương sát động xuân triều.
Phổ Minh phong cảnh hồn như tạc,
Phảng phất canh tường nhập mộng nhiêu.”
(Xanh thẫm hồng phai, đêm lắng yên,
Tạnh mưa, mây sáng, đất khô liền.
Trai đường sau hội, sư về nghỉ,
Sông quán đầu canh, trăng mới lên.
Ba chục cung tiên say giấc ngủ,
Tám ngàn ngọn tháp ngát triều đêm.
Phổ Minh cảnh vật như hôm trước,
Mộng thấy vua cha chạnh nỗi niềm.)
Đoạn cuối của bài thơ bày tỏ niềm hồi nhớ vua cha Trần Thánh Tông rất cảm động: “Phổ Minh phong cảnh hồn như tạc / Phảng phất canh tường nhập mộng nhiêu.” (Phổ Minh cảnh vật như hôm trước / Mộng thấy vua cha chạnh nỗi niềm). “Canh tường,” hai chữ trong câu cuối của bài thơ, tác giả mượn tích về lòng hiếu thảo của vua Thuấn đối với cha là vua Nghiêu để bày tỏ lòng mình: Trong sách Hậu Hán Thư (do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ V, đời nhà Hán, nước Tàu) đã thuật lại chuyện khi vua Nghiêu mất, vua Thuấn tưởng nhớ luôn trong ba năm. Vì thế, vua Thuấn lúc ngồi thì thấy bóng vua Nghiêu trên tường, lúc ăn thì thấy bóng vua Nghiêu trong bát canh.
Tứ thơ đẹp một cách phóng khoáng, nhưng tâm thái rất an nhiên thanh tịnh trong bài thơ thất ngôn bát cú “Đại Lãm Thần Quang Tự” (Chùa Thần Quang Trên Núi Đại Lãm):
“Thần quang tự liểu (yểu) hứng thiên u,
Sanh thố phi ô thiên thượng du.
Thập nhị lâu đài khai họa trục,
Tam thiên thế giới nhập thi mâu.
Tục đa biến thái vân thương cẩu,
Tung bất tri niên tăng bạch đầu.
Trừ khước chú hương tham Phật sự,
Tá dư niệm liễu tổng hưu hưu.”
(Thần Quang yên lắng, hứng trong lòng,
Ôm thỏ cưỡi quạ, bay chơi rong.
Mười hai lầu mở khung tranh đẹp,
Ba ngàn cõi đọng mắt thơ chong.
Mây-chó thói đời xanh trắng đổi,
Sư-tùng niềm nỗi tháng năm mong.
Học Phật, dâng hương, chừng ấy việc,
Lo toan buông hết, thế là xong.)
Hãy chú ý hai cặp đối rất hay và rất đẹp trong bài thơ trên: “Thập nhị lâu đài khai họa trục / Tam thiên thế giới nhập thi mâu” (Mười hai lầu mở khung tranh đẹp / Ba ngàn cõi đọng mắt thơ chong) – “Tục đa biến thái vân thương cẩu / Tùng bất tri niên tăng bạch đầu” (Mây-chó thói đời xanh trắng đổi / Sư-tùng niềm nỗi tháng năm mong) với thi hứng tràn đầy, hình ảnh ẩn dụ thâm trầm, để rồi kết thúc bằng hai câu thơ cuối rất tự tại, thanh thoát, buông xả: “Trừ khước chú hương tham Phật sự / Tá dư niệm hữu tả hưu hưu” (Học Phật, dâng hương, chừng ấy việc / Lo toan buông hết, thế là xong).
*
Trúc Lâm Đại Đầu Đà (vua Trần Nhân Tông) trọn đời luôn kính ngưỡng và tri ân người thầy của mình là Tuệ Trung Thượng Sĩ (Trần Tung, Trần Quốc Tung), thành viên trong hoàng tộc nhà Trần và cũng là một thiền sư trí huệ lỗi lạc. Ngay từ thời tuổi trẻ, Trần Nhân Tông đã được Tuệ Trung Thượng Sĩ giáo dục và truyền tâm ấn Phật pháp. Bài thơ “Tán Tuệ Trung Thượng Sĩ” (Ca Ngợi Tuệ Trung Thượng Sĩ) chỉ vắn tắt cô đọng trong bốn chữ sáu câu, nhưng thâu tóm được tinh túy cốt lõi về sự liễu ngộ Phật pháp của Tuệ Trung Thượng Sĩ:
“Vọng chi di cao,
Toàn chi di kiên.
Hốt nhiên tại hậu,
Chiêm chi tại tiền.
Phu thị chi vị,
Thượng sĩ chi thiền.”
(Càng trông càng cao,
Càng khoan càng cứng.
Thình lình phía sau,
Liền thấy phía trước.
Thốt lên cho mau:
Thiền của Thượng Sỹ.)
Phía dưới bài thơ, tác giả có ghi thêm: “Tự pháp đệ tử Trúc Lâm Đại Đầu Đà cẩn tán” (Học trò nối pháp là Trúc Lâm Đại Đầu Đà kính cẩn xưng tụng), chứng tỏ lòng kính ngưỡng và tri ân sâu nặng của vị tổ thứ Nhất dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử đối với bậc Thầy của mình biết dường nào! Ngoài bài thơ cô đọng này, Trần Nhân Tông đã viết bài văn “Thượng Sĩ Hành Trạng” (Hành Trạng của Tuệ Trung Thượng Sĩ) thuật lại công lao tu tập hành trì và đắc pháp của vị ân sư.
