MỘT KIẾP ĐẦU THAI

Truyện

Mai An Nguyễn Anh Tuấn

Gọi tên con gái đến lần thứ ba trong hương khói mịt mù, Thông như sụm người bên nấm mộ chưa xanh cỏ với nhiều vòng hoa trắng đã héo rụi. Tấm thân vạm vỡ rung lên trong những tiếng nấc quả không tương xứng chút nào với vẻ võ biền nếu như không bất chợt lộ ra những múi mỡ đã tới thời kỳ chảy xệ trên cằm, dưới bụng khiến người ta thấy ơn ớn.

Hồi lâu như thế, khi tiếng chuông chùa thu không lơ lửng, Thông mới gượng đứng dậy, thất thểu đi vào làng.

Nhiều năm qua, Thông không về quê. Chỉ có đận này, đưa tiễn đứa con gái yêu vắn số, ông mới có dịp thăm thú họ hàng xa, gặp gỡ đôi người bạn cũ thời ngất ngưởng lưng trâu hò hét khản cổ. Những lúc đó, ông xuất hiện như một ông Thiện khổng lồ ngoài chùa, nén nỗi đau riêng để bày tỏ mối quan tâm đến sinh hoạt của cố hương- dĩ nhiên là đặc biệt chăm chú tới lĩnh vực văn hóa làng xã, do thói quen nghề nghiệp…

Một cách tuần tự, theo đúng quy trình, ông đã đi từ thư ký ủy ban lên vụ trưởng, rồi thứ trưởng của một bộ nắm giữ cả linh hồn lẫn hình thái văn hóa của toàn xã hội. Ông chẳng về quê, bởi mối dây liên hệ còn quá ít ỏi, nếu không muốn nói là chẳng còn gì – ngoài họ mạc bắn súng ca-nông mới mong tới. Mồ mả cụ kỵ, ông bà, cha mẹ, ông đã dầy công quy tập về một công viên vĩnh hằng sang trọng cách thủ đô chưa đầy 40 phút xe du lịch đời mới. Ông đưa thi hài con gái về quê là theo lời trăng trối của nó. Nhớ đến di bút con gái, ông lại tối sầm mặt mũi. Ông muốn quên đi, mà mỗi ngày chúng như càng in hằn trong tâm trí mệt mỏi hoảng loạn của ông. Và điều quái quỷ nhất là, cái khung cảnh quê hương dường đã mờ mịt sương khói trong ông chẳng hiểu sao bỗng đựơc “vén mây giữa trời”, như đựơc tắm gội bằng một thứ ánh sáng mới lạ ông chưa từng biết tới, kể cả trong thời thơ ấu…

Mấy hôm trước, đi theo đám tang con gái ông có cả một đội quân nhạc do ông mời về, khi diễu qua cổng chùa, ông chợt thấy ớn lạnh khắp người, và một luồng ánh sáng ký ức chộp xuống tựa tia chớp – lúc ông thoáng thấy đối diện chùa là một ngôi nhà cổ, ngoài cổng nằm lặng yên một con chó đá cũ. Hình như, tự thuở nào, kiếp nào xa xôi lắm, đã có một ai nói cho ông nghe về con chó đá này… Ông nghĩ suốt từ đấy ra tới nghĩa địa. Về tới Hà Nội ông cũng vắt tay lên trán nghĩ cả đêm. Nghĩ mãi không ra.

Hôm nay về quê, sau khi rời mộ con gái, Thông lại đi tới ngôi nhà nọ, như một thôi thúc bí ẩn không sao cưỡng nổi. Trong ánh chiều tà của làng quê nghèo, khi nỗi xót thương con chưa dịu lại, lần đầu tiên trong đời ông thấu hiểu thế nào là sự cô đơn và tĩnh lặng của kiếp người. Bên con chó đá hiền lành sứt sẹo phơi mưa nắng tự bao giờ đương nhấm nháp cái ánh sáng mờ mờ nhân ảnh phủ khắp thân mình, ông chợt nhớ lại rõ mồn một giọng khê nồng thuốc lào của một người đàn ông: “Nếu bất đắc dĩ mà có con đường đâm thẳng vào nhà, hay là có đền chùa ở trước nhà, thì cần phải chôn ở trước nhà một con chó đá, hoặc treo một cái gương ở trên cửa chính để yểm tà khí, một học giả đã dạy thế đấy!”.

