Tạp bút Nam Dao
Mỗi buổi chuyển mùa, nhất là lúc chớm Xuân, tôi cảm nghiệm được những giây phút huyền nhiệm khi bắt gặp loài hoa crocus. Cuối Đông, crocus nhụy vàng, cánh phơn phớt xanh, trồi ra từ thảm tuyết chưa chịu tan. Thời gian đó trời không còn lạnh lắm, nắng tươi vàng đã rực rỡ bám vào những cành cây còn trơ trụi lá. Sự sống vận hành sau năm, sáu tháng Đông buốt giá. Hoa crocus báo tin mầm sống bung ra, mãnh liệt, bất chấp… nhưng chỉ sống được dăm ngày phù du, rồi nhường chỗ cho những loài thảo mộc khác đâm chồi nẩy lộc. Mùa Xuân nơi tôi sống là khi tuyết tan, đường phố lầy lội bùn, con người ai nấy mong Xuân qua mau cho Hè tới. Và tôi, nếu được đấng Cao Xanh cho thêm một kiếp người, tôi mong sẽ trải nghiệm sự huyền diệu hòa cả thân lẫn tâm vào “Thế giới phun trào như nước chảy trong thân. Cây cối rộ hoa trên cơ thể” (Tagore).
Rời đất Bắc ở độ tám, chín tuổi, tôi di cư vào Nam chưa kịp mang theo nhiều kỷ niệm Tết. Nhưng nhớ nhất, tôi chỉ còn nhớ những cơn mưa. Mưa bụi, mưa nhẹ hồ không có thực, là những hạt bụi nước chưa kịp đậu lại đã tan biến đi như trong những chuyện hoang sơ cổ tích có Thạch Sanh có Lý Thông. Mưa phùn, rả rích, ngày qua ngày mênh mang, mưa cứ mưa như hành phạt loài người trong thảm kịch Tấm với Cám, loay hoay trong những chiếc áo mưa kết bằng rơm ở thôn quê, hay làm bằng nhựa plát-xtích đùng đục những con mắt vô hồn trong thành phố.
Thời đó, gia đình tôi ở Hải Phòng, phố Chevassieu, tên phố sặc mùi thuộc địa. Cứ vào đêm Giao Thừa, bọn con nít chúng tôi đứa nào đứa nấy sẽ bị một trận đòn Tất Niên, đánh xả xui năm cũ để cả nhà đón “năm mới cái gì cũng mới”. Sợ đòn, tôi lỉnh ra đường, và khi pháo nổ râm ran đường phố thì tôi lấm lét về nhà. Lạ, ông bà bô đón tôi, cười nói hân hoan. Sợ rớt ngày Tân Niên, cả nhà phải vui, và chúc tụng tôi là kẻ xông nhà năm mới. Năm sau thì truyền thống đòn Tất Niên đành phài quên. Những người xông nhà sau đó đều là những người có tuổi, áo quần trịnh trọng, thường thì ôm một cành đào mừng Xuân, và chẳng một ai bị lột quần đánh vào đít như bọn con nít.
Sau di cư vào Sài Gòn là những năm dài tha hương, phải trên ba mươi năm sau tôi mới được xáp gần một cái Tết phương Bắc ở ngay thủ đô Hà Nội. Vào độ Giao Thừa năm Dậu cách đây ba con giáp, tôi sắp về Sài Gòn nên có thời gian là tôi la cà với mấy ông anh Nhân Văn Giai Phẩm. Sáng sáng, cứ khoàng 5 giờ, tôi đến Hải Thượng Lãn Ông, ới Lê Đạt rủ anh cùng cuốc bộ đúng sáu vòng hồ Hoàn Kiếm. Trưa trưa, tôi đến quán nước chè ngõ Phan Huy Chú, im ắng ngắm Trần Dần, con cọp ngày đang ngồi rình một tứ thơ. Tối tối, tôi la cà quán rượu Hoàng Cầm ở 43 Lý Quốc Sư, con phố kề cạnh Nhà Thờ, uống dăm chén rượu mơ, lẳng lặng đắm mình nghe chuyện Quan Đốc Đồng áo đen nẹp đỏ, thả Tượng vàng cưới Chị võng mây trôi… Ấy, cái tật lỉnh đi hoang từ thời thơ dại tôi vẫn không chừa, mặc dầu nay không phải không còn những trận đòn Tất Niên của thế quyền trong cơn còn mê muội. Bạn bè thời nay đều khẩn khoản lưu ý, các anh ấy đều là những người có vấn đề. Tôi mặc, thời bình rồi, cái cần làm là xây dựng lại đất nước từ những đổ vỡ thời chiến. Ôi chao, một thời tàn khốc!
Chuyện về các anh ấy tôi đã kể trong tập bút ký Những con người những bóng ma[1]. Trong số các anh, tôi nói rất ít về Đặng Đình Hưng. Không trong nhóm chủ trương Nhân Văn và Giai Phẩm, anh vẫn bị “liên quan” vì anh không phủ nhận tình bạn của anh với những người “có vấn đề”. Anh cũng bị trù dập, cũng phải đi “học” và “lao động cải tạo” để quán triệt tính giai cấp trong xã hội công nông vào giữa những năm 1950.