Khi đọc xong bài thơ trên và bài văn “Thượng Sĩ Hành Trạng,” kẻ hậu bối này dâng trào cảm xúc, nên có viết bài thơ tán thán, kính ngưỡng tri ân, thay cho lời bình như sau:
“Càng trông lên càng thấy cao
Càng khoan càng cứng trước sau hiện tiền
Tuệ Trung Thượng Sỹ như nhiên”
Chân tâm thấu suốt chân thiền diệu Không
Khép hai bờ cỏ mơ mòng
Mở thiên thu hát thong dong chốn về
Qua đi dứt tuyệt cuồng mê
Tri ân chánh pháp chở che kiếp người
Tri ân giọt lệ nụ cười
Chân tâm diệu hữu trang đời nhẹ đưa
Diệu âm hoa rụng sân chùa
Nhặt bông nắng lạ xin thưa: Đang-Là
Triệu năm trong Cõi Người Ta
Tỉ năm cũng vậy sát na sáng lừng
Gió đưa gió đẩy sáng trưng
Sương rung bắt nhịp tưng bừng hòa thanh
Tri ân tiền bối viên thành
Câu thơ tinh mật tinh anh tinh ròng
Càng nghe càng thấm càng thông
Bạn cùng cô quạnh để mong gặp mình
Trông lên mây trắng như kinh
Thấy ra diệu nghĩa tận tình Như Lai
Hít sâu thở nhẹ một vài…
Đếm thầm nghe rõ trong ngoài đang trôi…
(04.2015)
Đặt biệt nhất, “Hữu Cú Vô Cú” (Câu Có Câu Không), bài thi kệ có giá trị tư tưởng rất uyên áo thâm viễn, thể hiện sự liễu ngộ về Phật pháp của tác giả.
Bài thi kệ này, viết theo thể bốn chữ (bốn câu cho mỗi đoạn, tổng cộng chín đoạn, 36 câu). Đây là câu trả lời rất cô đọng, nhưng rất uyên áo thâm viễn của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông về “Có” và “Không”.
Theo sử sách ghi lại, trong một buổi giảng kinh tại chùa Sùng Nghiêm, tháng 12 năm Giáp Thìn (1304), khi có một tăng chúng hỏi:
“Hữu cú vô cú / Như đằng ỷ thụ / Như hà?”
(Câu Có câu Không, như dây bìm bám cây. Ý là như thế nào?)
Câu hỏi trên, xuất phát từ tên một công án trong thiền tông “Sớ Sơn Hữu Cú Vô Cú”. Nội dung công án này nói về việc thiền sư Sớ Sơn Khuông Nhân cuối đời Đường, nước Tàu, tham yết thiền sư Trường Khánh Đại An tại Qui Sơn, Phúc Châu để tham học ngài Đại An câu “Hữu cú vô cú, như đằng ỷ thụ.” (Nguồn: Từ Điển Phật Quang).
Từ câu hỏi đó, Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đã trả lời bằng bài thi kệ “Hữu Cú Vô Cú” này:
“Hữu cú vô cú,
Đằng khô thụ đảo.
Kỷ cá nạp tăng,
Chàng đầu hạp não.
Hữu cú vô cú,
Thể lộ kim phong.
Căng già sa số,
Phạm đao thương phong.
Hữu cú vô cú,
Lập tông lập chỉ.
Đả ngõa toàn quy,
Đăng sơn thiệp thủy.
Hữu cú vô cú,
Phi hữu phi vô.
Khắc chu cầu kiếm,
Sách ký án đồ.
Hữu cú vô cú,
Hỗ bất hồi hỗ.
Lạp tuyết hài hoa,
Thủ chu đãi thố.
Hữu cú vô cú,
Tự cổ tự kim.
Chấp chỉ vong nguyệt,
Bình địa lục trầm.
Hữu cú vô cú,
Như thị như thị.
Bát tự đả khai,
Toàn vô ba tị.
Hữu cú vô cú,
Cố tả cố hữu.
A thích thích địa,
Náo quát quát địa.
Hữu cú vô cú,
Điêu điêu đát đát.
Tiệt đoạn cát đằng,
Bỉ thử khoái hoạt.”
(Câu Có câu Không,
Cây ngã dây héo.
Mấy vị sư ông,
Đầu sưng óc méo.
Câu Có câu Không,
Gió thu phơi xác.
Sông Hằng ngập cát,
Cam chịu vết thương.
Câu Có câu Không,
Dựng chỉ lập tông.
Khoan rùa đập ngói,
Lên núi lội sông.
Câu Có câu Không,
Chẳng Không chẳng Có.
Khắc thuyền mò gươm,
So tranh tìm ngựa.
Câu Có câu Không,
Chẳng qua chẳng lại.
Nón tuyết giày bông,
Ôm cây đợi thỏ.
Câu Có câu Không,
Xưa nay vậy đó.