Những ánh chớp lóe sáng tựa đèn flash của cánh nhà báo những lần ông tới hội nghị cùng bộ trưởng hay một yếu nhân nào đó. Trước mắt Thông hiện dần lên một người đàn ông khắc khổ dáng nhà nho. Ông ta xoa đầu con Mực nằm khoanh bên cạnh mình và tâm tình như với một người bạn: “Mi chỉ coi được phần dương thôi, muốn canh giữ phần âm thì ta phải ”nuôi” chó đá, hiểu chưa?”. Ngôi nhà ba gian có tường đá ong bao quanh, có cánh cửa bức bàn sao mà quen thuộc, thân thương thế! Cả dãy hàng hiên chạy suốt mặt tiền nữa, ở đó có mắc chiếc võng, trên đó, người đàn ông thường nằm đọc sách và ngâm nga những câu thơ của chính mình, bên cạnh là con Mực nằm ngoan ngoãn.

Trong căn buồng tối tăm chất đầy sách, có hai cọc sách dày bằng giấy bản toàn chữ Nho. Có lần người đàn ông lấy ra một cuốn sách, phủ nhẹ bụi khiến con Mực lúc nào cũng cuốn chân ông phải thở phì và hộc khẽ lên một tiếng như trách yêu chủ. Ông chủ biết ý, xoa đầu nó: “Thôi nào, tao xin lỗi”. Nó từng chứng kiến ông chủ thắp hương thành kính, rồi cầm một cuốn sách giấy bản ố vàng ấp lên ngực khấn khứa: “Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều…”. Qua những lời trò chuyện của con cái ông chủ với hàng xóm, Mực biết rõ lai lịch ông: ông từng tham gia bộ đội huyện, bị thương, khi hòa bình lập lại, ông được đi an dưỡng rồi chuyển ngành đi học trường Hợp tác xã Mua bán Trung ương. Đang học thì ông bị gọi về trong cuộc “Chỉnh đốn tổ chức và cải cách ruộng đất” kinh thiên động địa, bị giam lỏng tại đình để viết kiểm thảo về tội tham gia Quốc dân đảng, gia đình thuộc thành phần bóc lột. Xét cho cùng, ông chủ vẫn còn hơn ối người bị oan sai khác: bị con cái đấu tố, bị đập đầu vào tường, bị đạn muscơtông bắn phọt óc…

Những ngày đó, Mực hay chạy tới đình, ghé mắt qua chấn song gỗ tròn nhẵn bóng để nhìn trộm ông chủ thân yêu. Còn tới đêm, nhớ ông chủ, nó lại ra cổng đứng cạnh con chó đá để sủa lên những tiếng thê thiết như chó con lạc mẹ. Có khi, nó đứng đối diện với con chó đá để sủa, như sủa thi với tiếng kêu im lặng mơ hồ bị tru di tự thuở nào của chó đá…

Đến khi được minh oan, ông chủ được cử đi làm công tác sửa sai. Mực đã nghe ông ngâm một mình những bài thơ hồi bị giam lỏng, sau khi trải qua những năm tháng bị giặc khủng bố, tề hành hạ:

…Một mình trằn trọc canh chầy/ Nào ai có thấu lòng này oan khiên/ Nằm đây trải mấy tháng liền/ Nỗi lòng ai thấu ưu phiền chua cay…/ …Gậy mình đập trúng lưng mình/ Đem tình giai cấp ra tình thù ta/ Cũng nhiều kẻ thừa cơ hám lợi/ Đẩy người ngay vào tội bất trung/ Đất bằng nổi sóng đùng đùng/ Nghiến răng cam chịu nỗi lòng oan khiên/ Vì cao quá nên trên chẳng biết/ Những kẻ gần cố níu làm sai…

Ông còn làm cả thơ chữ Hán, đọc sang sảng rung mạng nhện:

Thập niên kháng chiến kỷ công lao/ Cải cách trung truy hóa địch tào/ Ư trung oan khuất thùy năng thức/ Duy hữu vì nhân tại tối cao

Rồi ông ngâm nga bài tự dịch thơ:

Mười năm kháng chiến quả công phu/ Cải cách liền ngay hóa lũ thù/ Oan này chừng có ai hay thấu/ Chỉ có cha già ở tít mù!

