Truyện ngắn Đỗ Ngọc
Bà nội tôi là dân hàng xáo. Bà hay kể chuyện ngày xưa gánh gạo đi các chợ bán ra sao. Quê tôi thuộc phủ Hà Đông cũ. Theo bà kể thì quanh vùng nhiều chợ lắm. Chợ Trôi, chợ Phùng, chợ Giá, chợ Sấu, chợ Canh… Nhưng bà bảo là chị em bà ngày ấy thích nhất là đi “tỉnh”. Nghĩa là gánh gạo ra Hà Nội bán.
Chợ thì chợ nào cũng đông vui, nhưng chẳng chỗ nào vui bằng “tỉnh”. Quà vặt thì chợ nào cũng nhiều, nhưng chỉ “tỉnh” thì mới có kem. Món quà chỉ ăn tại chỗ không đem về được.
Bà tôi bảo, mỗi khi đi tỉnh về, chị em bà ríu rít khoe bán được bao nhiêu, mua sắm được gì, ở tỉnh cái gì hay, cái gì đẹp ra sao, thì cụ tôi lại bĩu môi bảo:
– Gớm! Vừa mới ngửi được tí rắm Kẻ Chợ mà đã cứ rộn cả lên.
Kẻ Chợ, sau tôi biết là Hà Nội. Ngày ấy quê tôi cách Hà Nội gần hai chục cây số. Tôi cũng chỉ ra Hà Nội một vài lần. Một lần theo bố tôi ra Viện Mắt, vài lần có việc ra chỗ chú tôi ở bến xe Kim Mã… Vào những năm 60 của thế kỷ trước, lúc chiến tranh bắn phá, Hà Nội ngày ấy vắng lắm. Tôi chỉ biết nhiều về Hà Nội khi có học sinh Hà Nội sơ tán về.
Tổ tôi có ba đứa sơ tán, hai gái một trai. Hai đứa con gái thì trắng trẻo, xinh xắn, sạch sẽ, chẳng mấy khi nói chuyện với một thằng đen đủi, rách mướp, ngỗ ngược như tôi. Chỉ có thằng Quang phệ và mấy thằng ở tổ bên là hay chơi với tôi. Lúc đầu chúng nó cũng coi khinh tôi chẳng ra gì, nhưng vài lần đi học về bị bọn trẻ làng bắt nạt, được tôi bênh nên sau chúng cũng thân tôi.
Nhất là Quang phệ thì lúc nào cũng kè kè sau tôi. Thằng này nhát gan, sợ bọn trẻ quê lắm. Đi với tôi thì yên tâm. Vì học chậm một năm nên tôi lớn hơn bọn cùng lớp, hơn nữa trong làng tôi cũng là diện đầu bò đầu bướu, cho nên trẻ làng cũng gờm.
***
Kỳ nghỉ hè, bọn học sinh sơ tán trở về Hà Nội. Thằng Quang phệ đóng lỉnh kỉnh ba lô túi xách. Nó có cái xe thiếu nhi Liên xô gọi là “Pơ-giô con vịt”. Ngày ấy trẻ con như lũ chúng tôi mà có riêng xe đạp thì là diện ghê gớm lắm. Nó gạ tôi:
– Mày về Hà Nội chơi với tao không?
Tôi biết thằng này lười chảy thây, nó rủ tôi đi Hà Nội là để đèo nó về. Với nó phải đạp xe gần hai chục cây thì là cực hình. Nhưng được đi Hà Nội thì tôi cũng thích. Nó nói thêm:
– Nhà tao gần bến tàu điện, lúc nào thích về thì nhảy tàu về bến Kim Mã chỗ chú mày rồi đi xe khách về thì chỉ tiếng đồng hồ là đến nhà.
Nghe cũng bùi tai, hơn nữa bố tôi cũng đồng ý, thế là tôi làm một chuyến chu du Hà Nội.
***
Nhà thằng Quang phệ ở cuối phố Huế gần chợ Giời. Nhà nó làm bánh quy. Ngày ấy người ta thường đem trứng, bột mì, đường đến lò bánh đổi lấy bánh quy. Nhà nó thơm lừng mùi bánh.
Quang phệ ở với mẹ và chị nó. Bố nó ở chỗ khác với bà hai.
Mẹ nó khinh khỉnh nhìn tôi, hỏi thằng con:
– Thằng nào đây?
Thằng Quang nhanh nhảu:
– Bạn con, bố nó làm ở phòng thuế.
Nghe tiếng phòng thuế mẹ nó hơi chựng lại.
– Phòng thuế nào? – mẹ nó hỏi
– Phòng thuế khu[1] – thằng Quang phệ đáp.
