Dòng nhạc kỷ niệm với nhạc cũ Miền Nam (kỳ 174): Từ Công Phụng: Lời Cuối

T.Vấn & Bạn Hữu thực hiện (2021)

clip_image001

clip_image002

clip_image003

clip_image004

Lời Cuối – Sáng tác: Từ Công Phụng

Trình bày: Từ Công Phụng

Đọc thêm:

Từ Công Phụng, phát ngôn nhân tình yêu của tuổi trẻ miền Nam

Du Tử Lê

Một trong những nét đặc thù của sinh hoạt tân nhạc miền Nam, 20 năm, theo tôi là sự xuất hiện, như những mảnh đất tân-bồi-nghệ-thuật của lớp nhạc sĩ trẻ, thuộc thế hệ thứ hai – – Những người sinh trong khoảng 1940.
Ảnh hưởng từ những thành tựu văn chương mang ý nghĩa dứt khoát bước ra khỏi vạch phấn tiền chiến; nỗ lực đoạn tuyệt mọi diễn tả có tính khuôn sáo, đã khô cứng, đã cliché; lớp nhạc sĩ trẻ, thuộc thế hệ thứ hai, ở miền Nam, cũng cho thấy sự thành công huy hoắc của họ – – Nhất là lãnh vực tình ca, với những ca từ mà, người thưởng ngoạn khó tìm thấy nơi những tình khúc thời tiền chiến.
Theo nhạc sĩ Cung Tiến, Việt nam không có âm nhạc thuần tuý, hiểu theo nghĩa nhạc không lời mà, chúng ta chỉ có những ca khúc. Cho nên ca từ của một ca khúc trở thành linh hồn, yếu tố quyết định giá trị, sự tồn tại của ca khúc ấy.
Nói về ảnh hưởng của thi ca đối với âm nhạc miền Nam 20 năm trước đây, một lần, đã lâu, nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang cũng đồng ý rằng, nhờ những đổi mới tích cực của thi ca mà, ca từ của tân nhạc đã có những chuyển biến đáng kể. Tôi vẫn nghĩ, nếu không có những cuộc "cách mạng" chữ, nghĩa một cách táo bạo của một số thi sĩ ở cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960, đưa thi ca miền Nam tới những biển, trời chói chan cảm thức mới – – Để sau đó, âm nhạc được chắp cánh, bay tới những biên cương tự do phơi phới; thì, không ai có thể đoán biết, bao giờ tình ca miền Nam mới đoạn tuyệt được tang cây, bóng lớn của tình khúc tiền chiến.
Một trong những thi sĩ có công làm cuộc cách mạng khá rốt ráo ở lãnh vực chữ, nghĩa với thể so sánh và liên tưởng, theo tôi, là Nguyên Sa. Một Nguyên Sa, thơ tình, với những câu thơ như "Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm / như con mèo ngái ngủ trên tay anh / đôi mắt cá ươn sắp sửa se mình / để anh giận sao chả là nước biển!…" trong bài "Nga". Hoặc "…Nụ cười mềm như ánh nắng của cuộc chia ly / của một buổi sáng mai khi những người phu đổ rác bắt đầu đi / những thùng rác bắt đầu cọ vào nhau / với những tiếng kêu của một loài sắt lạnh / như những tiếng kêu của những chiếc đinh khô, những mình búa rắn..." trong bài "Paris". (1)
Ngay cả câu thơ (như lời tiên tri về định mệnh chính mình,) của nhà thơ Quách Thoại, trước khi mất: "Rưng rưng mùa hoa gạo / lỡ một mai tôi chết trần truồng không cơm áo"; (2) cùng một số nhà thơ khác, tất cả, cộng lại, đã làm thành những nhát rìu phá tung nhiều ngục tù ngôn ngữ sáo mòn từ tiền chiến.
