(Kính dâng các thế hệ Nông Dân Việt Nam)
Mạc Văn Trang
Tôi xuất thân Nông dân, muốn viết cái gì đó để chia sẻ cho nhiều người, nhất là con cháu Nông dân hiểu về người Nông dân trong trường kỳ lịch sử.
Cái này gọi là Vè, Diễn ca hay Thơ không quan trọng, cốt sao hiểu và cảm được về người Nông dân. Nó gồm 10 Chương và Vĩ thanh, chừng 30 trang. Xin giới thiệu toàn văn (đã chỉnh sửa) và mong các Bạn có lòng đọc hết, cho vài lời nhận xét quý báu, để chỉnh sửa tiếp.
Trân trọng cảm ơn.
Chương 1
NÔNG DÂN THỜI HÙNG VƯƠNG
Thuở VUA HÙNG gom dân dựng nước
Dân mình đâu có được mấy mươi?
Bao la rừng rậm biển khơi
Bắt săn, hái lượm, Lúa Trời mọc lên…
Ôi, từ thuở khai Thiên lập Địa
Tổ tiên ta, rừng bể là nhà
Máu, mồ hôi trộn phù sa
Nên đồng, nên ruộng mới là NÔNG DÂN!
Lưng trần với đôi chân chai sạn
Theo Sơn Tinh, làm bạn Thuỷ Tinh
Sánh cùng thuỷ quái xăm mình
Đất, Trời, Sông, Núi… thành hình NƯỚC NON!
Cấy lúa nước như chăm con nhỏ
Nước vơi đầy, làm cỏ bỏ phân
Tháng ngày nom lúa lên xanh
Cái đòng có mẩy, hạt bông mới tròn.
Nếp Hoa vàng gạo ngon thuở ấy
Gói bánh chưng thơm bấy đến giờ
Mị Nương dâng bánh lên Vua
Trống Đồng mở hội được mùa nơi nơi…
Mai An Tiêm đội Trời ra đảo
Chim Lạc tha lúa gạo, hạt dưa…
Có người, có đất, nắng, mưa
Trái Dưa
hấu đỏ, ước mơ ngàn trùng…
Nghe tin dữ Giặc ÂN giày xéo
Bớ Nông dân!
Tay giáo, tay liềm!
Nhà nhà góp gạo thổi cơm
Nuôi quân,
nuôi GIÓNG lớn khôn phi thường!
Gióng phóng ngựa, tay vung gậy sắt
Đánh tan tành quét sạch giặc Ân
Làng mời cơm…
Gióng ăn xong
Xin bái biệt Mẹ…
Thong dong về Trời.
Giặc tan tác…
lúa chờ người gặt
Nông dân nào có được nghỉ tay
“Trông Trời trông đất trông mây
Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm”…
Từ Vua Hùng, Nông dân là thế
Vua với Dân như thể cha con
Đánh giặc gìn giữ nước non
Bố cày, Mẹ cấy, nuôi con một bầy…
Chương 2
NÔNG DÂN THỜI BÀ TRƯNG
Nước VĂN LANG Hùng Vương nối nghiệp
Dân hiền hoà, lúa nước ấm no
Một năm hai vụ Chiêm, Mùa
Răng đen, yếm thắm, hội hè xuân sang…
Dân truyền tụng Rồng, Tiên nòi giống
Mẹ ru con bống bống bang bang
Miếng trầu, tiếng hát giao duyên
THẦN NÔNG Giỗ Tổ lưu truyền dân gian…
Dân bám ruộng quanh năm cày cuốc
Ai dấy lên mấy cuộc binh đao
Nông dân nào biết đâu nào
Nước thành ÂU LẠC…
thấm bao máu người!
Nước đã nhỏ, binh đao khói lửa
Trai chiến trường…
Ruộng bỏ đất hoang
Lạ gì vua HÁN gian tham
Mấy lần Bắc thuộc lầm than mấy lần!
Giặc đâu chỉ tham lam cướp đất
Muốn dân ta phải tuyệt giống nòi
Mưu Tàu thâm mấy mươi đời
Sát phu, hiếp phụ…
bắt người tài đi!…
Ôi, lòng Mẹ khác chi biển cả
Nước mênh mang vẫn chỉ mặn mòi
Ru con chỉ tiếng ru hời
Nuôi con cơm mớm…
thành người dân ta
Dạy con nhớ, đàn gà một mẹ
Cùng anh em chớ đá lẫn nhau
Chung giàn dù bí, dù bầu
Bão bùng, mưa nắng thương nhau mới là…
Con khôn lớn, thù nhà nợ nước
Tay giáo gươm
Tay cuốc tay cày
BÀ TRƯNG kêu gọi đến ngày
Non sông giành lại về tay nước nhà!
Đuổi giặc giã…đàn bà phải đánh
Thân liễu bồ quyết gánh giang sơn
Ba năm giành lại nước non
Vẻ vang nòi giống, xứng con cái nhà!