Để mẹ nó chấp nhận tôi, thằng Quang đã phong cho bố tôi một vị thế nể trọng.
Tắm giặt cơm nước xong, Quang phệ rủ tôi đi “bát phố”. Thằng này về nhà như hổ về rừng. Nó vênh vang tự đại, nghe cách nó đối đáp với mẹ nó thì lộn ruột.
Ra phố nó dạy tôi cách nhảy tàu điện, nó gọi là “bổ tàu”. Nó nhảy thiện nghệ lắm, tàu đang đi nhanh nó nhảy phắt xuống, rồi lại nhảy tót lên cửa sau.
Bổ tàu có hai cách: bổ úp và bổ ngửa, nó dạy tôi.
Bổ úp là: bật mình nhảy xuống đất mặt áp vào thành tàu. Còn bổ ngửa thì thả chân xuống lưng quay vào thành tàu, khi thả người xuống đất thì chạy theo tàu một đoạn để giảm quán tính.
Hai đứa chúng tôi đi quanh Bờ Hồ xem mấy người khắc bút, mấy hiệu truyền thần, vào Bách hóa tổng hợp xem hàng hóa, dạo qua tất cả các rạp chiếu phim xem áp-phích và ảnh giới thiệu phim sắp chiếu…
Thế rồi xảy ra một chuyện động trời, khiến tôi dằn vặt một thời gian dài.
Số là lúc nhảy tàu đi về nhà, tới đầu Hàm Long thằng Quang phệ hất hàm bảo tôi:
– Bổ tàu theo tao!
Tôi lao xuống theo nó. Cả hai theo hút hai đứa bé trạc bảy, tám tuổi vào một ngõ sâu ở cuối phố Hàm Long.
Tới cuối ngõ, không còn lối thoát, thằng Quang sấn vào thằng lớn đấm một phát vào ngực rồi quát:
– Chúng mày vừa “đột” được gì “chi” ra ngay!
Thằng bé lổm ngổm đứng dậy xun xoe:
– Có gì đâu, mỗi cái khăn mùi xoa.
– Đưa đây tao xem. Thằng Quang vừa nói vừa vòng tay ra sau lưng thằng nhỏ giật phắt chiếc ví da mà thằng bé giữ sau lưng.
Trong ví có mấy đồng bạc, một ít tiền lẻ, ít tem phiếu, mấy cái ảnh, và giấy tờ linh tinh. Thằng Quang tóm mấy đồng tiền chẵn, quẳng cái ví lại cho hai đứa bé, giọng trịch thượng:
– Đây, cho chúng mày!
Ra tới ngoài phố thì hai đứa nhỏ đuổi theo nhặt đá ném tôi và thằng Quang tới tấp, miệng chửi xối xả:
-ĐM chúng mày, trấn của bố mày, có giỏi quay lại đây!
Tôi và thằng Quang chạy trối chết tới đầu phố Ngô Thì Nhậm. Quang phệ móc tiền ra đếm, vẻ mặt thỏa mãn. Nó dẫn tôi vào ăn nộm đu đủ thịt bò khô.
Tôi thì bàng hoàng choáng váng. Tôi không hiểu chuyện gì xảy ra. Phải một lúc lâu định thần, thì tôi mới hiểu là mình vừa tham gia một vụ trấn lột, trấn lột của mấy đứa móc túi.
Thằng Quang còn đưa tôi đi ăn bánh gối. Tối về mẹ thằng Quang cho tôi một đĩa bánh quy gãy. Nhưng cũng như nộm bò khô, bánh gối, bánh bích quy cũng chẳng để lại dư vị gì cho tôi. Đầu óc tôi như trong chảo lửa. Những từ ngữ “trấn lột”, “móc túi” là cả một sự xa lạ, đen tối, mà tôi chỉ được nghe từ miệng người khác, hoặc trên đài báo, sách vở. Bỗng nhiên tôi lại là một đồng phạm.
Tối hôm ấy tôi thao thức không ngủ được. Tôi chợt hiểu rằng thằng Quang phệ đã lợi dụng hình hài bụi bặm thô kệch của tôi để hù mấy đứa móc túi. Mã nó thì dọa được ai. Một mình nó thì chắc bố bảo nó cũng không dám làm.
May mà có việc ở hợp tác xã hôm sau chứ không thì tôi chắc đã chuồn về quê sớm.
Ngày đầu ở Hà Nội: mới lạ, thú vị, kinh hoàng, choáng.
***
Hôm sau tôi đã định về thì thằng Quang dẫn tôi sang chơi nhà bố nó. Nhà bố nó ở gần triển lãm Vân Hồ. Cả mấy căn nhà của bố thằng Quang đều cho tổ hợp tác xã mỹ nghệ thuê, làm khảm trai, sơn mài, mành mỹ nghệ.
