Khế Iêm
Andrew Hudgins
_____________
ELEGY FOR MY FATHER,
WHO IS NOT DEAD
One day I’ll lift the telephone
and be told my father’s dead. He’s ready.
In the sureness of his faith, he talks
about the world beyond this world
as though his reservations have
been made. I think he wants to go,
a little bit – a new desire
to travel up, an itch
to see fresh worlds. Or older ones.
He thinks that when I follow him
he’ll wrap me in his arms and laugh,
the way he did when I arrived
on earth. I do not think he’s right.
He’s ready. I am not. I can’t
just say good-bye as cheerfully
ss if he were embarking on a trip
to make my later trip go well.
I see myself on deck, convinced
his ship’s gone down, while he’s comvinced
I’ll see him standing on the dock
and waving, shouting, Welcome back.
*Andrew Hudgins was raised in Alabama. He earned a B.A. at Huntingdon College, an M.A. at the University of Alabama, and an M.F.A. at the University of Iowa. He is the author of numerous collections of poetry and essays, many of which have received high critical praise, such as The Never-Ending: New Poems (1991), which was a finalist for the National Book Awards; After the Lost War: A Narrative (1988), which received the Poets’ Prize; and Saints and Strangers (1985), which was a finalist for the Pulitzer Prize.
BÀI AI VÃN CHO CHA TÔI,
NGƯỜI KHÔNG CHẾT
Một hôm tôi nhắc điện thọai lên và
được biết về cái chết của cha tôi.
Ông sẵn sàng. Trong sự chắc chắn của
niềm tin, ông nói về thế giới ở
bên kia thế giới này y như thể
ông đã dành được một chỗ trước. Tôi
nghĩ ông khá muốn đi – một khao khát
mới tăng cao, ngứa ngáy nhìn thế giới
Tươi mới. Hoặc xưa cũ. Ông tưởng ra
Khi tôi chết theo, ông sẽ ôm tôi
Trong tay và cười, cái cách của ông
Khi tôi sinh ra. Tôi không cho là ông
Đúng. Ông sẵn sàng. Tôi thì không. Tôi
Không thể nói lời từ biệt một cách
Vui vẻ cứ như ông đang lên tàu
Du hành để làm cuộc du hành
Sau đó của tôi xuông xẻ. Tôi thấy
Mình trên boong tàu, tin chắc con tàu
Của ông chìm xuống, trong lúc ông tin
Tôi sẽ thấy ông đứng trên cầu tàu
và vẫy tay, la lớn, Hãy trở lại nhé.
* Andrew Hudgins lớn lên ở Alabama. Ông đã có được bằng B.A. tại trường Cao đẳng Huntingdon, bằng Thạc sĩ tại Đại học Alabama, và bằng Thạc sĩ Quản lý kinh doanh tại Đại học Alabama, và bằng M.F.A. tại Đại học Iowa. Ông là tác giả của nhiều tập thơ và tiểu luận, trong đó có nhiều tập nhận được sự khen ngợi của giới phê bình, như The Never-Ending: New Poems (1991), từng lọt vào vòng chung kết Giải thưởng Sách Quốc gia; cuốn After the Lost War: A Narrative (1988), nhận giải thưởng Poets; và cuốn Saints and Strangers (1985), từng lọt vào vòng chung kết cho Giải Pulitzer.
Frederick Feirstein
______________
IMMORTALITY
Poems are written for the folks at home
Who scoffed at what we said in prose.
Poems are written for the folks who doze
In nursing homes, or villages of stone.
Poems are written for idealized others,
For the best traits in our fathers, mothers.
Poems are transcripts of our chromosomes
That once formed moving flesh and bone.
Poems are written sound by line by page
In momentary grief or fear or rage,
Knowing there is no one and no home.
Poems are written for their sake alone.
* Frederick Feirstein (1940 – 2020) was a poet, playwright and psychoanalyst. He published nine books of poetry, had twelve plays produced, and published numerous psychoanalytic and literary essays. His ninth book of poems, Dark Energy, was published in 2013 as the first book in the Grolier Series of Established Poets.
BẤT TỬ
Những bài thơ được viết cho những bậc cha chú trong nhà
Kẻ nhạo báng những gì chúng ta đã diễn đạt trong văn xuôi.
Những bài thơ được viết cho những bậc cha chú ngủ lơ mơ
Trong nhà dưỡng lão, hoặc ngoài nghĩa trang.
Những bài thơ được viết để lý tưởng hóa kẻ khác,
Vì cá tính nổi bật trong những người cha, mẹ chúng ta.
Những bài thơ là bản sao nhiễm sắc thể của chúng ta
Đã từng làm cho thịt và xương di động.