Nhớ ngón quên trăng,
Vùi thây đất nọ.
Câu Có Câu Không,
Vậy đó vậy đó.
Tám chữ mở tung,
Còn gì để nói?!
Câu Có câu Không,
Nhìn phải ngó trái.
Lải nhải lằng nhằng,
Om sòm tranh cãi.
Câu Có câu Không,
Đau đau xót xót.
Cắt dứt lòng thòng,
Này kia thông suốt.)
Trước hết, Điều Ngự Giác Hoàng dành 20 câu thi kệ đầu (bốn đoạn) để chỉ ra sự nguy hại của thái độ định kiến, chấp thủ đối với hai phạm trù Có và Không. Những định kiến, chấp thủ (cũng gọi là chấp thủ trong vô minh) do không thấu hiểu về bản-chất-như-thật-của-chính-nó, thì rất dễ gây nên những tác hại nguy hiểm giống như “chàng đầu hạp não” (đập đầu méo óc), “phạm đao thương phong” (phạm vào dao kiếm, bị thương vì mũi nhọn) hay phí công vô ích như “đả ngõa toàn quy” (khoan rùa đập ngói), “đăng sơn thiệp thủy” (lên núi lội sông), “khắc chu cầu kiếm” (khắc thuyền mò gươm), “sách ký án đồ” (so tranh tìm ngựa),”lạp tuyết hài hoa” (lấy tuyết làm nón, lấy bông làm giày), “thủ chu đãi thố” (ôm gốc cây đợi thỏ).
Nguyên nhân chính của việc định kiến, chấp thủ Có / Không này là không nhận rõ sự sanh khởi và đoạn diệt của tất cả các pháp là do Duyên Khởi (nghĩa là: Do cái này Có nên cái kia Có / Do cái này Không nên cái kia Không / Do cái này Sinh nên cái kia Sinh / Do cái này Diệt nên cái kia Diệt – Kinh Phật Tự Thuyết). Trong kinh Trung Bộ, Đức Phật nói: “Ai thấy Duyên Khởi tức là thấy Pháp. Ai thấy Pháp tức thấy Như Lai.” Trong kinh Tăng Chi Bộ, đức Phật nói: “Tất cả Pháp lấy Tác Ý làm sanh khởi.”
Thật vậy, chúng ta sẽ không có bất cứ nhận thức hay cảm nhận nào về bất cứ Pháp gì nếu như trước đó, chúng ta không có sự hướng tâm hay Tác Ý tới Pháp đó. Nếu có Tác Ý, tức là ngay lúc đó, Ý tiếp xúc với Pháp, lập tức Ý khởi lên, sự phối hợp đó gọi là Xúc, nhân có Xúc cho nên có Cảm Thọ, nhân có Cảm Thọ nên có Ái Dục, nhân có Ái Dục nên có Chấp Thủ, nhân có Chấp Thủ nên có Hữu, nhân có Hữu nên có Sanh, nhân có Sanh nên có Già Chết, và toàn bộ Khổ Uẩn tập khởi. Khi Tâm không có Tác Ý, thì không có Tham-Sân-Si, tuyệt nhiên không có một vật nào xuất hiện (Bổn lai vô nhất vật – Câu cuối trong bài kệ đắc pháp của thiền sư Huệ Năng trong kinh Pháp Bảo Đàn). Đây là điều hết sức vi diệu mà chúng ta cần tỉnh thức suy nghiệm và hành trì tu tập mới có thể thấu hiểu được. Vì sao? Vì đức Thế Tôn là người chỉ nói lời chân chánh, không có vọng ngữ: “Như Lai là người nói sao làm vậy, làm sao nói vậy.” Khi đức Thế Tôn nói: “Tất cả Pháp lấy Tác Ý làm Sanh Khởi”, đó chính là nói đến sự vận hành của Tác Ý: Nghĩa là khi có Tác Ý xảy ra, thì các Pháp sẽ sanh khởi và đưa tới chấp Hữu, nếu chúng ta không đích thực tuệ tri. Điều này đúng với tất cả các Pháp.
Tám câu thơ của hai đoạn kế tiếp chính là tâm điểm, huyết mạch của bài thi kệ:
Hình ảnh có tính ẩn dụ trong câu “chấp chỉ vong nguyệt” (nhớ ngón tay mà quên trăng) xuất phát từ câu trả lời của đức Phật khi có người hỏi: “Giáo pháp của Ngài có phải là một học thuyết hay chủ thuyết chăng?” Câu trả lời của đức Thế Tôn đại ý rằng: “Giáo pháp của Như Lai là một phương tiện để đi vào thực-tại-hiện-tiền chứ không phải để miêu tả thực-tại-hiện-tiền”. Vì vậy,”Giáo pháp của Như Lai giống như ngón tay chỉ lên mặt trăng.” (kinh Viên Giác, chương Thanh Tịnh Tuệ). Như vậy, ngón tay là phương tiện, mặt trăng là mục đích. Mối quan hệ giữa phương tiện và mục đích tuy có tính biện chứng mật thiết, nhưng người hành trì tu tập cần hết sức cẩn trọng để khỏi rơi vào hai cực đoan, nhầm lẫn hay chấp thủ giữa phương tiện và mục đích. Vì vậy, Văn-Tư-Tu chính là phương tiện thiện xảo giúp cho người hành trì tu tập đạt được Giới-Định-Tuệ, nhằm thể nhập vào thể tánh của thực-tại-hiện-tiền, tức chân tánh. Nếu cứ “Chấp chỉ vong nguyệt” (Nhớ ngón tay mà quên trăng) thì tất yếu sẽ dẫn đến “Bình địa lục trầm” (Vùi thây đất nọ), tức là chìm đắm vào bi kịch trầm kha trong vô minh tự cổ chí kim của con người mà thôi. Định kiến, chấp thủ thì không bao giờ đi vào Trung Đạo để Kiến Tánh được. Đây cũng là lời cảnh báo rất hệ trọng về phương pháp hành trì tu tập.