Thấy mấy người đẩy một xe ba gác chở vật liệu vào sân, theo thói quen ở quê, tôi sấn vào hộ một tay bốc xuống. Bác Hiền chủ nhiệm hợp tác xã thấy vậy gọi tôi lại hỏi han, rồi bảo: Có thích phụ việc hè ở hợp tác không, được bốn đồng một tháng lại được ăn bữa trưa. Trẻ đi sơ tán nhiều nên hợp tác xã cũng thiếu người phụ việc.
Ở lại Hà Nội, một tháng được bốn đồng lại được ăn trưa thì với tôi trong mơ cũng không thấy. Thằng Quang thì vun vào ngay:
– Ở lại đi, tối ngủ nhà tao, bây giờ nhảy tàu lên bến xe nhờ chú mày gọi điện về cho bố mày là xong.
Nghe cũng có lý, thế là tôi và thằng Quang lên Kim Mã nhờ chú tôi gọi điện về cho bố tôi ở ủy ban xã. Bố tôi đồng ý cho ở lại.
Bác Hiền là người để lại ấn tượng mạnh với tôi. Điềm đạm, chăm chú nghe, nói năng chậm rãi dứt khoát, bác đối xử với tôi như tôi là con cháu bác. Bác Hiền gái thì hiền lành, đôn hậu, lúc nào cũng mỉm cười, nói nhỏ nhẹ, chỉ bảo công việc cho tôi chu đáo.
Công việc của tôi đơn giản: phơi mành, chải mành, và quang dầu mành, hoặc dọn dẹp linh tinh.
Buổi trưa đầu tiên ra tổ phục vụ ăn cơm, tôi đứng lên giữa nhà ăn cất tiếng mời cơm tất cả mọi người, khiến mọi người cười ồ, nhưng sau đó lại đồng thanh mời lại tôi. Tối về thằng Quang phệ biết chuyện lắc đầu bảo tôi: Đúng là đồ “cua đồng”.
Thường vào buổi sáng, anh Tý mù hay khua gậy sang ngồi uống nước và hút thuốc lào, nói chuyện tào lao với mọi người trong tổ. Anh Tý thương binh người nhỏ thó thấp bé, đôi tay săn chắc gân guốc.
Thằng Quang bảo tôi: Lão giả vờ mù đấy. Đi B, vào đến Vinh bị bom, lão đút cho quân y hai chỉ vàng để được chứng nhận hỏng mắt, rồi chuồn về.
Thằng Quang thì sợ anh Tý mù lắm. Tôi đã chứng kiến một lần anh Tý tóm gáy nó dúi xuống đất vì một chuyện gì mà nó làm anh phật ý. Riêng anh Tý rất quý tôi. Mỗi lần anh đến, tôi đều lấy ghế cho anh ngồi, vê thuốc lào và châm lửa cho anh. Một lần anh rút thuốc lào trong túi ra làm rơi tờ năm hào, vì nghĩ anh không nhìn thấy, tôi nhặt rồi lẳng lặng đút lại vào túi anh. Cũng có khi vì thế mà anh quý tôi.
Chiều về tôi giúp mẹ thằng Quang dọn lò, khuân củi, sắp xếp khay chậu. Tối tôi ăn cơm ở nhà nó. Mẹ Quang phệ chiều nó lắm. Nồi cơm độn mỳ sợi chỉ một góc, chừa một góc cơm trắng cho thằng Quang. Bữa nào cũng có tí thịt, tí cá, hay trứng. Nhưng tôi biết ý chỉ ăn cơm với dưa, cà và canh. Với tôi thì cũng là quá ngon rồi, vì ở quê tôi còn phải ăn độn thêm khoai, sắn, dong riềng…
Chị thằng Quang là dân “phe” phiếu, đi suốt cả ngày, hôm nào “phe” vé phim thì mãi khuya mới về. Có hôm về nhà kéo theo một đám bạn, bật đài Sài Gòn nghe trộm, rồi rên rỉ hát nhạc vàng. Nói chuyện với nhau thì toàn tiếng lóng chợ búa.