Những lần đọc thơ đó chỉ có Mực, không chỉ là kẻ trung thành tuyệt đối mà còn là kẻ tri âm. Rồi những điều “mục sở thị”, cùng những lời thơ Cảm hoài nghĩ cảnh bể dâu đã qua và thói đời trước mắt bằng giọng run rẩy thiếu dinh dưỡng mà thừa ảo tưởng chân thành của ông chủ giúp Mực được biết nhiều nỗi khổ nhục của gia chủ không kém kẻ bị oan sai: vợ chồng ông phải tần tảo kiếm ăn từng bữa, trong khi đó, thuế nông chỉ có ba tạ hai thì bị đánh lên năm tạ; thóc già nộp thuế bị chê non nắng, bắt đem ra phơi lại; thiếu hai lạng cũng bị bắt lấy đủ, đành cho con hớt hải chạy về nhà lấy hai lạng nếp để dành Tết ra nộp cho yên chuyện… Những ngày giáp hạt cả nhà ông méo mặt với bảy miệng ăn, chạy vạy gần xa hút chết… Nhưng sau những phiền muộn, lo âu, than vãn, lòng ông bao giờ cũng lượng cả bao dung, vẫn “Ơn Đảng, Bác trước nay là thế/ Như trời bể xiết kể cho cùng”. Ông tự khuyên mình và khuyên người “Chớ đem lòng thù oán”, mà ngược lại, “Sao bằng đoàn kết tương lân vui vầy”.

Mực cảm nhận hết được điều đó qua sự trìu mến cảm thương của chủ đối với mình. Mấy đứa trẻ nhà chủ cũng yêu quý Mực, coi Mực như một thành viên khăng khít của cái gia đình bấp bênh về sinh mệnh chính trị và kế sinh nhai song tròn đầy tình thương và đầy ắp tinh thần giáo dục cổ truyền.

Chó khôn không chê chủ nghèo. Lẽ thường là thế. Nhưng Mực còn tự hào là đã được sống trong một ngôi nhà có ông chủ mang khí phách nhà nho cao khiết, như ông từng độc thoại giữa nỗi uất hận:

Chỉ muốn nuôi dân luống đợi chờ/ Cứu dân, trừ bạo chẳng lơ mơ/ Di xú, di hương… thây những kẻ/ Ta rồi để lại mấy vần thơ…

Tiếc thay, trong một đợt đói dài sau đợt oan sai, khi đến cả thóc ranh, thóc kẹ, thóc gằn cũng chẳng còn một hạt trong nhà, con lợn nhắt phải đem cân bán, thì Mực ta cũng lả dần đi vì đói, rồi ốm chết.

Mực lại đựơc đầu thai vào một gia đình cốt cán bần cố nông…

Thông như sực tỉnh giấc mộng Kê vàng. Mới đó mà đã hơn một hoa giáp! Hóa ra, kiếp trước của ông là một con chó Mực nghèo và trung thành tại chính làng quê chôn nhau. Mắt ông bỗng cay sè, tâm hồn chấn động. Không phải vì một mối cảm động nào. Không phải vì sự nhục nhã. Không phải vì nỗi xót thương cho thân phận mình hay thân phận những người chủ tốt bụng…

Đúng hơn, chính là bởi tất cả những cái đó nhào trộn dữ dội trong chiếc cối xay thời gian không phân biệt quá khứ, vị lai, hiện tại. Cũng chính từ chiếc cối xay chẳng rõ ai phát minh, ông đã vô tình đúc rút được bài học nhân sinh cay đắng: sự trung thành cũng có khi trở thành trò cười cho thiên hạ, tệ hơn, hóa ra vô nghĩa. Tuy thế, sự trung thành gần như không pha trộn, lai tạp, đúng hơn là không suy xét của một con chó giữ nhà tựa như một tấm gương thanh khiết giúp nó nhận rõ biết bao là sự bất công, sự tương phản trong cái làng nó sống: giữa khi có những người như ông chủ ấp ủ bao điều tốt đẹp cho đồng loại, từng đổ máu cho đại nghiệp quốc gia mà luôn luôn túng thiếu nợ nần, thì lại có không ít kẻ chỉ to mồm hô khẩu hiệu, nhơn nhơn vu khống và vơ vét nhanh như chảo chớp, trong nhà lúc nào cũng thịt thà bánh trái ê hề. Con cháu họ mặt mũi hý hửng, tươi tắn, khôn lanh, không như lũ con của người chân thành ôm bồ chữ Thánh hiền và mớ lý tưởng cao siêu này, lúc nào cũng ngơ ngác vụng dại như cọng sắn khô, xanh mướt như tàu lá…