“Bát tự đả khai” (Tám chữ tháo tung): Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, “Tám chữ” trong câu này, xuất phát từ câu trích trong kinh Niết Bàn: “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc” (Sinh diệt nếu diệt rồi, thì tịch diệt là vui). Như vậy, khi đã thấu hiểu “Bát tự đả khai” (Tám chữ tháo tung) thì sẽ “Toàn vô ba tị” (Không còn gì để nói nữa!) Đến đây thì không còn chấp thủ gì với ngón tay (phương tiện) vì ngón tay đã chỉ đúng, đã giúp cho hành giả nhận ra mặt trăng (mục đích) rồi, thì hành giả cứ thong dong bước vào Trung Đạo, tự mình hành trì tu tập để đạt mục đích tối thượng là liễu ngộ chân tánh của vạn pháp!
Tám câu thơ của hai đoạn thi kệ cuối cùng, Điều Ngự Giác Hoàng còn khuyên hành giả phải dẹp đi những “A thích thích địa / Náo quát quát địa” (Lải nhải lằng nhằng / Om sòm tranh cãi) và phải “tiệt đoạn cát đằng” (dứt bỏ mọi việc rối rắm như dây bìm leo) thì mới vượt lên được và không còn kiến chấp, chấp thủ với hai khái niệm Có và Không, lúc đó mới thấu suốt được thực-tại-hiện-tiền của pháp giới Duyên Khởi, đạt được tự tại thanh tịnh, tức chân tánh của vạn pháp.
Có và Không cũng là câu hỏi lớn của nhân loại từ ngàn xưa của các nền triết học, tư tưởng lớn Đông Tây.
Như được biết, nền triết học Hy Lạp cổ đại, khởi đi từ Parmenides, triết gia thời tiền Socratic, đã sớm nhận ra: “Thinking and Being is the same” (Tư Duy và Hiện Hữu là một). Điều này có nghĩa là Hiện Hữu, tức phạm trù Có mang ý nghĩa rằng, nó chỉ Có trong tư duy, trong khái niệm mà thôi. Cho nên, Có, chỉ là một phạm trù quy ước. Cái Có này là vô thường, luôn luôn biến hoại đoạn diệt. Vì thế, Có, chỉ nên được thiết lập tạm thời để phơi bày đặc tính duyên khởi của nó, không nên chấp thủ, khẳng định nó. Ngược lại, trong khi nó đang-là, không cần thiết phải mang khái niệm Không để phá hủy cái đang-là của nó. Khi nào hết duyên, nó sẽ tự nhiên Không.
Lão Tử, nhà triết học Trung Quốc cổ đại, khi giải thích bản thể của vũ trụ, cũng đã nói trong Đạo Đức Kinh: “Thiên hạ vạn vật sinh ư hữu, hữu sinh ư vô” (Vạn vật trong thiên hạ đều sinh ra từ Hữu, Hữu sinh ra từ Vô).
Từ Đạo Hạnh, một thiền sư lỗi lạc của nước ta, đời nhà Lý, cũng đã có bài thi kệ “Hữu Không” rất uyên áo thâm viễn:
“Tác Hữu trần sa Hữu
Vi Không nhất thiết Không
Hữu Không như thủy nguyệt
Vật trước Hữu Không Không.”
(Khởi niệm, tác ý Có thì từ hạt bụi đến hạt cát li ti cũng Có. Khởi niệm, tác ý Không thì cả vũ trụ này cũng Không. Cái Có cái Không kia cũng giống như ánh trăng trên mặt nước. Đừng chấp vào cái Không của Có-và-Không!” [Đừng lầm tưởng cho rằng cái Có cái Không ấy là không có]).
Thiền sư Huyền Quang, tổ thứ ba của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử dịch:
(Có thì Có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng Không
Kìa xem bóng nguyệt lòng sông
Ai hay Không-Có Có-Không là gì!)
Bài thi kệ của ngài Từ Đạo Hạnh cũng là ngụ ý cảnh báo chúng ta không nên chấp thủ vào Có và Không để thấu suốt chân tánh của vạn pháp.