Châm chọc, chê bai thì họ bảo là “kẻ”. Một đồng thì họ gọi một “mảnh”. Tiền thì họ gọi là “dấn”. Nhà quê thì họ gọi là “cua đồng”. Chê ai ngốc ngếch thì họ bảo “tẩm”. Gái làm tiền thì họ gọi là “phò”. Sàm sỡ đàn bà con gái thì họ gọi là “sớt”. Lợi dụng được gì ai thì họ gọi là “cốc”. Dân buôn vặt chui lủi họ gọi là “phe”. Đồng hồ đeo tay họ gọi là “lắc”. Ăn cắp xe đạp thì gọi là “nhảy nghẽo”. Đi tù thì gọi là “đi suốt”. Công an thì gọi là “cá”. Bố, mẹ thì gọi là “ông bô, bà bô”. Chia phần thì gọi là “chi quả”. Chia cho ai gì thì gọi là “tách bõ”. Đồ giả thì gọi là “cọp”. Mắng ai nói gì không đúng thì họ bảo “thiên thối”. Băng nhóm thì gọi là “hội”. Địa phận các băng nhóm cát cứ thì gọi là “bang”. Ngày ấy nổi tiếng ở Hà Nội có bang KT (Khâm Thiên), bang Mơ Táo, bang Mai Động, bang “cò ỉa” Lò Đúc, hay bang “sợ dùy” Vĩnh Tuy. Xe đạp pơ-giô thì họ gọi là xe “lơ”. Nhà nào có xe pơ-giô là diện nhà giàu có, đẳng cấp cao. Ngày ấy ở Hà Nội có những thành ngữ đậm mùi vật chất như: “Đẹp trai đi bộ, không bằng mặt rỗ đi lơ” hay: “Văn hay chữ tốt, không bằng học dốt đi lơ”… Còn nhiều nữa nhưng tôi không nhớ hết.
Một lần, chị thằng Quang cho tôi hai cái kẹo lạc, và bảo:
– Mai chị nhờ mày tí việc nhớ.
Tôi thấy mẹ thằng Quang lừ mắt nhìn chị ta và bảo:
– Nhờ gì! Bố nó làm phòng thuế đấy!
Thế rồi không thấy chị ấy nhờ gì.
Tối tối, tôi và thằng Quang lên sân thượng ngủ cho mát. Mẹ thằng Quang bắt nó phải mắc màn. Còn tôi thì chỉ cần trải chiếu, gần sáng sương xuống lạnh tôi kéo nửa chiếu đắp lên người là xong.
Nhưng khoái nhất là được đọc truyện. Thằng Quang hay thuê truyện ở Thi Sách. Ở đấy thì nhiều sách vô kể. Thằng Quang thì thích truyện kiếm hiệp bìa vàng, loại chỉ dấm dúi cho khách quen thuê. Tôi thì chỉ thích Tam Quốc, vì ở quê tôi đã được đọc một hai tập. Cuối cùng thì thằng Quang cũng đồng ý Tam Quốc, vì nó chỉ thích nằm nghe tôi đọc.
Ở Hà Nội hơn hẳn nhà quê về thông tin sách báo. Bố tôi làm ở ủy ban xã thỉnh thoảng còn đem về được tờ báo. Sách của tôi ngoài vài quyển sách giáo khoa thì chẳng có gì. Tối các bà các chị ra sân kho chia công điểm thì được nghe đài của xã. Trong xóm tôi ông Tự thợ may có cái đài, mỗi tối mọi người lại tập trung ở nhà ông ta nghe tin tức, hay “truyện cảnh giác”… Ngoài ra thì tin tức chủ yếu truyền miệng.
Ở Hà Nội thì khác, hợp tác xã chỗ tôi làm ngày nào cũng có báo Hà Nội Mới hay báo Quân đội Nhân dân. Đài công cộng thì nói oang oang cả ngày. Chưa kể hàng nước trước hợp tác xã là một kênh thông tin ngoài luồng đầy chuyện lạ.
Buổi tối tụ tập cạnh hàng nước, mấy thanh niên trong phố đem ghi-ta ra đánh. Một anh đệm một anh tỉa, toàn các bài nước ngoài lạ tai. Có hôm các anh chơi bài Bài ca hi vọng. Bài này thì tôi quen. Tôi khen bài này hay, thì thằng Quang bảo tôi:
– Tẩm ạ! Hay gì, chẳng qua hôm ấy có “cá” xem thì phải chơi nhạc đỏ thôi, chứ phải đánh “đăng”[2] nghe mới sướng.
Tôi nhớ lại, tối hôm ấy có anh công an khối[3] dừng xe đạp ghếch chân lên vỉa hè đứng nghe.
***
Một vài lần tôi giúp việc ở tổ vẽ mành, thấy tôi cũng võ vẽ biết vẽ, bác Hiền gái hỏi tôi có thích đi học vẽ không, có lớp hội họa hè cho thiếu nhi ở nhà “Nghệ thuật quần chúng”. Tôi thích quá đồng ý ngay. Bác chỉ cho tôi cách làm đơn. Thằng Quang dẫn tôi đi nộp đơn. Một tuần học hai buổi vào buổi chiều.