Anh Hưng ở khu Trung Tự, hơi xa trung tâm Hà Nội nên tôi ít dịp đến anh chơi. Tường trong căn hộ chưa được năm mươi mét vuông của anh dán những bài thơ anh viết bằng chữ đại tự, và ôi chao, thật bất ngờ, thơ anh lạ lùng. Phải nói, thơ anh khi đó chẳng giống một ai, âm điệu nhạc jazz tràn đầy, chất văn xuôi trí tuệ mà vẫn ăm ắp cảm tính. Anh chép tặng tôi:
Và lạ miệng! tìm bàn chân xào xạo của Têta,
Thì ra Alfa là con số đợi ở hai vai nở vội
Tôi đuổi theo níu lại hai mùa
Rồi anh đèo thêm một vế với ký hiệu = trong Toán học[2]: Thanh Xuân = Hạnh Phúc.
Thời đó, năm 1981, tôi nào biết những câu thơ trên sau nằm trong tập Bến Lạ in sau khi anh lìa trần vào năm 1990[3]. Nhưng tôi biết là thơ anh hay, và thật khác lạ với cái ngân nga vần điệu xã hội chủ nghĩa khá nhàm. Anh trầm, thường khép kín, và chỉ thi thoảng mới “bốc” lên với những người thật thân.
Vào ngày ông Táo lên chầu Trời năm Dậu, anh bỗng không hẹn mà đến tìm tôi một buổi chiều chạng vạng. Anh bảo, chú đi với anh, rồi lôi tôi đến cạnh một chiếc xích lô kiểu xe ba-gác ngày xưa. Sau khi lên ngồi, anh chỉ tay về phía ga Hàng Cỏ. Thời đó, cứ tối trời là Hà Nội mất điện. Trên con phố Trần Hưng Đạo, những người đàn bà luống tuổi bán thuốc lá lẻ đã châm những ngọn đèn Hoa Kỳ le lói chút nửa tối nửa sáng vàng ệnh soi tỏ lề đường. Anh bảo người đạp xe đi về phía Khâm Thiên, và khi đi ngang nơi còn trưng bày một cái xác máy bay Mỹ-Ngụy trong đám lổn nhổn gạch đá, anh thở dài, chép miệng. Gần đê sông Hồng, gió đông thốc cái lạnh buốt đến thấu xương. Anh ngửng mặt, buông thõng “Thôi ta về”. Và anh cười, giọng hào sảng “Cháu Sơn mới qua vòng ba kỳ thi giải Chopin bên Nga đấy[4]!”. Bóng ma chiến tranh mới đây chợt biến mất. Chỉ còn anh, với ánh mắt long lanh ánh lửa tương lai trong màn đêm đang ụp xuống vạn vật.
Đó là lần cuối chúng tôi gặp nhau. Vào Sài Gòn chỉ dăm bữa sau Tết, tôi được Hoàng Cầm báo chớ mang tập Về Kinh Bắc đi ra ngoài, anh đang gặp khó ở Hà Nội! Khi tôi qua đến Paris thì Cầm bị bắt. Tội anh là bán rượu lậu, như tội dưới thời Tây thuộc địa.
Nhẩm lại, anh đã bán những cút rượu ngâm mơ từ hàng chục năm nay, kể từ khi anh không còn lòng dạ nào để tiếp tục ngâm Đêm Liên Hoan cơ mà! Mơ ngâm rượu thành thơ là tội, và là tội nặng?
Phần mình, từ 1982 cho đến sáu năm sau, tôi bị cấm cản về quê hương gốc gác mình. Đến năm 1990, năm anh Hưng vĩnh viễn xa đi, tôi về đến Nội Bài thì được thế quyền “mời” đi, và đi luôn cho đến gần chục năm sau. Tôi nhớ những ngày chua xót nằm dài ở Thái Lan đợi máy bay để bay trở lại Bắc Mỹ. Nhớ sao là nhớ màu hoa phượng đỏ rừng rực thuở đầu hè. Và nhớ nhất là màu tương lai, như sức trồi loài hoa crocus mỗi năm thuở chớm xuân. Hoa nhụy vàng cánh trắng phơn phớt ánh lân tinh trổ ra xuyên tuyết.
Những mùa đông rồi sẽ bị đẩy lùi trong thuở chuyển mùa của vạn vật.
[1] Thi Văn tái bản 2015, CreateSpaceeStore: https://www.createspace.com/5778128
[2] Đặng Đình Hưng là bào huynh của GS Toán Đặng Đình Áng trong miền Nam trước những năm 1970. Có thể vì thế anh Hưng sử dụng những alpha, bêta, gamma… là những ký hiệu chữ Hy Lạp khá thông dụng trong Toán học và Khoa học.
[3] Đặng Đình Hưng sinh 9-3-1924 tại làng Thụy Dương, huyện Chương Mỹ, Hà Đông. Mất 21-12-1990 tại Hà Nội. Bắt đầu làm thơ từ cuối những năm 1950, đến khi qua đời , nhà hoạt động nghệ thuật Đặng Đình Hưng để lại tất cả 6 tập thơ. Tất cả đều chưa từng công bố rộng rãi, song một vài đoạn trích được in trên các báo vào dịp ông qua đời khiến công chúng thơ sửng sốt vì một tính cách thơ, một thi pháp hết sức độc đáo.
Bến Lạ là tập thơ tác giả viết trên giường bệnh lúc ông bước vào tuổi 60. Từ không gian chật chội cầm tù thân xác: Tôi cứ đi… jữa cái nong hình dáng lưng tôi…, ông hành hương vào thế giới vô tận của nội tâm. (NXB VănNghệ, tphcm, 1991).
[4] Nghệ sĩ dương cầm Đặng Thái Sơn là con trai Đặng Đình Hưng, thời đó đang học ở Liên Xô. Và sau đã đoạt giải Chopin 1982.