Gần với chúng ta hơn, thế kỷ XV, câu “To be or not to be, that is question” (Tồn tại hay không tồn tại, đó là vấn đề), là câu hỏi lừng danh trong vở kịch “Hamlet” của William Shakespeare, nhà viết kịch, nhà tư tưởng vĩ đại của nước Anh. Đến thế kỷ XIX, phạm trù về “Being” (Cái-đang-là, hữu thể, hiện thể, hiện tồn), là chủ đề chính về bản thể luận (ontology) của Martin Heidegger, nhà triết học lừng danh của nước Đức, chuyên nghiên cứu về Hữu thể và Thời Gian (Being and Time) cũng xuất phát từ câu hỏi lớn như trên. Với tác phẩm này, Heidegger tiếp tục tư duy theo chiều hướng của Parmenides, khảo sát Có (Being) trong mối liên hệ mật thiết với Dasein (Dasein, là thực tại Người được nhận diện qua hai đặc tính căn bản là một hiện hữu biết tư duy và có khả năng cảm xúc tồn tại trong một bối cảnh không gian và thời gian đang-là, tức là đang-đi-đến cái Không).
Như vậy, Có và Không chỉ là qui ước tạm thời về nhận thức, không phải là cái để ta kiến chấp, chấp thủ. Hiểu được như vậy thì mới có thể thoát ra khung cửa nhị nguyên Có và Không, để trực nhận về Cái-Đang-Là, về Thực-Tại-Hiện-Tiền của nguyên lý Duyên Khởi.
Thiết nghĩ, chỉ có thấm nhuần trí huệ của Phật pháp, cùng với nỗ lực tự tu, tự chứng, tự mình đoạn tận tất cả các kiến chấp, chấp thủ tiềm tàng ở nội tâm thì mới đạt được nhận thức viên mãn, siêu vượt lên Có và Không, thể nhập và liễu ngộ được chân tánh của vạn pháp, tức Phật tánh trong bản thân mình.
Tóm lại, bài thi kệ “Hữu Cú Vô Cú” của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, cách nay đã trên 700 năm, với ngôn ngữ diễn đạt giản dị như một bài đồng dao đầy Việt tính, nhưng đã chuyển tải những ẩn dụ hàm súc, thâm diệu của Phật pháp, giúp cho chúng ta biết cách buông bỏ những kiến chấp, chấp thủ về Có và Không, đạt tới chánh kiến viên mãn, thấu suốt Thực-Tại-Hiện-Tiền để tự mình quay về chân tâm, liễu ngộ Phật tánh. Thật là điều rất đáng kính ngưỡng và tri ân vậy.
*
Sách Thánh Đăng Ngữ Lục có ghi đại ý rằng: Tháng Mười năm Mậu Thân (1308), nhận được tin công chúa Thiên Thụy ốm nặng, Điều Ngự Giác Hoàng từ Yên Tử về thăm. Sau khi vấn an công chúa, Ngài lại quay trở về Yên Tử. Đi được nửa đường, Ngài nghỉ tại ngôi chùa làng ở hương Cổ Châu. Sáng hôm sau, trước khi lên đường, Ngài viết lên vách tường của ngôi chùa bài thơ “Đề Cổ Châu Hương Thôn Tự” (Đề Thơ Nơi Chùa Làng Cổ Châu):
“Thế số nhất tức mặc,
Thời tình lưỡng hải ngân.
Ma cung hồn quản thậm,
Phật quốc bất thăng Xuân.”
(Số đời, một hơi thở,
Tình người, đôi mắt thôi.
Cung ma nhốt chặt hết,
Xứ Phật rợp Xuân rồi.)
“Thế số nhất tức mặc” (số phận đời người giống như một hơi thở ra hít vào), thở ra mà không hít vào thì xem như một đời người sẽ kết thúc. Vì vậy, Sống-Chết mong manh như hơi thở mà thôi. “Thời tình” (tình của đời người) chỉ là “lưỡng hải ngân” (đôi mắt). Nếu thấy thấu suốt điều ấy thì sẽ liễu ngộ lẽ Sống-Chết, vượt thoát hết “ma cung” đã từng “hồn quản thậm” (hồn bị nhốt chặt, khóa chặt hết) mọi chúng sinh. Chỉ có liễu ngộ lẽ Sống-Chết được như vậy thì mới “Phật quốc bất thăng Xuân” (Xứ Phật tràn ngập màu Xuân khôn xiết kể) được.
Cũng vậy, khi mở đầu cho một bài giảng ở chùa Sùng Nghiêm bằng bài thi kệ bốn câu (trích trong sách Trần Nhân Tông Toàn Tập của giáo sư Lê Mạnh Thát, đặt tựa bài là “Thân Như”):
“Thân như hô hấp tỵ trung khí,
Thế tự phong hành lĩnh ngoại vân.
Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú,
Bất thị tầm thường không quá xuân.”
(Thân như hơi thở ra vào mũi,
Đời tợ gió vờn mây đỉnh xa.
Đỗ quyên xót tiếng trăng ngày sáng,
Chớ lụy tầm ruồng xuân luống qua.)
Thiết nghĩ, đây cũng là sự chiêm nghiệm về Ngũ Uẩn Giai Không của Phật pháp. Phải thấu suốt bản chất mong manh, tạm bợ, vô thường, không thật của Năm Uẩn, để từ đó xa rời mọi kiến chấp, thủ chấp, sân hận, đố kỵ, tham luyến, nhằm đạt đến cảnh giới thanh tịnh, an lạc. Hai câu thi kệ cuối trong bài “Thân Như” này giống như lời cảnh báo, thức tỉnh: Hãy quay về chân tâm của chính bản thân mình mà tự thực nghiệm, thực chứng để thấu triệt, liễu ngộ Ngũ Uẩn Giai Không thì mới mong kiến tánh, giải thoát.