Đi học cũng khá xa, từ nhà thằng Quang lên lớp tận Nguyễn Thái Học mất một hào tiền tàu điện. Tôi tiếc tiền cứ cuốc bộ. Cuốc bộ tuy xa nhưng ngắm phố phường cũng thích. Mấy hôm đầu không biết đường tôi cứ bám theo đường tàu, sau biết đường, đi tắt Bông Nhuộm, Bà Triệu thì cũng gần hơn.
Lớp học có hơn chục đứa, phần lớn con nhà khá giả, quần áo, giấy bút, bảng, màu toàn đồ đắt tiền. Nhưng cũng có vài đứa tuềnh toàng như tôi.
Ấn tượng nhất với tôi là cô giáo. Cô đẹp, đài các, cách ăn mặc, cử chỉ toát lên vẻ sang trọng. Cô nói năng nhỏ nhẹ ngọt ngào, khuôn mặt lúc nào cũng điểm chút son phấn. Cô đối xử với chúng tôi ai cũng như ai, không phân biệt giàu nghèo.
Những hôm xấu trời, chúng tôi ở trong lớp vẽ tĩnh vật. Hôm đẹp trời thì ra ngoài vẽ tự do, phong cảnh.
Trong đám bạn cùng lớp thì tôi thân với thằng Bình. Nó bé nhỏ, mảnh khảnh, da xanh rớt, nói năng khẽ khàng như con gái. Nó cũng ăn mặc vá víu như tôi. Đi học về nó cũng thích đi bộ. Học vẽ chì, nó cắt cho tôi một mẩu bút chì 6B. Ngày ấy chì 6B hiếm lắm,văn phòng phẩm Hồng Hà của Việt Nam không làm được, phải nhập từ Nga, Tiệp. Hiếm cũng là vì loại này thường được chế biến thành bút kẻ lông mày cho chị em phụ nữ.
Đi với thằng Bình, tôi cũng biết nhiều về Hà Nội. Chiều về, hai thằng hay lang thang ngắm ảnh trước đại sứ quán các nước. Nó dẫn tôi lên Hồ Tây, thăm chùa Một Cột, Văn Miếu, Cột Cờ, có hôm hai thằng ra cả cầu Long Biên. Đi đến đâu nó cũng rủ rỉ giới thiệu Hà Nội cho tôi.
Một hôm nó đưa tôi về nhà nó. Nhà nó giữa đường Nguyễn Công Trứ, trong khu tập thể cơ quan. Hai mẹ con nó ở trong một cái phòng bé tẹo, ngăn với phòng bên bằng vách cót dán họa báo. Cả nhà có mỗi cái giường còn toàn là sách. Bố nó và anh nó đi B. Tôi hỏi mượn truyện, thằng Bình lắc đầu giọng buồn buồn:
– Không được đâu, sách là kỷ vật của bố tao để lại. Mẹ tao không cho mượn đâu, nhỡ bố tao đi không về…
Nhìn chồng sách cao ngất của người “nhỡ đi không về” tôi bỗng thấy thương thương thằng Bình.
Thằng Bình múc cho tôi chậu nước rửa mặt mũi chân tay. Rửa xong tôi hắt luôn chậu nước xuống cống. Thằng Bình giơ tay ngăn lại nhưng không kịp, nó tần ngần, bảo:
– Ở đây hiếm nước lắm, rửa mặt xong phải giữ nước lại để tối rửa chân. Đường ống nước ở đây hỏng, phải xin nước ở xa lắm.
Trong sân trước cửa nhà nó có một bể nước nửa chìm nửa nổi. Thằng Bình bảo trước đây vẫn chứa nước mưa, nhưng khi nhà bên, tự vệ xây ụ pháo 12 ly 7 trên sân thượng vôi vữa rơi xuống, bây giờ bể bẩn không dùng được nữa. Tôi nhìn vào thấy bể đầy vôi vữa, gạch đá, cóc nhái, chuột chết, có cả rắn nữa.
Tôi rỡ bỏ tấm phên nứa, bảo thằng Bình lấy cho tôi cái ghế đẩu. Tôi thả cái ghế vào bể rồi leo vào trong. Ở nhà, công việc thau bể tôi làm là chính. Tôi vứt hết gạch đá ngoài, lấy chậu thau, múc nước chuyền ra cho thằng Bình đổ xuống cống. Thằng Bình rú lên khi thấy tôi tóm đuôi con rắn ném ra ngoài. Khi vét hết chỗ vữa thì trong bể trông đã khá sạch. Sau hơn một tiếng đồng hồ phơi nắng đáy bể khô cong, tôi lại trèo vào quét sạch bụi bặm và rêu khô, đậy lại tấm phên và bắc lại cái máng vào bể.