Giặc chịu thua đàn bà đất Việt
Sử lưu truyền nỗi nhục ngàn năm
Tướng Tàu Mã Viện gian manh
Trăm mưu nghìn kế
Hãm thành.
Cướp lương…
Nhà cửa cháy, ruộng đồng xơ xác
Bãi chiến trường máu giặc bầm đen
Phải đâu vì nhát vì hèn
Giặc đông, quân mạnh, ta đành chịu thua!
Ôi, thất trận…
Bà Trưng tuẫn tiết!
Dân vẫn còn nên nước vẫn còn!
Bao lần xương chất, máu loang
Còn Nông dân lại mùa màng tốt tươi…
Chương 3
NÔNG DÂN THỜI NƯỚC TỰ CHỦ
Từ Khúc Thừa Dụ …
đến Ngô Quyền
Dân ta xây móng đắp nền nước non
Vang lừng trận Bạch Đằng Giang
Tan quân Nam Hán…
Ngô Vương cầm quyền.
Dân yên bình, ruộng nương tươi tốt
Lúa, ngô, khoai xanh mướt làng quê
Trồng dâu, dệt lụa, ươm tơ…
Nông dân ta có trăm nghề trong tay.
Ngờ đâu hoạ đến ngay trong nước!
Lũ tham quan bạo ngược, cú, diều
Thổ hào, Tù trưởng, Quan liêu…
Tranh hùng, mưu chiếm ruộng nhiều dân đông…
Trai tráng bỏ ruộng đồng sung lính
Cùng anh em đâm chém lẫn nhau
Phải chi mưu lớn, chí cao
Ghen ăn tức ở, tranh nhau bá quyền!
Ôi máu chảy ruột mềm tang tóc
Vợ ôm con, mẹ khóc bạc đầu
Quân mười hai sứ đánh nhau
Máu tuôn đỏ đất…
Ruộng màu xác xao!
Đinh Bộ Lĩnh
Trời trao sứ mệnh
Dẹp yên bề thập nhị sứ quân
Hoa Lư sừng sừng Vương Kinh
Nước Đại Cồ Việt.
Vua Đinh Tiên Hoàng!
Khẩn đất hoang, mùa màng tươi tốt
Dân làm đồng tiếng hát véo von
Đò đưa, Cò lả, Trống quân…
Mùa xong rậm rịch Hội Xuân, Hội Hè
Năm hai vụ lắng nghe Trời Đất
Con nước dâng, mưa thuận gió hoà
“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ
Nghe thấy tiếng sấm phất cờ mà lên”!
Vua Đinh mất…
Lê Hoàn kế nghiệp
Lê Đại Hành dẹp giặc ngoại xâm
Vua Hiền nhìn thấu nhân tâm
An Dân, lương đủ, đông quân sợ gì!
Mồng hai Tết Vua đi cày ruộng
Hoàng bào bay trong Lễ Tịch Điền
Vua, quan, dân chúng hàn huyên
Canh nông vi bản.
Gốc bền là Dân.
Chương 4
NÔNG DÂN VÀ BÁCH NGHỆ
Có Nông dân mới có làng có nước
Lúa, ngô xanh đồng ruộng núi non…
Loài người vẫn sẽ sống còn
Có Nông dân
với nước non ruộng đồng…
Trẻ biết sống từ trong trứng nước
Với bàn tay khối óc bẩm sinh
Thiên tài con nối cha truyền
Ruộng đồng
tre nứa…
làm nên diệu kỳ!
Ôi, mái nhà…
tranh tre với đất
Rạ với rơm
không tấc sắt nào
Rui mè, vách liếp, cột kèo
Ngàn năm dông bão
gieo neo vẫn còn!
Buông tay cấy
mẹ con kéo sợi
Bãi dâu tằm rời rợi ai chăm?
Làm ruộng thì ăn cơm nằm
Mẹ mải chăn tằm vừa đứng vừa ăn!
Đất nước mấy ngàn năm vẫn sống
Đâu chỉ là áo ấm cơm no
Ai xui tiếng hát câu hò
Tễu múa rối nước…
hội mùa, hội xuân…
Bàn tay ai xoay vần từ đất
Nên ấm, nồi, đĩa, bát, vại, chum…
Ai xui cây trúc có hồn
Tiếng đàn, tiếng sáo véo von dập dìu…
Mẹ hay kể chuyện Kiều lúc rỗi
Chị bói Kiều những nỗi xa xăm
Nông nhàn vừa đỡ tay chân
Hàng xay hàng xáo chợ gần chợ xa…
Con trâu với dân ta làm bạn
Trải ngàn năm nắng hạn mưa bay
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta”…
Ngước lên núi tưởng là Tiên cảnh
Ruộng bậc thang
lượn sóng
trập trùng
Núi cao trời rộng mông mênh
Mồ hôi ai đổ lúa xanh núi đồi?