“Kệ Vân” là bài thi kệ nằm ở phần cuối cùng, kết thúc cho bài Phú bằng chữ Nôm của Phật hoàng Trần Nhân Tông: “Cư Trần Lạc Đạo Phú” (Bài Phú Sống Với Đời Vui Với Đạo). Đây là một bài phú tuyệt hảo, tuệ giác thâm diệu, tóm thâu tinh túy cô đọng nhất tư tưởng “Cư Trần Lạc Đạo” của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Bài phú gồm có 10 hội, kết thúc bằng bài “Kệ Vân” (trích nguyên văn dưới đây), đã trở thành tư tưởng cốt yếu, là kim chỉ nam tu tập hành trì của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử cho đến tận ngày nay. Đối với Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Phật pháp đã, đang và mãi mãi hiện diện trong cuộc đời này. Cuộc đời rất Thật mà cũng rất Ảo. Vì vậy, không có sự cách ly phân biệt giữa Đạo và Đời. Phật pháp nằm chính ngay trong lòng cuộc đời. Người tu tập hành trì Phật pháp phải thấu triệt tư tưởng đó, ung dung tự tại, để đạt đến “vô tâm đối cảnh,” giác ngộ chân tánh:
“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.”
(Ở đời vui đạo, cứ tùy duyên,
Đói phải ăn thôi, mệt ngủ liền.
Của quí trong nhà, tìm đâu nữa,
Vô tâm đối cảnh, hỏi chi thiền?)
Bài thi kệ “Thị Tịch”, cũng là bài thi kệ cuối cùng của Trần Nhân Tông. Trong sách Trần Nhân Tông Toàn Tập của giáo sư Lê Mạnh Thát có ghi, đại ý: “Ngày mồng một tháng 11.1308, vào lúc nửa đêm, sao mai sáng rực, Thượng hoàng hỏi Bảo Sát: “Lúc này mấy giờ rồi?”. Bảo Sát trả lời: “Giờ Tý”. Thượng Hoàng dùng tay mở cánh cửa sổ ra nhìn rồi nói: “Đây là giờ ta đi”. Bảo Sát hỏi: “Tôn đức đi đâu?”. Thượng hoàng nói bài thi kệ sau đây:
“Nhất thiết pháp bất sinh,
Nhất thiết pháp bất diệt.
Nhược năng như thị giải,
Chư Phật thường hiện tiền,
Hà khứ lai chi hữu.”
(Hết thảy pháp không sinh,
Hết thảy pháp không diệt.
Nếu thấu suốt như vậy,
Chư Phật luôn hiện tiền,
Chốn nào đi đến nữa?!)”
“Không sinh không diệt, không đến không đi”. Đó cũng chính là Chân Không Diệu Hữu của vạn pháp. Trong khoảng không-thời-gian vô thỉ vô chung, mọi sự vật, về thực chất, là sự vận hành do Lý Duyên Khởi tác động, chuyển đổi, chuyển hóa từ một thể dạng này sang một thể dạng khác. Do chấp thủ, định kiến nên chúng ta không thấy ra dòng chảy bất tận của vạn pháp, rồi cho rằng cái này sinh, cái kia diệt, cái kia đến, cái này đi. Nếu thấy được “Nhất thiết pháp bất sinh / Nhất thiết pháp bất diệt” thì “Chư Phật thường hiện tiền”, “Chư Phật” cũng là Chân Như, Chân Tánh. Đây cũng chính là bài kệ đắc pháp thâm diệu của vị Phật hoàng vậy.
Lời Kết
Thơ Trần Nhân Tông, bắt nguồn từ Phước Duyên rất lớn và cũng là kết quả của nỗ lực bản thân hành trì tu tập của thiền-sư-thi-sĩ.
Trải qua quá trình Văn-Tư-Tu, thâm nhập Giới-Định-Tuệ một cách kiên trì, kham nhẫn ngay từ lúc còn rất trẻ cho đến cuối cuộc đời, ngài Điều Ngự Giác Hoàng đã liễu ngộ đươc lẽ Có-Không, Sinh-Tử, cảm nhận thấu đáo Ngũ Uẩn Giai Không nhờ cái thấy xuyên suốt Thực-Tại-Hiện-Tiền. Vì vậy, thơ Trần Nhân Tông không chỉ dừng lại ở giá trị nghệ thuật thi ca đơn thuần, mà đáng kể hơn là tầng sâu rộng hoằng viễn, uyên áo về tư tưởng của Phật pháp. Đặc biệt nhất là tư tưởng Cư Trần Lạc Đạo, cũng là linh hồn của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, mà Điều Ngự Giác Hoàng là vị tổ sáng lập, dung hợp mật thiết giữa Đời và Đạo, vừa nhập thế tận hiến cho Nước cho Dân, vừa kiên trì kham nhẫn tu tập hành trì, liễu ngộ tâm Bát Nhã.