Mẹ thằng Bình, một người đàn bà nhỏ bé gầy gò, mặt đẫm mồ hôi, chắc vừa phải đi bộ xa về. Nhìn cái bể, cô ôm lấy vai tôi rồi bảo:
– Cô cám ơn cháu. Ở đây nước nôi khổ lắm cháu ạ. Cô phải vào tận viện để xin, mà có phải lúc nào người ta cũng cho đâu.
Tôi chẳng biết “viện” ở đâu. Nhưng hình dung người đàn bà bé nhỏ kia gánh gánh nước thì cũng thấy vất vả nhường nào. Mẹ thằng Bình ước ao:
– Giá hôm nay giời thương cho trận mưa thì may quá!
Đêm hôm ấy, giời thương mẹ con thằng Bình thật. Đang ngủ trên sân thượng thấy gió mát lạnh, rồi ù ù tiếng sấm, tôi vùng dậy kéo thằng Quang, rồi vơ màn chiếu chạy xuống nhà. Vừa vào được nhà thì mưa đổ xuống ầm ầm như trống trận.
***
Một hôm thằng Quang phệ rủ tôi đi xem phim. Nó đưa tôi vào một xóm nhỏ gần chùa Hai Bà bảo là đi lấy vé. Trong một căn nhà lá lụp xụp, một gã đàn ông khó đoán tuổi, đầu bù xù mắt trắng dã, môi bì bì thâm xịt, bàn tay móng để dài cóc cáy. Chẳng nói chẳng rằng, hắn hất hàm về tôi, mắt lờ đờ. Thằng Quang gật đầu thì thầm vào tai gã. Gã đàn ông đưa cho nó cái cặp giấy và hai chiếc vé xem phim. Thằng Quang đưa cái cặp cho tôi cầm, hai đứa nhảy tàu ra ga Hàng Cỏ, đưa cho một mụ đàn bà đang đợi ở đấy.
Tối hôm ấy tôi với thằng Quang vào rạp Tháng tám xem phim Những người báo thù không thể bị bắt. Thằng Quang đùn tôi cầm vé đến cửa soát vé. Vào trong rạp, thằng Quang kéo tôi vào trong nhà vệ sinh. Nó thì thào bảo tôi:
– Vé này là vé “cọp“ đấy, phải đứng đây một lúc mới ra xem được.
Tôi choáng váng. Dư vị “bánh gối trấn lột” từ từ ứ lên cổ, nghẹn lại khiến tôi không thốt nên lời. Tôi muốn tóm cổ thằng Phệ nện cho nó một trận.
Tới lúc tắt đèn, máy chiếu bắt đầu sè sè chạy thì tôi với nó mới mò ra, ngồi ở bậc lối đi. Rạp kín người. Tôi rúm người lại khi người soát vé soi đèn phin vào hai đứa hỏi:
– Sao chúng mày lại ngồi đây?
Thằng Quang nhanh nhảu:
– Chỗ của bọn em gần màn ảnh quá, ngồi đây xem cho đỡ chóng mặt.
Người soát vé soi xem vé rồi bỏ đi. Tôi như vứt đi được cái cối đá đang đè lên ngực. Nhưng rồi tôi cũng quên đi ngay, không như vụ trấn ví tiền của mấy đứa bé, vì phim hay quá.
Ở quê thì cả năm tôi cũng chỉ được xem phim vài lần mỗi khi bộ đội chiếu phim lưu động về chiếu, nhưng nhiều khi phải đi rất xa, mà không phải phim nào cũng hay. Phim hay như thế này thì tôi chưa được xem bao giờ. Tôi với thằng Quang còn kể lại mãi về phim này khiến tôi quên phéng mất cả chuyện “vé cọp”.
Sau nay tôi hỏi lại thì thằng Quang bảo:
– Lão này giỏi lắm. Lão làm vé giả như thật, chưa lộ bao giờ. Có lần tao đưa cho lão một vé bóng đá làm mẫu, lúc đưa lại không ai biết đâu là vé thật đâu là vé giả. Nhưng lão chỉ làm vé để thưởng chơi thôi, không bán kiếm tiền. Chủ yếu là lão làm tem thư giả. Tem phiếu lương thực, thực phẩm thì hay bị “soi” dễ lộ. Tem thư bưu điện không mấy ai để ý. Hơn nữa hắn chỉ đưa đi các tỉnh xa tiêu thụ. Mà hắn cũng không tham làm nhiều, miễn là đủ tiền hút sái.
