Văn học miền Nam 54-75 (197): Quách Tấn (5)

 

Trích tập Giọt trăng (1966-1972)

TIẾNG NGÂN

Chùa ẩn non mây trắng
Bóng in hồ liễu xanh
Mai chiều chuông đã tạnh
Vòng sóng còn long lanh.


 

 

 CÀNH THƠM

Cành sương thơm sắc lá
Nắng đọng lòng chim ca
Nghìn trước thu đương trái
Nghìn sau xuân đã hoa.


 

 

 

 BÊN AO

Ao phù dung rụng thắm
Nước gợn vòng âm thanh
Nhớ nhau ngoài vạn dặm
Chiều xuống biếc long lanh.
 

 

 

TIẾNG VÀNG KHÔ

Lá rơi thềm đá lạnh
Ngân nhẹ tiếng vàng khô
Không trời sương bến quạnh
Đêm ngấm sầu Cô Tô.
 


 

 TIẾNG ĐỊCH HOÀNG HÔN

Đồi cao buông tiếng địch
Bóng tháp ngập hoàng hôn
Ông lão dừng tay sách
Hiu hiu buồn cuối thôn.
 


 

NƯƠNG GỐI
(Tặng M.D.)

Đêm nhớ lời hẹn ước
Nương gối đợi chờ nhau
Trời sáng lòng không biết
Cành sương hương thấm châu.
 


 

LÒNG GIẾNG THẲM
(Tặng Thi Vũ)

Trưa vàng thơm ánh nắng
Trên màu hoa nở thu
In sâu lòng giếng thẳm
Muôn nghìn xuân thâm u.
 

 

HOA NỞ TRẮNG

Sân lài hoa nở trắng
Tiếng dế dịu dàng sương
Man mác nghìn xưa đọng
Cành trăng đôi bóng hương.
 
 


BÓNG TRỜI XƯA
(Tặng C.T.)

Đôi hồ thu ngậm biếc
Thăm thẳm bóng trời xưa
Cánh bướm bờ hương động
Hàng dương giọt nắng trưa.
 

 

 

SONG CHIỀU

Mười ba năm cách trở
Không hẹn về thăm nhau
Song chiều thơ thẩn đợi
Đêm xuống lạnh tàu cau.
 
 

 

SAY NẮNG

Vườn rộng tiếng chim thưa
Bướm vàng say nắng trưa
Chờn vờn chân muốn đậu
Vòi mướp gió đong đưa.
 



BÊN GIÀN MƯỚP

Lặng xem giàn phí thúy
Lần trải nắng huỳnh kim
Lòng không phân chân ngụy
Ngàn xa đôi tiếng chim.
 
 


TRONG SƯƠNG
(Tặng P. H. C.)

Sương lá vọng lời kinh
Thương thân ai thân mình
Sụt sùi hoa khế rụng
Đêm rựng ánh bình minh.
 


 

TÌNH HOA

Thương hoa không nỡ hái
Hoa rụng lòng thêm thương
Vén cỏ chiêu hồn lại
Ngàn xanh hiu gió sương.
 
 


LÒNG THIÊN CỔ

Giũ áo vào hư không
Nghìn xưa phai nét chữ
Song khuya ngọn sáp hồng
Giọt ứa dòng tâm sự.
 
 

 

CHÉP THƠ

Thơ không người thưởng thức
Mình chép riêng mình ngâm
Con bướm tìm hương lại
Vô tâm mà hữu tâm.
 


 

KHUYA VẮNG

Thu lạnh mướp tàn hoa
Vườn không ong bướm qua
Song khuya ngồi xếp sách
Sương lóng giọt trăng tà.
 


 

TÌNH PHONG LAN

Án bút nở vân hài
Bình minh xuân láng lai
Sáo đâu ngoài vạn dặm
Tình đọng giấc liêu trai.
 

 

 

MÀU QUÊ
(Gởi Thi Vũ)

Mong ấm lòng tri kỷ
Xa xôi trời cố hương
Màu quê thân áo vải
Gói ghém niềm yêu đương.
 

MÃI CÒN

Hoa quỳnh sống nửa đêm
Hoa phù dung một buổi
Nghìn trước tiếp nghìn sau
Mắt nhìn nhau một tối.
 
 
 

AO TRƯA

Bờ ao cộng cỏ chỉ
Lả lướt ngọn nồm đưa
Con chuồn chuồn điểm nước
Mong dừng chân nghỉ trưa.
 

 

MONG ĐỢI
(Tặng Kiến Đạo)

Ngọt ngào xuân rụng móc
Cam chuối đượm tình quê
Tựa cửa chờ trăng mọc
Muôn xa lòng ghé về.
  

 

 

BA HỮU LỆ

Được quyền sống nhung lụa
Nghĩ gì thân gió sương
Riêng ai tình đất nước
Âm thầm dâng máu xương.
 


 

KHÓC CON (II)

Thương con không dám khóc
Sợ rắc thêm đau buồn
Ôm sách nằm chăm đọc
Âm thầm giọt lệ tuôn.
 


 

KHÓC CON (III)

Mừng tre già măng mọc
Ai ngờ tre khóc măng
Nuốt lệ nhìn di ảnh
Đêm hè cơn gió băng.
 


 

KHÓC CON (IV)

Không nói, lòng đau khổ
Nói, không nói được gì
Canh tàn nằm nuốt lệ
Thời loạn kiếp nam nhi.
 

 

 

SÂN TRƯA

Đìu hiu sân bệnh viện
Cành liễu gió đong đưa
Thương bướm bay tìm mộng
Hoa sứ vàng nở trưa.
 
 


DỪNG TAY BÚT

Hiên mận dừng tay bút
Chiều rơi chiếc lá khô
Ngõ ngoài xe ngựa vắng
Sóng sánh nước hồ thu.
 


 

MÁI ĐỜI

Thân trải vòng hoa giáp
Lòng thơ quên tuổi già
Mái đời đeo thói bạc
Ghi dấu thời gian qua.
 



THÁO KÍNH

Nghìn xưa trang giấy lật
Hiu hắt ngọn hàn đăng
Tháo kính ra thềm đứng
Cành rơi đôi giọt trăng.
 


 

ĐẮP MỘ

Vốn biết lẽ vô thường
Khôn ngăn lòng nhớ thương
Mồ xanh vun nấm cỏ
Ấp ủ tình quê hương.

 

Comments are closed.