Lúa, ngô, khoai… ai người chọn giống
Theo mùa màng, đồng ruộng, đất đai
Nghìn năm trồng thử – đúng – sai…
Sàng đi, lọc lại truyền đời cháu con.
Chiếc thuyền nan, nhà sàn, thúng mủng,
cọc Bạch Đằng, đúc súng, rèn gươm…
cũng bàn tay của Nông Dân
Đang cày, đang cuốc…
lại cầm súng, gươm!
Nào cung điện, chùa chiền, đền miếu
Truyền tay nghề vi diệu làm nên
Đắp đê, khơi rạch, xây thành
Đào hào, đắp luỹ, sức Dân vô cùng…
Dẫu trăm nghề
“Nhất Nông, nhì Sĩ”
“Phi Nông thì bất ổn” quốc gia
Nghề nào cũng có “Làng nghề”
Làm gì rồi cũng nhớ về quê hương
Ôi,
Đất nước muôn hồng nghìn tía
Vẳng trời cao tiếng sáo ngân nga…
Ôi, bàn tay của Ông Cha
Trăm nghề
từ gốc
vốn là NÔNG DÂN!
Chương 5
NÔNG DÂN THỜI PHONG KIẾN
Đất nước trải nghìn năm vua chúa
Đinh, Lý, Trần… bao thuở nhục vinh!
Triều nào rồi cũng tiêu vong
Chỉ Dân còn mãi sống cùng nước non.
Lý Thường Kiệt đem quân phá Tống
Dân nức lòng tiếng trống rền vang
Gạo ngon, lợn béo khao quân
Xứng danh Đại Việt, Vua, Dân một lòng.
Vua khuyến nông khẩn hoang, phục hóa
Giảm tức, tô thuế khoá, phu phen
Vua Hiền, khoan thứ sức Dân
Đắp đê phòng lụt…
xóm làng bình yên.
Ba lần đánh quân Nguyên tan tác
Sông Bạch Đằng xác giặc, phơi thây
“Hịch Tướng sĩ” vẫn còn đây
Đại Vương, tướng, sĩ, dân cày chung lưng…
Kế “Ngụ binh ư nông” từ ấy
Óc thiên tài, lừng lẫy Tổ tiên!
Thời bình cày cuốc, thợ thuyền
Trăm nghề đua sức làm nên mạnh giàu
Khi giặc đến,
một câu truyền hịch
Muôn xóm làng giáo mác đứng lên!
Chồng ra trận giữ nước non
Vợ bám đồng ruộng, nuôi con, giữ làng…
Nông dân ta vốn lành như đất
Vận nước cần, đứng bật vùng lên!
Quản chi hòn đạn mũi tên
No cơm, ấm áo, nước yên lại lành…
Vua là thuyền còn Dân là nước
Nước đẩy thuyền hay lật thuyền chăng?
Đem Đại nghĩa, lấy Chí nhân
thay cho cường bạo, thắng quân hung tàn!
Lời Nguyễn Trãi âm vang lịch sử
Sao cầm quyền lắm kẻ vẫn ngu?
Thời vua Quỷ, Lợn ngày xưa
Nông Dân đói khổ, loạn ly khốn cùng.
Đến vua Mạc Thái Tông thịnh trị
“Cửa không cài, không nhặt của rơi”…
Muôn dân trăm họ nơi nơi
Học hành, làm lụng, Hội vui Đình Chùa…
Lại thời loạn mấy Vua, mấy Chúa
“Đàng Trong”, “Ngoài”, còn có “Đàng Trên”
Nước non chia cắt mấy miền
Dân chia mấy ngả, chiến trường mấy phen!
Vợ gánh gạo đưa chồng ra trận
Lội bờ sông tiếng khóc nỉ non…
“Tùng tùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”…
Nguyễn Huệ đã phất cờ khởi nghĩa
Bớ Nông dân!
Quyết chí vùng lên!
Dưới cờ Hoàng đế Quang Trung
Đánh hai mươi vạn quân Thanh tan tành!
Cho chúng biết nước Nam có chủ
Đánh cho Dân ta để răng đen!
Quang Trung thống nhất giang sơn
Nước non Đại Việt đã vươn rộng dài…
Lại Nông dân chứ ai mở cõi?
Buông giáo gươm, tay cuốc tay cày
Rừng lau sậy, bãi đầm lầy
Rắn, trăn… khuất phục dưới tay của người.
Cửu Long Giang Đất – Trời bát ngát
Trộn sức người với hạt phù sa
Mới nên đồng ruộng bao la
Mới thành xóm ấp, đờn ca, mùa màng…
Dân Khmer, Bắc, Nam hay Thượng…
Máu, mồ hôi cùng nhuốm đất này
Trải bao chìm nổi, đắng cay
Hoà chung máu huyết Dân Cày nước Nam.
Chương 6
NÔNG DÂN THỜI THUỘC PHÁP
Thực dân Pháp đem quân xâm lược
Vua yếu hèn mất nước hiển nhiên!