Đọc thơ Trần Nhân Tông, kẻ hậu bối này tự biết sức đọc, sức học, sức thấy, sức cảm thụ còn thô lậu nông cạn. Nhưng do lòng kính ngưỡng, quí trọng ngay từ thời trai trẻ đối với một vị minh quân đỡm lược hiếm có trong lịch sử dân tộc, một vị thiền-sư-thi-sĩ liễu ngộ thâm sâu hoằng viễn Phật pháp, nên bản thân đã tự nguyện dồn hết tâm lực tra cứu, nghiền ngẫm, lắng lòng vào thơ vào kệ, viết xuống những dòng cảm nhận chân thành này, kèm theo bài thơ cảm ứng dưới đây (viết từ tháng 07.2015) tạm gọi là bày tỏ lòng kính ngưỡng và tri ân sâu nặng đối với bậc tiền bối:
CẢM ỨNG THƠ TRẦN NHÂN TÔNG
1.
người lính già kể chuyện nguyên phong
rù rì theo sắc nắng thương mong
đầu bạc bên chiêu lăng lặng lẽ
tình quê nợ nước vẫn chưa xong
2.
một hơi thở một đời thế thôi
gió cuốn đi thực mộng quên rồi
chùa làng lưu lại câu tâm bút
thơ bay đi theo mây rong chơi
3.
núi bảo đài thơm ngát ánh trăng
đời đang trôi như thầm nhủ rằng
năm tháng xa gần nâng sáo ngọc
nửa bóng râm và nửa tuyết băng
4.
mây giăng ảo diệu trên yên tử
chuông chiều thở nhẹ quanh thiền tự
cánh hồng rụng nhớ cánh bướm bay
nệm cỏ sư ngồi tứ niệm xứ
5.
thị phi hoa rơi rụng buổi sáng
lợi danh lạnh theo mưa ban đêm
bật một que diêm trong im vắng
rít điếu thuốc tàn chẳng nghĩ thêm
6.
xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
sơn hà thiên cổ điện kim âu
đời nay ngu ác đày dân khổ
trào đình hèn mạt sợ thằng tàu
7.
thơ là kệ hay kệ là thơ
hỏi làm chi xác chữ cứng đơ
thần hồn tạnh ráo sáng con mắt
pháp không sanh không diệt sang bờ
8.
tịch mịch rền câu có câu không
thuở anh niên đội nắng băng đồng
trời chẳng nói và đất chẳng nói
nắng đầu xuân gọi nắng đầu đông
9.
tịch mịch vui trăng non vừa nhú
tịch mịch sầu vớt lên tuyệt cú
sông thu vừa hớp ngụm sương mai
trời thu vừa nở thêm một nụ.
Calif., Westminster, hoàn tất bản thảo vào mùa Thu 2016,
hiệu đính cuối tháng 12.2016
Nguyễn Lương Vỵ
Ghi chú:
1. Phần trích thơ Trần Nhân Tông: Chỉ trích phần phiên âm nguyên tác chữ Hán và phần phỏng dịch thơ Việt của người viết. Riêng 2 cặp thơ lẻ (còn gọi là phiến) ngôn ngữ và ý nghĩa khá rõ ràng, người viết dựa theo các bản dịch thơ trước đây.
2. Duyên khởi (縁 起, Pali: Paṭiccasamuppāda), cũng được gọi là Nhân Duyên Sinh (因 縁 生), và vì bao gồm 12 thành phần nên cũng có tên khác là Thập Nhị Nhân Duyên (十 二 因 縁). Duyên Khởi là một trong những giáo lý trọng yếu nhất của Phật pháp. Thuyết này chỉ rõ là mọi hiện tượng tâm lý và vật lý tạo nên đời sống đều nằm trong một mối liên hệ với nhau, chúng là nguyên nhân của một yếu tố này và là kết quả của một yếu tố khác, làm thành một vòng với mười hai yếu tố. Các yếu tố này làm các loài hữu hình cứ mãi vướng mắc trong Luân Hồi SinhTử. Theo kinh Duyên khởi, mười hai nhân duyên cụ thể như sau:
. Vô minh (無 明), sự không thấu hiểu Tứ Diệu Đế, không hiểu Khổ là tính chất căn bản của đời sống.
. Vô minh sinh Hành (行), hành động tạo Nghiệp. Hành động này có thể tốt, xấu hay trung tính. Hành có thể ở trong ba dạng: thân, khẩu và ý.
. Hành sinh Thức (識), làm nền tảng cho một đời sống tới. Thức này đi vào bụng mẹ. Thức lựa chọn cha mẹ đúng như Hành tốt xấu quy định.
. Thức sinh Danh Sắc (名 色), là toàn bộ tâm lý và vật lý của bào thai mới, do Ngũ Uẩn tạo thành.
. Danh sắc sinh Lục Căn (六根), là các giác quan, sáu căn (năm giác quan và khả năng suy nghĩ là sáu). Lục Căn bắt đầu tiếp xúc với bên ngoài gọi là Xúc (觸).
. Xúc sinh Thọ (受), là cảm nhận của con người với thế giới bên ngoài.
. Thọ sinh Ái (愛), tham ái, lòng ham muốn xuất phát từ vô minh.