Thế rồi, như một thứ bản năng dần nâng lên thành triết lý não lòng, Thông đã hoàn toàn sống trong ký ức lộn ngược của kiếp trước. Ông đã dần biết cách tạo ra hai mặt, ba mặt, thậm chí bốn mặt của Lòng Trung Thành, ngoài ra, còn biết lấy sự trung thành của con chó để lợi dụng, làm chiêu bài hữu hiệu trong nhiều tình huống. Gió chiều nào theo chiều ấy chỉ là lối sống quê mùa. Trung thành theo kiểu bám đuôi voi hít bã mía cũng cổ lỗ rồi. Và khi đầu thai ở kiếp người, một con chó lên đẳng cấp Người cần biến sự Trung Thành hóa ra một thứ nghệ thuật siêu đẳng, thế mới bõ kiếp làm người…

Đó là những tiếng thầm thì, đúng hơn, những lời kêu gào tự đáy sâu tiềm thức suốt một cuộc đời thường trực tâm niệm “quyền lực là chiến trường” của Thông.

Thời đại học, Thông đã phát huy được tối đa lòng trung thành và bản năng đánh hơi của loài chó bằng việc hăng hái tham gia vào đội thanh niên Cờ đỏ. Thông luôn được nêu gương thành tích bắt quả tang những đôi trai gái sinh viên ôm hôn nhau ở xó tối, bụi cây; đặc biệt là sự thính nhạy phát hiện ra những bài thơ, câu thơ “có vấn đề” chép tay hoặc truyền tai, các tác phẩm văn học hay chính trị “ngoài luồng” không được đưa vào giáo trình chính thống để cúc cung báo cáo đều đặn lên chi bộ lớp, đảng bộ khoa – trường.

Chó vốn không có khả năng diễn xuất; con người cũng chỉ số ít có được khả năng này, nhưng Thông thì được trời thương, ban cho trọn vẹn. Khi có bạn học bị kiểm điểm lên bờ xuống ruộng, rồi bị đuổi vì tội lưu trữ, truyền bá văn chương nghệ thuật phản động bôi nhọ chế độ, chính Thông là người duy nhất trong cuộc gặp chia tay ôm chầm lấy người bị chính mình hại mà khóc rưng rức. Khóc thực, chứ không cần đến glyxêrin tạo nước mắt giả mà anh bạn đạo diễn của Thông sau này hay dùng (để cho khuôn mặt khi khóc đỡ méo mó phản cảm trong ống kính).

Thông còn biết cách bày tỏ lòng trung thành và năng khiếu diễn kịch trước cả chị nấu bếp, khiến bao giờ anh ta cũng được dành riêng một miếng cơm cháy chảo gang to đùng – niềm mơ ước của đa số sinh viên vào cái thời mà họ phải thực hiện tốc độ ăn tập thể bát/giây để khỏi ngất xỉu vì đói trên giảng đường.

Sau đó, Thông được cử đi thực tập sinh tại một trường đại học danh giá nước ngoài, nhờ “những thành tích xuất sắc” mà chỉ ban lãnh đạo nhà trường mới đánh giá được hết tầm quan trọng của chúng. Thời gian này, Thông bắt đầu làm thơ, như một hành động tự thưởng, hơn thế, một chuyện xả hơi. Xả hơi sau những cuộc mua bán điểm, và chạy chợ như hầu hết các lưu học sinh Việt để mong có đôi tệp đô la gài lưng phòng bị.

Nhưng khác với những “bộ đội”(1) Việt bình thường ở các chợ hàng hóa trời Tây, Thông còn chú ý “đào công sự” cho sân sau, chuẩn bị chu đáo cho những cuộc “nhảy dù” vào thế giới quyền lực sau này khi có thời cơ. Và cũng không giống các nhà thơ khác, thơ ca đối với Thông thực ra chỉ là phương tiện lăng-xê tên tuổi tốt nhất, tạo điều kiện lý tưởng đánh vào tung thâm lãnh địa của những kẻ chuyên gây rắc rối trong những “vấn đề nhạy cảm”.