Lại là con cháu Nông Dân
Theo quân Khởi nghĩa đánh thằng Tây lông!
Nào Cần Giuộc, Đình Phùng, Đề Thám…
Máu Nông Dân tưới đẫm đất này!
Vua quan nửa tỉnh nửa say
Nông Dân chìm nổi đọa đày “dân đen”!
Từ có Đảng dấy lên Nghệ – Tĩnh
Mơ Nga xô khởi nghĩa cướp quyền
Giáo gươm đọ với súng bom
Máu Nông Dân đẫm đường thôn, ngõ làng!
Ai cày cấy, phu phen, đóng thuế
Nuôi vua quan, một lũ thực dân
Thôi đành một cổ hai tròng
Sinh ra Bá Kiến với ông Chí Phèo!
Nông dân vẫn đói nghèo lam lũ
Sưu thuế cao mắc nợ, lại vay…
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”!
Tám mươi năm xoay vần lịch sử
Trong loạn ly, lắm sự lạ kỳ!
“Tân thế giới” rủ nhau đi
Culi, Phu mỏ, Cao su, Đồn điền…
Trồng cà phê trên miền đất đỏ
Học nuôi bò lấy sữa kiểu Tây
Ơn bác sĩ Đa Nhĩ Sâm[1]
Thực dân mà lại được dân phụng thờ!
Cụ Đồ Chiểu không đi cầu sắt
Đường cái Tây…
nó bắt dân làm!
Dân thì háo hức đi xem
Hoả xa đường sắt Tây làm tài ghê!
Có nước máy, điện về thành phố
Cầu Long Biên rực rỡ sông Hồng
Kẻ yêu, người ghét Tây lông
Thăng Long vẫn cứ như Rồng bay lên!
Dân học chữ La tinh mau biết
Có Tú tài, Đại học kiểu Tây
Luật sư, bác sĩ… từ đây
Con Nông Dân cũng có ngày ước ao…
Đời sống mới giờ sao lạ khác
Có mấy ai còn học chữ Nho
Có ông Nghị Quế làng ta
Có Xuân tóc đỏ, có bà Phó Đoan…
Ôi, Lịch sử làm sao đoán được
Phan Châu Trinh nguyện ước thiết tha
Nâng cao Trí, Khí… dân ta
Có ngày Độc lập, quốc gia mạnh giàu…
Vẫn cày ruộng con trâu đi trước
Chín phần mười dân thuộc nhà Nông
Ước mong có được Minh quân
Noi gương Nhật Bản, tự cường vươn cao!
Chương 7:
NÔNG DÂN THỜI VIỆT MINH
Giữa thời buổi loạn ly thế giới
Lúc giao thời, nạn đói khiếp kinh
Nghe tin mặt trận Việt Minh
Kêu dân vùng dậy phá xiềng thực dân!
Nông dân bỗng trào dâng như nước
Phá kho lương, lấy thóc chia nhau
Hỡi Nông dân ngẩng cao đầu
Cụ Hồ kêu gọi mau mau cướp quyền!
Dân rầm rập, thét vang, vung giáo:
“Thề phanh thây uống máu quân thù”!
Tuyên ngôn Độc lập Cụ Hồ
Dân nghe náo nức như mơ ban ngày!
Cách mạng đã đổi thay tên nước
Làng xóm ta lập tức đổi ngay!
Tên làng “Độc lập” mới oai
Xóm Trong “Dân chủ”, xóm Ngoài “Tự do”!…
Ba thứ giặc diệt cho bằng hết:
Giặc đói, rồi giặc dốt, ngoại xâm
Sáng họp hành, tối mít tinh
“I tờ” inh xóm, sân Đình “mốt hai”!…
Thực dân Pháp lại quay xâm lược
Cụ Hồ kêu giữ nước, giữ làng!
Thà rằng tất cả hy sinh
Không chịu mất nước!
Quyết giành tự do!
Ai trai tráng phải lo quyết chiến
Già, trẻ con chạy loạn tản cư
Toàn dân kháng chiến trường kỳ
“Tiêu thổ“…
Đốt phá sạch đi mặc lòng!
“Chém cha cái lũ thực dân
Vì mày bà phải mấy lần tản cư”!
Hết tiền hết gạo lại về
Hai mang ấm ớ hội tề sống chung.
Ngày cày cấy, đi phu cho địch
Việt Minh về, phục dịch đêm đêm…
Một thân nuôi cả hai bên
Ngày sợ Biệt kích…
Lo đêm Việt hùng!
Bỗng lệnh gọi: “Dân công hỏa tuyến”
Mau nuôi quân đánh trận Điện Biên!
Xay lúa, giã gạo ngày đêm
Quân ta đang đói…
đang mong từng giờ!