Những bài thơ được viết bởi âm thanh dòng chữ và trang giấy
Trong phút chốc âu sầu, sợ hãi hay giận dữ
(Dù) biết rằng không người và không nhà.
Những bài thơ được viết duy nhất cho chính nó.
* Frederick Feirstein (1940 – 2020) nhà thơ, kịch tác gia và nhà phân tâm học. Ông đã xuất bản chín tập thơ, có mười hai vở kịch được sản xuất, và xuất bản nhiều bài tiểu luận văn học & phân tích tâm lý. Tập thơ thứ chín của ông, Dark Energy, được xuất bản vào năm 2013, là cuốn sách đầu tiên trong một loạt các nhà thơ thành danh của Grolier. (Đây là tác phẩm tác giả gửi tặng Khế Iêm.)
ON THE CELL PHONE
You’re in the Berkshires with your girlfriend – “Hi!” –
And, though our house has long been ruined and sold,
You’re driving past it where our road is still
Turning, as always, burning red and gold,
And we’re still in Manhattan, me and Mom,
Our Towers ancient rubble, smoking still,
And only seven years have passed, and we
Are drinking scotch to kill the coming chill.
And now that our retreat is gone (we knew
When we first bought it, it would come to this),
I’m singing Heroism’s final song
About how lovers live from kiss to kiss
Until their autumn ends in killing snow
Falling on rooftops, boxcars, empty streets,
And you are bumping on our narrow road
And blowing kisses at our last retreat,
And in those windows, as in memory,
We’re cooking, reading comics, writing poems
About this future that we knew would come,
Though we were safely sitting still at home.
TRÊN CELL PHONE
Anh ở Berkshires với bạn gái – “Chào anh!” –
Và, dù cho ngôi nhà chúng tôi đã đổ nát và bán lâu rồi,
Anh lái xe ngang qua đó, nơi con đường
như thường lệ, (sắc lá) đang chuyển màu đỏ và vàng
Và chúng tôi vẫn còn ở Manhattan, tôi và mẹ,
Cái Tháp là đống gạch vụn cổ xưa, còn bốc khói,
Chỉ mới bảy năm trôi qua, và chúng tôi
Đang uống rượu scotch để giết cái lạnh tới.
Bây giờ nơi ẩn cư đó (ngôi nhà) không còn (chúng tôi đã biết
Khi lần đầu mua nó và sẽ rơi vào tình trạng như thế),
Tôi đang hát bài hát cuối thiên hùng ca
Về làm sao những người yêu sống bằng nụ hôn và nụ hôn
Cho đến khi mùa Thu của họ chấm dứt trong tuyết rã rời
Rơi trên mái nhà, toa chở hàng, những con phố vắng,
Và anh đang lái xe vào con đường hẹp gồ ghề
Và gửi những nụ hôn giã từ ở nơi ẩn cư cuối cùng của chúng tôi,
Và ở trong những cửa sổ (ngôi nhà), cũng như trong ký ức,
Chúng tôi đã nấu nướng, đọc truyện rẻ tiền, làm thơ
Về tương lai (ngôi nhà) sẽ rơi vào tình trạng như thế,
Mặc dù chúng tôi đang an toàn ngồi lặng lẽ trong nhà (lúc đó).
MOCK EPIC
From darkness, where every hero goes
To find he’s smaller than he had imagined,
I write a devil-may-care duet,
A lullaby for Bosch or Kurosawa.
Survivor guilt or curiosity
Drew me here like a seductive mother
Or the long deep notes from a sea god’s shell,
From the primal scene, or from Sartre’s hell.
I might have dramatized this when young and strong,
Made it a crisis in an epic poem.
But I’m too tired now to make this long.
Besides, all epics only take us home.
BẢN HÙNG CA NHẠO BÁNG
Từ bóng tối, nơi mỗi anh hùng ra đi
Phát hiện hắn nhỏ bé hơn hắn tưởng tượng,
Tôi viết bản song ca không-quan-tâm-tới-hậu-quả,
Một bài hát ru cho Bosch hoặc Kurosawa.
Mặc cảm tội lỗi của kẻ sống sót hoặc sự tò mò
Đã đưa tôi tới đây như đó là sự cám dỗ của người mẹ
Hoặc những nốt nhạc dài sâu lắng từ cái vỏ của thần biển,
Từ cảnh trí nguyên sơ, hoặc từ địa ngục của Sarte.
Tôi có thể đã kịch tính hóa điều này khi còn trẻ và khỏe,
Tạo thành cơn khủng khoảng trong một bản hùng ca.
Nhưng bây giờ tôi quá mệt để kéo dài thêm bài thơ.
Trừ phi, mọi bản hùng ca chỉ đưa chúng ta trở về quê nhà.
(Còn tiếp)