Chỉ cần ông “hắt hơi” ra một bài thơ, hay chỉ một ý thơ nào đó là đã có vài nhà phê bình có số má tranh nhau viết lời bình, biết bao đàn em, nhà doanh nghiệp xoắn xuýt lấy làm vinh dự được tài trợ in thơ, tổ chức trình diễn thơ – nhạc thật hoành tráng ở những nơi mà các thi sĩ, nhạc sĩ thứ thiệt còn lâu mới dám mơ tới. Có người còn năn nỉ xin được làm phim truyện nhiều tập về cuộc đời ông, với tư cách là một nhà văn hóa thời đổi mới có đóng góp nhiều cho Đất Nước…

Sau bao cuộc chinh phạt tận tụy thậm chí “bảo hoàng hơn vua” vì sự nghiệp làm trong sạch tư tưởng xã hội, Thông đã đựơc hưởng hầu hết những gì có được: tiền tài, danh vọng, biệt thự, xe Lexus, những chuyến công du – hội thảo xuyên châu Âu, châu Mỹ, hàm giáo sư, bằng tiến sĩ. Lũ đàn em trung thành còn đang mở chiến dịch để Thông được phong danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân… Mọi chuyện đều đang hanh thông, suôn sẻ, mọi con đường tới đích dều đang rộng mở với Thông.

Nhưng, ở đời có ai học được chữ ngờ!

Trong những ngày cả xã hội như một cơn bão lớn tích tụ hàng triệu nỗi lo âu, sợ hãi, tức tối, căm giận trước thảm cảnh cá chết biển chết khắp miền Trung, có một nhà báo trẻ cùng một nhóm các nhà báo, kỹ sư, luật sư, MC, nghệ sĩ trẻ dựng lên cái gọi là “Diễn đàn Tìm sự thật cá chết”. Đúng là lũ ngựa non háu đá, thích chơi trèo bằng cách tự khẳng định mình nhưng lại làm tổn hại lợi ích quốc gia mà không hề biết! Chúng bây cần phải được dạy một bài học về sự lễ độ, sẽ phải lao đao suốt đời vì đã không tuân thủ thứ đạo đức nghề nghiệp đã trở thành nguyên lý từ bao lâu nay…

Thông bí mật chỉ đạo chiến dịch truy quét, trừng phạt bọn trẻ ranh liều mạng vuốt râu hùm kia. Đó là bài bản nghề nghiệp quá thành thạo của Thông. Dĩ nhiên, Thông chẳng ra mặt. Chỉ cần Thông vạch ra vài cái ý cơ bản, sẽ có lũ lâu la răm rắp thực hiện với “hệ thống lý luận” vững chãi, trên cơ sở tung hỏa mù bằng tất cả những thứ thuộc về thời thượng: phản biện- ngụy biện, tự do- dân chủ, tương tác truyền thông- hiệu ứng cánh bướm…

Chỉ sau hai ngày, nhanh như tên lửa trong cái xứ sở mà cái gì cũng chậm hơn rùa, một chiến dịch đã được tung ra trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thông chỉ cần ngồi nhà bật laptop, nhâm nhi ly Napoleon thượng thặng mà khoái chí rung đùi, vuốt cằm (chỉ tiếc là Thông chẳng có sợi râu nào).

Bỗng một Status đập vào mắt Thông: “Này, ông Lý Thông! Chúng tôi biết là trong chiến dịch tồi tệ này, ông là người đứng sau múa gậy chỉ đạo. Chính ông và cả gia đình cũng đang bị đe dọa bởi một cái chết từ từ, thầm lặng nhưng khốc liệt đang treo trên đầu cả dân tộc, thế mà ông chưa tỉnh ngộ, còn giơ bàn tay dính máu để đàn áp những thanh niên yêu nước bằng những chữ nghĩa cũng nhơ bẩn như tâm hồn ông. Thất vọng về ông quá! Đau xót vì những người có quyền lực như ông quá!”.

Thông ném mạnh cái ly xuống đất, gầm lên, song tiếng gầm lại trở nên the thé, tựa tiếng sủa của một con chó cưng quý tộc chỉ quen được vuốt ve chứ chưa bị mắng mỏ roi vọt bao giờ. Thông lập bập mở di động, rồi gào cho một đàn em luôn túc trực chờ lệnh: “Mày… Mày… Truy tìm ngay cái fây-búc có nic-nêm NTL! Nhanh… lên!”.

Chỉ mấy ngày sau, Status đó đã tràn ngập thế giới phẳng, và chiến dịch do Thông khởi xướng, chỉ đạo có tên mới do đám đông đặt cho: Chiến dịch Lý Thông. Tên tuổi ông nổi như cồn, và lượng “đá” ném vào cái tên ấy có lẽ đủ xây đươc mấy cái lâu đài.