Chị gồng gánh, anh thồ xe đạp
Máu, mồ hôi, leo dốc, xuống đồi
Miệt mài như kiến tha mồi
Quân no…
Kéo pháo lên đồi…
nổ vang!…
Thắng Điện Biên!
Hòa bình lập lại!
Nông dân vui tay cuốc tay cày
Ruộng đồng dọn sạch thép gai
Gỡ mìn, phục hoá, khơi ngòi thuỷ nông…
Dân vẫn thuộc: “Nước, phân, cần, giống”
Tổ tiên truyền đâu dám làm ngơ
Chiêm xong lại nhớ đến mùa
Cày sâu, cuốc bẫm, phân gio trữ dành…
Ôi, những cánh đồng xanh lại hát
Lúa Chiêm mùa dào dạt hương bay
Nông dân no ấm từ đây
Xóm làng yên ả, bõ ngày thương đau.
Ai đo được tình yêu đất nước
Công, Nông, Binh, Trí thức một lòng
Thương gia, Địa chủ, Phú nông
Chung tay góp sức, chung lòng mới nên.
Có Bài ca Nông dân kháng chiến
“Không có Nông dân không thể thành công”!
Nhà giàu Địa chủ, Phú nông
Góp tiền, góp gạo, góp công càng nhiều…
Chương 8[2]
NÔNG DÂN TRONG CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
Sức Nông dân như diều gặp gió
Người giàu đang giảm tức, giảm tô
Bóng chuyền, hò hát, sòn đô…
Làng quê náo nức, được mùa ấm no…
Bỗng Đội về hô to:
“CẢI CÁCH”!
Cuộc “đấu tranh lở Đất, long Trời”:
“Người cày có ruộng đổi đời”
“Vùi địa chủ xuống muôn đời bùn đen”!
Đội bắt rễ ngày đêm Bần, Cố
Gợi căm thù, dạy đấu tố điêu
Lành như cục đất…
Một chiều…
Bỗng thành ác thú, đặt điều tố oan!
“Đây là cuộc đấu tranh giai cấp
Không xót thương!
Một mất một còn!
Anh em
cha mẹ,
vợ con
Căm thù giai cấp không còn liên quan”!
Mấy mươi năm tưởng quên khẩu hiệu
Năm 30[3] Đảng đã nêu cao:
“Giai tầng Trí – Phú – Địa – Hào”
“phải truy tận gốc, phải đào rễ lên”!
Ôi thảm cánh nghìn năm chưa thấy
Con đấu cha: “Mày biết tao không?”
Nhà kia mụ vợ đấu chồng:
“Mày đè bà hiếp, nhớ không thằng già”!
Không nhận tội nghĩa là ngoan cố
Phải đấu cho gục cổ mới thôi
Khảo tra, bỏ đói, đoạ đày
“Bóc lột, phản động”…
cho mày thành ma!
Bao địa chủ tham gia kháng chiến
Gạo nuôi quân, vàng hiến tiếc gì
Bỗng đâu cải cách bị quy
“Việt gian phản động”…
tức thì bắn ngay!
Nỗi oan khuất Đất dày Trời thẳm
Biết bao nhiêu Bà Nguyễn Thị Năm?
Sửa sai sao được chết oan?
Hồn còn ẩn khuất hàng trăm nghìn người!
Bần, cố nông vui cười hí hởn
Càng đấu hăng, càng được ruộng màu
Tịch thu “quả thực” chia nhau
Tủ chè đựng thóc, lát cầu hoành phi!
Đuổi Địa chủ ra rìa đầu xóm
Che lều tranh, kiếm sống nuôi nhau
Nồi niêu bát đĩa còn đâu
Bắt con chuột nướng, mót đầu khoai lang!…
Ôi thê thảm, xóm làng hắc ám
Người gặp người…
chẳng dám nhìn nhau!
Tưởng như người ít, ma nhiều
Nỗi oan rửa đến bao nhiêu cho vừa!
Bỗng nghe tin Cụ Hồ đứng khóc
Nhận lỗi lầm
Cải cách đã sai!
Lỗi này quy kết cho ai?
Từ trên xuống dưới đã sai cả rồi!
“Đội SỬA SAI” lại về hội họp
Thư Cụ Hồ dịu ngọt nguôi ngoai
Thôi thì chín bỏ làm mười
Tình làng, nghĩa xóm, trông người, ngẫm ta…
Chuyện sửa sai kể ra bao nỗi
Bịa, vu oan những tội kinh hoàng
Người lành bỗng hóa ác ôn
Tại sao lại bán linh hồn của ta?
Con khóc thảm gặp cha, quỳ lạy
Vợ van chồng, sám hối từ đây!
Ví như một bát nước này
Hất đi, hốt lại, có đầy được chăng?
Có người chết nay phong Liệt sĩ
Người oan sai được sửa thành phần
“Quả thực” chia cho Cố, Bần…
Trót rồi, bỏ quá, một lần “hy sinh”!