Thì ra thằng Quang là tay chân của lão nghiện làm tem giả. Nó bảo vé phim thì chỉ xem chơi thôi, vé bóng đá mới để bán. Những trận hay có cặp vé nó bán được 6, 7 đồng, ăn quà nhòe. Trong sân bóng chỗ ngồi lộn xộn khó bị phát hiện. Còn vé phim ít tiền cũng không mấy ai để ý.
***
Cuối hè nhà “Nghệ thuật quần chúng”, chỗ tôi học vẽ, tổ chức đi tham quan một ngày, ở chùa Tây Phương và chùa Thầy. Mỗi người đóng một đồng. Một đồng với tôi thì to quá, tôi chẳng lấy đâu ra. Gần hôm đi, cô giáo bảo tôi:
– Em không phải đóng tiền đâu. Cô đã nói với trường miễn cho em rồi.
Tôi biết là cô đóng tiền cho chứ chắc chẳng có miễn giảm gì đâu, chỉ biết lí nhí cám ơn cô.
Hôm đi tham quan, anh Tý mù quẳng cho tôi chiếc áo sơ-mi xanh trứng sáo vẫn lành lặn bảo:
– Cho mày đấy, cái áo dở hơi này mặc đéo ra cái gì!
Tôi biết cái áo này còn tốt, anh Tý nói vậy để tôi khỏi hàm ơn anh. Cái áo tôi mặc hơi dài nhưng xắn tay lên thì trông cũng gọn.
Mẹ thằng Bình cho tôi một cái quần xanh công nhân sờn gối bảo:
– Quần này của anh Bình, cháu lấy mà mặc, Bình thì chả biết bao giờ mới mặc vừa.
Bác Hiền gái cắt cộc chiếc quần cho tôi thành quần soọc. Hôm đi tham quan, bác Hiền nắm cho tôi một nắm cơm và một ít ruốc. Ở quê tôi, chỉ người đẻ mới được ăn ruốc. Nắm cơm thơm rức mùi ruốc, tiền lệ phí cô đã trả, mặc chiếc quần soọc, chiếc áo anh Tý cho, tôi tự tin đi, lòng vui phơi phới.
Buổi sáng xe buýt đưa chúng tôi đến chùa Tây Phương. Lên chùa phải đi hết mấy trăm bậc. Ở giữa chừng đồi, gần lên đến chùa, có một thằng bé chừng ba, bốn tuổi, bụ bẫm, kháu khỉnh, đứng trước một hàng rào dâm bụt, khoanh tay chào mọi người.
– Em chào chị!
– Em chào anh!
– Cháu chào bác…
Người thì cho nó kẹo, người thì cho nó xu lẻ. Tôi thấy một bàn tay người lớn từ phía trong hàng rào sau nó, thò ra móc vào túi nó lấy những kẹo bánh, xu, lôi vào trong.
Tôi đi cuối cùng, chẳng có gì cho, chỉ vuốt vuốt mái tóc nó. Nó trừng mắt nhìn tôi bảo:
– Không cho xu, sờ gì?
Để thấy là kiểu kiếm tiền ở những nơi danh lam thắng cảnh bằng cách đánh vào từ tâm của du khách đã có từ rất lâu.
Chùa thì tôi cũng chẳng thích thú gì lắm, vì ở quê, chùa chiền, tượng Phật thì cũng chẳng có gì lạ với tôi.
Đến chùa Thầy, các anh ở lớp lớn thì được trèo núi, vào hang động. Bọn bé chúng tôi thì đi thăm nghệ nhân rối nước, nghe kể về nghệ thuật rối nước và vẽ tự do phong cảnh.
Đến trưa ăn cơm. Cô giáo bảo tất cả để tập trung thức ăn vào ăn chung, không ai được nói của mình có cái gì, để các bạn ăn không ngại.
Có bao thứ bày ra khiến tôi hoa mắt chẳng biết gắp gì. Nào là bánh mỳ, xôi, thịt gà, giò, chả, hoa quả, bánh kẹo…
Một đứa con gái đưa cho tôi một miếng bánh mì quệt bơ vàng ươm bảo:
– Bơ Tôn Đản đấy!
Khi về tôi hỏi thằng Quang bơ Tôn Đản là bơ con gì? Thằng Quang cười ngất.
Sau này tôi mới biết Tôn Đản là nơi bán thực phẩm cho cán bộ cao cấp.
Ăn no kễnh bụng mà tôi vẫn không nhớ là mình đã ăn những gì. Mãi lúc về, tôi mới nhớ đến nắm cơm ruốc mà bác Hiền cho tôi đem theo, không biết số phận nó thế nào.