. Ái sinh Thủ (取), còn gọi là Thủ Chấp, là điều cá nhân muốn chiếm lấy cho mình.
. Thủ dẫn đến Hữu (有), là toàn bộ những gì ta gọi là tồn tại, sự sống, thế giới.
. Hữu dẫn đến Sinh (生), là cuộc sống hàng ngày, bao gồm dục là tham ái và lòng ham muốn.
. Sinh dẫn đến Lão Tử (老 死), vì có Sinh nên có Già Chết.
3.“Tất Cả Pháp Lấy Tác Ý Làm Sanh Khởi”: Nguyên bản Pali của câu này là: “manasikārasambhavā sabbe dhammā”. Bản dịch tiếng Anh của Thanissaro Bhikkhu là “All phenomena come into play through attention”. Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch là : “Tất cả Pháp lấy Tác Ý làm sanh khởi”.
4. Thiền sư Huệ Năng (638-713), là vị Tổ thứ sáu của Thiền tông nước Tàu, môn đệ của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Ngài là tác giả của tác phẩm chữ Hán duy nhất được gọi là “Kinh” (một từ thường được dùng để chỉ những lời dạy của đức Phật Thích Ca), đó là “Pháp Bảo Đàn Kinh,” có ý nghĩa rất sâu xa về thiền. Bài kệ đắc pháp của ngài Huệ Năng như sau: “Bồ đề bổn vô thụ, / Minh kính diệc phi đài. / Bổn lai vô nhất vật, / Hà xứ nhạ trần ai.” (Bồ đề vốn chẳng là cây, / Gương sáng cũng chẳng phải là đài. / Xưa nay không một vật nào cả, / Nơi nào dính bụi trần?).
5. Thiền sư Từ Đạo Hạnh (1072-1116): Tục gọi là đức thánh Láng, là một thiền sư thời nhà Lý. Cuộc đời ông được ghi lại dưới nhiều màu sắc huyền thoại. Dân chúng lập đền thờ ông tại chùa Thiên Phúc (nay thuộc xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội), tục gọi là chùa Thầy và chùa Láng, chùa Nền ở Hà Nội. Hàng năm, lễ hội chùa Thầy được mở vào ngày 7 tháng 3 âm lịch, tương truyền là ngày ông viên tịch.
6. Thiền sư Huyền Quang (1254-1334): Tên thật là Lý Đạo Tái, người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang. Nay là làng Vạn Tải, xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Ông học rất giỏi, đỗ cả thi Hương, thi Hội. Về sau, ông đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ (trạng nguyên) khoa thi khoảng năm 1272 hay 1274 và được bổ làm việc trong Viện Nội Hàn của triều đình nhà Trần, tiếp sứ Bắc triều, nổi tiếng văn thơ. Sau này, ông từ chức đi tu, theo Trần Nhân Tông lên Trúc Lâm. Là một Thiền sư Việt Nam, tổ thứ ba dòng Trúc Lâm Yên Tử. Ông là một nhà thơ lớn với nhiều bài thơ còn được lưu lại. Cùng với Trúc Lâm Đầu Đà Trần Nhân Tông và Pháp Loa, ông được xem là một Đại thiền sư của Việt Nam.
7. William Shakespeare (1564-1616): Là nhà thơ, nhà viết kịch người Anh, được coi là nhà thơ vĩ đại nhất của Anh và là nhà viết kịch đi trước thời đại. Ông cũng được vinh danh là nhà thơ tiêu biểu của nước Anh và là “Nhà thơ của Avon” (Avon là quê của Shakespeare, viết tắt của Stratford-upon-Avon). Những tác phẩm của ông, bao gồm cả những tác phẩm hợp tác, bao gồm 38 vở kịch,154 bản sonnet, 2 bản thơ tường thuật dài, và vài bài thơ ngắn. Những vở kịch của ông đã được dịch ra thành rất nhiều ngôn ngữ và được trình diễn nhiều hơn bất kì nhà viết kịch nào.
8. Martin Heidegger (1889-1976): Triết gia người Đức. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông: “Hữu thể và Thời Gian,” đây là tác phẩm đã đưa ông trở thành nhà triết học có tầm vóc lớn trong thế kỷ 20 và có ảnh hưởng sâu rộng cho đến ngày nay, được xuất bản năm 1927; “Kant và vấn đề siêu hình học”; “Nhập môn siêu hình học” (1935); “Học thuyết Platon về chân lý” (1942); “Bức thư về chủ nghĩa nhân bản” (1947); “Những con đường rừng” (1950); “Những bài thuyết trình và những bài viết” (1952); “Tư duy là gì” (1954); “Nietzsche” (1961) và một số tác phẩm chưa ấn hành.
Nguồn tham khảo chính: Thơ Văn Lý Trần, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1989) – Lê Mạnh Thát, Trần Nhân Tông Toàn Tập, NXB TPHCM, 2000 – Nguyễn Huệ Chi, Văn Học Cổ Cận Đại Việt Nam, Từ Góc Nhìn Văn Hóa Đến Các Mã Nghệ Thuật, NXB Giáo Dục, 2013 – Các trang mạng wikipedia.org – thuvienhoasen.org – thivien.net.