Nông dân vốn cái Tình là trọng
Lại anh em trong họ, ngoài làng
Tưởng rằng Sai.
– Sửa là xong
Ai ngờ lý lịch Đảng cầm trong tay!
“Án thành phần” còn đày đọa mãi
Bần, cố nông ưu ái trăm phần
Con nhà Địa chủ, Phú nông
Giỏi giang thì cũng “thành phần… khả nghi”!
Bần cố nông từ khi được thể
Muốn toàn dân suy nghĩ như mình
“Kẻ nào phát biểu linh tinh”
Cho đi cải tạo, nhục hình, chừa đi!
Cuộc cải cách còn di chứng mãi
CÁI Ác lên…
huỷ hoại TÍNH NGƯỜI
Đấu tố…
dòng dã chưa nguôi
Quê hương, đất nước…
thành nơi đấu trường!
Đến bao giờ không còn ÁC – ĐẤU
Người khác người nhân hậu thương nhau
Vườn hoa hương sắc muôn màu
Cùng vươn trên đất đẹp giàu Quê hương?!
Chương 9
NÔNG DÂN THỜI HỢP TÁC XÃ
Sau Cải cách mùa màng lại tốt
Bần Cố nông có được ruộng, trâu
“Ơn Bác, ơn Đảng ghi sâu
Bần Cố có Ruộng, có Trâu đổi đời”!
Mấy vụ lúa bời bời xanh tốt
Tổ đổi công, Dân trợ giúp nhau
Ai giỏi giang biết làm giàu
Được bầu Tổ trưởng, bảo nhau cùng làm…
Bỗng tin đâu ầm vang:
“HỢP TÁC”!
Cấp trên về hội họp toàn dân
Nào đồng chí Tỉnh uỷ viên
Nào là cán bộ Trung ương về làng:
“Hợp tác xã” con đường hạnh phúc
Theo Liên Xô, Trung Quốc, đổi đời
“Cầm vàng còn sợ vàng rơi
Vào Hợp tác xã đời đời ấm no”!
Nông dân vốn ngu ngơ nào biết
Bọn thanh niên háo hức xem phim:
Nông trường, Công xã Nhân dân
Máy cày, máy gặt…
Đồ ăn ngập tràn!
Đảng giải thích, Nông dân tự giác
Hai con đường chọn một, tự do:
Vào hợp tác, theo Liên Xô
Làm ăn “cá thể”… là đồ theo Tây!
Đảng, Đoàn họp thẳng tay xác quyết
“Cuộc đấu tranh một mất một còn”!
“Hợp tác phải trăm phần trăm
Đối tượng cá thể, thành phần… dẹp ngay”!
Nông dân vốn theo bầy, theo hội
Cấp trên về đã nói là nghe
Làng này, xã nọ thi đua
Góp trâu, góp ruộng, phá bờ, chia lô…
Xoá tư hữu nhà kia, nhà nọ
Ruộng, trâu bò, nông cụ của chung!
Sáng chờ tiếng kẻng, ra đồng
Tối về hội họp bình công ai nhiều…
Nhà khốn khổ, “ăn theo” mấy khẩu
Thóc theo công, ai bẩu đẻ nhiều!
Đói ăn vụng, túng làm liều
Của chung cứ trộm, bao nhiêu, sợ gì!
Cảnh cha chung ai kia muốn khóc?
Ruộng cằn khô…
Trơ xác trâu bò!
Thi đua rồi lại thi đua
Cán bộ ra tận đầu bờ thúc quân!
Đâu túm tụm là Dân bàn tán
Xã viên làm cho cán bộ xơi
“Mỗi người làm việc bằng hai
Để cho Cán bộ mua đài, sắm xe”!
“Mỗi người làm việc bằng ba
Để cho Chủ nhiệm xây nhà, xây sân”!…
Người với Đất ly thân ruồng bỏ
Lúa phạc phờ cho cỏ mọc lên
Vật vờ như kẻ vô hồn
Thấy gì cũng nghĩ…
Bỏ mồm được chăng?
Trên lại về “điều nghiên”, “cải tiến”
Chỉ đạo xây thí điểm mô hình
Nêu gương hợp tác Định Công
“Đi xem rồi mới biết ông bị lừa”!
Mò con ốc, con cua để sống
Năm phần trăm[4] mới ruộng của mình
Gặt về giấu thóc cho nhanh
Ăn mau đỡ đói…
Cất dành phòng thân!
Cuộc chiến tranh miền Nam như lửa
Hút sức người sức của toàn dân
“Thóc không được thiếu một cân
Bộ đội không được thiếu quân một người”!
Làng xóm rặt đàn bà, con gái
“Ba đảm đang”, tay cấy tay cày
Bé Khoa đã viết câu này:
“Giữa trưa tháng sáu
Nước như nấu, chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ, mẹ em xuống cấy”!…
Mong Tết đến, đêm ngày tha thiết
Được mỗi nhà một suất thịt heo
Có xương, nạc, mỡ bèo nhèo
Phân theo nhân khẩu, nhà nhiều, một cân!