***
Cuối kỳ học, lớp chọn tranh để đem đi triển lãm. Tôi cũng nộp vài cái. Chủ Nhật tôi và thằng Quang lên Hàng Bài vào phòng triển lãm tranh thiếu nhi xem.
Tôi sững người nhìn bức tranh của mình vẽ được trưng bày trong phòng triển lãm. Tôi không tin ở mắt mình. Tôi cảm tưởng có gì đấy không thực. Tôi như đông cứng trước bức tranh. Tôi chỉ cho thằng Quang, là một thằng kiệm lời khen, nhất là với tôi, nó cũng phải thốt nên:
– Ơ! Mày vẽ đẹp ra phết đấy!
Tôi tự hào quá. Tôi cảm tưởng như mọi người đều dừng lại trước tranh của tôi trầm trồ khen ngợi. Tôi thấy sống mũi cay cay. Tôi phải chạy vội ra ngoài, nấp vào gốc cây, chùi vội những giọt nước mắt xúc động.
Cách đây hơn hai tháng tôi vẫn còn chân lấm tay bùn, mò cua bắt ốc ở quê. Hôm nay tôi đã có tranh bày ở triển lãm Hàng Bài giữa thủ đô Hà Nội. Tôi không tin đó là sự thật. Tôi thấy như người đang đi trên mây.
***
Ngày về bịn rịn, anh Tý mù cho tôi một bao thuốc lá Drao về cho bố tôi. Tổ sơn mài cho tôi một hộp sơn mài để cho bà nội tôi đựng giầu cau. Bác Hiền cho tôi bốn cái mành nhỏ vẽ tranh tố nữ về làm kỷ niệm. Tiền lương được trả gộp một lần cho thành món. Mẹ thằng Bình cho tôi hai quyển truyện Cơ-ru-sô trên đảo hoang và Không gia đình. Hai truyện này tôi đọc cho cả nhà nghe mấy lượt. Mẹ thằng Quang phệ cho tôi một hộp bánh bích-quy thơm rức mũi.
Về nhà, ký ức Hà Nội với tôi sâu nặng. Tối tối tôi trèo lên cây ổi trước nhà nhìn về Hà Nội. Một khoảng sáng phía chân trời, tưởng như nghe thấy tiếng tàu điện leng keng, tiếng còi tàu ở ga, ngửi thấy mùi véc-ni ở hợp tác xã, mùi bánh quy nhà thằng Quang…
Giữa đám trẻ quê, tôi khuỳnh khoàng kể chuyện về Hà Nội, nói đệm toàn tiếng lóng, “lính tráng”, “anh chị”, bốc phét bạt mạng. Bọn trẻ thì chỉ biết tròn mắt nghe, lắc đầu khâm phục.
Bà tôi thì lắc đầu bảo:
– Cụ mày mà còn thì chắc lại bảo: Gớm, vừa ngửi được tí rắm Kẻ Chợ mà đã rộn cả lên.
***
Hà Nội. Bây giờ Hà Nội còn đâu? Giữa bốn bề kiến trúc hổ lốn, giao thông tắc tị, một bầu không khí đặc quánh khói bụi, một dòng người chen chúc bất tận, hối hả. Tìm Hà Nội của tôi ngày ấy ở đâu bây giờ.
Quê tôi bây giờ cũng thành Hà Nội. Lớp trẻ đi đâu cũng vỗ ngực mình là người Hà Nội. Bao nhiêu người ở đổ về Hà Nội định cư, bỗng chốc xưng mình là người Hà Nội.
Nhưng với tôi, Hà Nội vẫn chỉ là một khoảng sáng lung linh, huyền diệu khi tôi nhìn từ ngọn cây ổi trước nhà về phía chân trời đêm hôm nào. Với tôi, Hà Nội bí ẩn và quyến rũ lạ thường.
Hôm rồi, tình cờ chứng kiến một cuộc họp đồng hương tỉnh nọ ở Hà Nội. Một trưởng lão giọng địa phương đặc sệt đứng phát biểu, ca ngợi con cháu làm ăn thành đạt, đã góp phần đưa thủ đô lên một tầm cao mới.
Tôi bấm bụng phì cười, cảm tưởng như thấy họ là những người ngồi trên con thuyền, phồng mồm thổi vào cánh buồm mà ngỡ giúp con thuyền đi được nhanh hơn.
Nhìn cảnh này cụ tôi còn sống chắc lại phán:……..
Phán gì chắc các bạn cũng đoán ra.
České budějovice 05-04-2015
[1] Bây giờ gọi là quận.
[2] Dance – nhạc nhảy.
[3] Bây giờ gọi là phường.