Yến, con gái út của Thông đang chuẩn bị thi tốt nghiệp phổ thông trung học. Cô nữ sinh trở thành nạn nhân khốn khổ trước những cái nhìn chế diễu và những lời xì xầm cố tình nói to của bạn bè: “Này, bộ phim Lý Thông hãm hại Thạch Sanh đời mới bao giờ lên sóng?”. “Cạch nó ra kẻo phỏng. Bố nó đang gắp lửa bỏ tay người đấy”. “Thế ra lớp mình có hậu duệ của Gia-Ve và Lý Thông à?”…

Bọn trẻ thời nay, dù có bị “bịt mắt bắt dê” để nhồi sọ bao điều ngớ ngẩn, hay bị lôi cuốn bằng đủ thứ kiểu “tinh thần thể dục” của Nguyễn Công Hoan, cũng đã bắt đầu quan tâm đến thời cuộc theo cách cốt lõi nhất có thể, chứ không theo định hướng của thầy cô và cha mẹ nữa.

Nhưng bọn trẻ của cái lớp 12A đó không ngờ rằng, cùng với dư luận xã hội, chúng đã vô tình phạm một tội ác, đẩy Yến đến cái chết tức tưởi, thảm thương. Cô bé không chịu đựng nổi hàng trăm mũi dùi chĩa vào mình, và cũng không thể chấp nhận nổi cha mình lại là kẻ như thế. Cô tìm đến sự giải thoát tiêu cực như hầu hết những người tự trọng và yếu đuối… Ước nguyện cuối cùng của cô rất nhỏ bé: “Xin bố mẹ tha lỗi cho con. Con không thể chịu đựng nổi nữa. Bố đã làm gì để cả xã hội lên án, căm ghét như thế? Chắc bố cho rằng mình có lý do chính đáng của mình. Nhưng con lại thấy những người lên án bố có lý hơn, cái lý của cả một cộng đồng đang bị xâm phạm… Vĩnh biệt bố mẹ. Xin bố mẹ hãy đưa con về quê, con muốn được ở nơi bình yên thân thiết đó… Con gái bất hạnh của bố mẹ “.

Mẹ Yến gần phát điên, gào thét, cào cấu chồng kịch liệt. Còn Thông dìm mình vào rượu để mong làm dịu vết đâm tử thương mà ý thức duy nhất còn hiện lên được là: “Trời ơi, có đúng là ta bị quả báo rồi sao?”.

Thông định rời con chó đá, ra mộ con gái để tâm sự, thành khẩn tạ lỗi với nó. Nhưng đôi chân ông đã trở nên nặng trịch. Không hề có giọt rượu nào nhưng sao tâm trí ông lại quay cuồng, điên đảo. Bỗng dưng, ông cảm nhận được tận cùng cái mát lạnh của nền đất nện quen thuộc ngày xưa… Bất chợt văng vẳng bên tai ông mấy câu hoài cảm của ông chủ cựu binh – nho gia: “Di xú, di hương… thây những kẻ/ Ta rồi để lại mấy vần thơ”. Rồi, như hầu hết những người Việt thực sự xưa – nay vào lúc hệ trọng hay nguy nan nhất, ông bất giác hướng tâm về đức Phật: “Cầu xin đức Phật, cho con trở lại làm kiếp con Mực ngày xưa… Một kiếp bình an, dù bần hàn song thanh thản, không có thù hằn, đố kỵ, với lòng trung thành nguyên thủy nâng đỡ cho hồn người…”.

Dường như đấng cao xanh cũng thấu hiểu được ước nguyện chân thành nhất của Thông. Toàn thân ông dần biến hóa thành con chó đá. Chỉ có điều, nó không mang hình dạng của con chó đá cũ, mà tạc vào không gian là một con chó sói đang căng mình lên, nhe nanh uất hận tru về nơi hoang dã…

Các ngôi chùa Việt thường có hai tượng hộ pháp Kim cương Thiện – Ác. Tại một ngôi nhà cổ bình dị ở một làng quê vốn nghèo xơ xác và đang kiệt quệ kia, giờ đây đang hiện diện hai con chó đá cũng mang biểu tượng Thiện – Ác để bảo vệ phần âm đức và mong răn dạy cho người đời chút bài học về Tình thương và Ân nghĩa đang mất dần đi.

Hà Nội, cuối tháng 6/2016

____________

1. Tiếng lóng chỉ những người Việt từng lăn lóc buôn bán ở các chợ tại các nước Đông Âu, Liên Xô (cũ)

Comments are closed.