“Không sợ thiếu”!
Công bằng trên hết!
Phải cân đo tí thịt, tí xương
“Diện chính sách” được ưu tiên
Thêm một miếng thịt…
Nhịn nhường cho nhau!
Lúa, ngô, khoai…
thu mua bằng hết
Cấm lưu thông…
Đuổi bắt tịch thu…
Trẻ già chỉ một ước mơ
Bao giờ được bữa cơm no, áo lành!
Phận Nông dân thôi đành nhịn mặc
Không phiếu tem, vá rách mà che
“Cha bà hợp tác hợp te
Phân cho mảnh vải không che kín l…ồn”!
Dân chất phác…
lâu dần thành tệ
Dạ dày thay cho nghĩ bằng đầu!
Tranh ăn, tranh ở, đấu nhau
Gian mạnh dối trá, còn đâu thiện lành!
Nào lý lẽ “ba năm gian khổ”
Cho “muôn đời hạnh phúc” cháu con!
Nào, “vì giải phóng miền Nam”
“Phải hợp tác xã!
Phải làm gấp đôi”!…
Ai chân thật máy môi thử hỏi:
Hưng Đạo Vương, Lê Lợi, Quang Trung,
Điện Biên lừng lẫy chiến công
Đâu cần hợp tác?
Coi chừng tù oan!
Phùng Gia Lộc, đói ăn, sắp chết
Cố gào lên tiếng thét sầu bi:
“CÁI ĐÊM HÔM ẤY ĐÊM GÌ?!”
Nói lên tất cả, còn chi phải bàn!
Chương 10
NÔNG DÂN THỜI “ĐỔI MỚI”
Đúng giữa lúc Dân tàn, nước kiệt
Chết hay là tìm cách đổi thay?
Nhớ năm Tám sáu[5] từ đây
Đảng cho “CỞI TRÓI” Dân cày một phen!
Lại nhốn nháo làng trên xóm dưới
Nhà mấy người, mấy khẩu ăn theo
Gần, xa, tốt, xấu chia đều
Nhà mấy mảnh ruộng, hùa nhau cấy cày!
Ôi, thương quá, Dân nay có ruộng
Mừng hét lên:
Đường sống đây rồi!
Vợ chồng, con cái oằn người
Thay trâu cày kéo…
mà vui nở mày!…
Đất chẳng phụ người cày người cấy
Đất với người tái hợp thương nhau
Nào ngô, khoai, sắn, đậu, rau…
Có Người có Đất, lúa, màu hồi sinh.
Chỉ hai vụ, dân mình no bụng
Đảng không còn…
“vác thúng đi xin”
Bo bo, mì hẩm… phận hèn
Vừa nhục quốc thể vừa thêm bẽ bàng!
Dân lại phải “dồn điền đổi thửa”
Bớt mún manh chia nhỏ ruộng đồng
Máy cày, máy gặt, máy bơm…
Nông dân tự sắm…
“Mình làm, mình ăn”!…
Mới dăm vụ ba năm “cởi trói”
Lúa gạo thừa, Dân gọi xuất đi…
“Đổi mới”…
Trở lại ngày xưa!
“Ơn Đảng sáng suốt”…
Dân đi đúng đường!
Nhớ năm trăm Nông trường nhà nước
Biệt tăm hơi, còn một Ba Sương
Lừng danh Giám đốc Nông trường
Anh hùng…
Bỗng bị…
chính quyền tống giam (?)
Từ Đổi mới doanh nhân bùng phát
Nhiều kẻ nhờ “cạp đất mà ăn”!
Những phường quỷ quái ma lanh
Sân sau quan chức tranh giành đất đai.
Bọn cá mập, đúng sai bất kể
Nhòm chỗ nào thấy bở là khoanh!
Chính quyền ra lệnh công an
“Thu hồi”, “giải toả” đất nhanh tức thời!
Nghìn dự án dầu sôi lửa bỏng
Trăm sân golf, giải phóng cho nhanh
Đây khu đô thị Bà Sành
Kia là Resort của anh Bảy Rằn…
Luật Đất đai “toàn dân sở hữu”
Nhưng Chính quyền là Chủ điều hành
Thương thay Dân vốn hiền lành
Mất nhà, mất đất…
khóc than thấu Trời!
Mẹ lại dặn con ơi nhớ lấy
Cướp bây giờ lắm giặc, nhiều quan
“Cướp nay có đảng, có đoàn
Có còng, có súng, công an, nhà tù”!…
Có ai thấu…
Thủ đô…
mưa rét…
Dân oan nằm la liệt vườn hoa
Đảng, Đoàn, Quốc hội, Thanh tra
Giả câm, giả điếc như là vô can!…
Nông dân vốn hiền lành chất phác
Uất tận cùng giữ đất liều thân
Mẹ con lõa thể khóc than
Có người treo cổ, người cầm giáo, gươm!
Oan ức quá sẽ bùng tự phát
Đoàn Văn Vươn liều chết giữ nhà
Lừng danh tướng Đỗ Hữu Ca
Chỉ huy “đánh đẹp”…
Tan nhà Văn Vươn!
Ecopark Văn Giang kinh khiếp
Dương Nội càng thương biết mấy mươi!
Thủ Thiêm oan khuất ngút Trời
Lộc Hưng tan tác rụng rời một đêm!…
Quên sao vụ Đồng Tâm khủng khiếp
Tranh đất đai mà giết Cụ Kình
Moi gan, mổ bụng đảng viên
Tử hình mấy án, tù giam mấy người!
Ôi, đau đớn!
Đất đai oan nghiệt!
Đất với Người một kiếp sinh ra
Người Hiền thì Đất nở hoa
Người ác thì Đất hoá ra hận thù!
Bao nhiêu đất thu mua rẻ mạt
Bao “Đại gia” đại phất từ đây
Mới hay tham lắm, mặt dày
Gieo nhân ác, sớm có ngày bại vong!
Bao nhiêu đất ruộng đồng xôi mật
Chiếm xong rồi cỏ mọc hoang vu…
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều”!
Bỏ Đất hoang phải là tội ác
Tội đọa đày cho Đất lầm than!…
“Ai ơi tấc Đất tấc vàng”
Tội này có thể xem thường được sao?
Nước muốn mạnh, ngành nào cũng trọng
Công, Nông, Thương …
biết sống cùng nhau
Hỏi vì đâu?
Cớ làm sao?
Bao nhiêu thua thiệt vận vào Nông dân?
Bao làng bản xóm thôn heo hút
Trai gái làng lũ lượt ra đi
Vạn trai xuất khẩu culi
Mấy vạn gái đẹp theo đi chồng Hàn! …
Đảng vẫn nói chủ trương chính sách:
“Dân ly nông mà bất ly hương”…
Than ôi!
Đất của Chính quyền
Dân không có đất…
Quê hương nghĩa gì!
Nhìn Thế giới không đi mà học
Bao nước làm Nông nghiệp giàu lên
Thương thay, đất nước quê hương
Ruộng đồng, sông nước…
xem thường, xem khinh!
Vua quan từ Nông dân là chính
Ơn mẹ cha một nắng hai sương
Làm quan rồi bỗng coi thường
Đất đai, đồng ruộng, quê hương của mình!?
Làm lãnh đạo coi khinh, không biết
Thương đất đai, trọng thị Dân cày
Mong chi đất nước có ngày
Giang sơn bền vững đổi thay bằng người?
VĨ THANH
Ôi, sức sống Nông dân là vậy
Từ Hùng Vương trải mấy ngàn năm
Tay này đánh giặc ngoại xâm
Tay kia cày cuốc nuôi quân, nuôi mình!
Vua Hiền biết chăm Dân là gốc
“Phi nông thì bất ổn” quốc gia
Nằm lòng kế sách Ông Cha
“Ư nông” biến hoá lại là “ngụ binh”!
Nhớ lại thuở tối tăm “Vua Lợn”
Dân đói nghèo cướp trộm như rươi!
Người thành ác thú với người…
Vua minh, Dân lại an vui thiện lành…
Đất với Người tương sinh cùng sống
Ngu, biến thành tương khắc với nhau
Đất – Trời – Người có khác đâu
Thiên thời, Địa lợi, Dân giàu, Nước hưng!
Nông nghiệp BẨN, Nông dân thành ÁC
Nông nghiệp XANH, Dân lại THIỆN LÀNH
Của ngon mình lại nuôi mình
Chăm cho nòi giống đẹp xinh, tráng cường!
Ôi, Đất nước mấy lần còn mất
Bao máu xương giữ được hôm nay
Nông dân tay súng tay cày
Nghìn năm xưa
tưởng như ngày hôm qua!
“KỶ NGUYÊN MỚI”!
Kỹ – Công – Thương nghiệp
Bung sức Dân sẽ tiến kịp người.
Ước mong…
Khấn Đất, cầu Trời
NÔNG DÂN – NÔNG NGHIỆP
đổi đời nước Nam!
30/10/2024
Tác giả đi bên phải, hướng dẫn nhà văn Đào Vũ (đầu trần) cầm bừa
trên ruộng hợp tác xã Vũ La (6/1958).
Các câu đối ở đình Mai Động (Hà Nội) bị đóng thành ghế ngồi
cho hợp tác xã. Ảnh: Nguyễn Bá Khoản, do Gs Nguyễn Huệ Chi công bố.
[2] TBT Tô Lâm nói rất đúng: Không được quên quá khứ (sự thật lịch sử), nhưng đừng để những tiêu cực của quá khứ chi phối quyết định của hôm nay.
[3] 1930.
[4] 5%
[5] 1986.