Trước Nguyên Sa, tôi không thấy ai đem người yêu của mình so sánh với "chó / mèo"! Đôi mắt của người yêu khi hờn dỗi, được ông ví von với "đôi mắt cá ươn"! Cũng trước ông, tôi chưa thấy ai đem những "người phu đổ rác," "những thùng rác," những "đinh", những "búa" ra làm nhân chứng cho cuộc chia tay giữa hai người yêu nhau. Trước Quách Thoại, tôi cũng chưa thấy ai mang vào trong thơ họ, cụm từ "chết trần truồng không cơm áo"… Lý do? Rất dễ hiểu: Đó là những hình ảnh không…thơ. Không đẹp theo quan niệm thi ca cũ. Một khi những hình ảnh được coi là không…thơ, không đẹp…vốn hiếm thấy xuất hiện trong dòng thơ tình thời tiền chiến; thì, người ta sẽ càng khó tìm thấy chúng hơn nữa, trong những tình khúc cùng thời điểm.
Nhìn lại ca từ những tình khúc tiền chiến, ngay giai đoạn cực thịnh của phong trào lãng mạn, khi nói tới người nữ, người ta chỉ thấy những những mô tả chung chung, mờ nhạt, không cá tính. Vì thế, các nhạc sĩ thường bị "đụng hàng" khi so sánh người yêu của họ, một cách ước lệ như: "Em hay nàng" đẹp như…tranh! "Em hay nàng" đẹp như…thơ! Cụ thể hơn một chút thì, họ ví nhan sắc người nữ đẹp như trăng, như sao, như hoa tươi, như nắng sớm… Nghĩa là những so sánh, những ví von rất mơ hồ. Rất "huề vốn"!
Lại nữa, khi mô tả dung nhan người yêu, đa số các nhạc sĩ chú tâm vào vài điểm không…hiểm hóc, như tóc, môi, mắt. Do đó, chúng ta có hàng loạt tóc mây, tóc thề, tóc (dài như) suối. Về đôi mắt người nữ, thì chúng ta cũng có hàng loạt mắt buồn, mắt hồ thu, hay mắt…mơ huyền. Còn môi thì chúng ta có môi tiên nữ, môi thắm, môi son, môi quyến rũ… Làm như dung nhan hay thân thể phụ nữ, chỉ có mấy điểm đó đáng ca ngợi. Ngoại giả, những phần còn lại đều…xấu! Phải quên đi! Không nên nhắc tới! Trong khi thực tế, từ lâu, đa số đã "đồng thuận" với nhau rằng: Nét đẹp, sự quyến rũ tự nhiên của bộ ngực, vòng eo, tay, chân, dáng đi của người phụ nữ… là những gì ta không dễ…"nhắm mắt. Bỏ qua!" Tuy nhiên, ở thế hệ nhạc sĩ thứ hai của 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam, lãnh vực tình khúc, những giới hạn hay, những uý kỵ kể trên, đã được vượt qua.
Lần đầu tiên, giới thưởng ngoạn gặp được trong tình ca của các nhạc sĩ lớp tân- bồi-âm-nhạc này, nhiều hình ảnh mới, lạ bất ngờ, như "Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau", trong tình khúc Trịnh Công Sơn – – Như "Em rơi vào đời tôi / tình yêu em khôn lớn trong dịu dàng" Hoặc "Giòng sông đang thì thầm trong tóc những khúc nhạc tình" trong các ca khúc nhan đề "Như ngọn buồn rơi" và, "Tình tự mùa xuân" của họ Từ.
Trước Trịnh Công Sơn, tôi không thấy nhạc sĩ nào nhân cách hoá "sỏi đá" để nói lên khao khát có nhau của đôi lứa. Trước Từ Công Phụng, tôi cũng chưa thấy một nhạc sĩ nào "vật thể hoá" người yêu khi ông dùng động tự "rơi" hoặc, nhân cách hoá dòng sông, để dòng sông có thể "thì thầm" trong tóc. Và, nếu tình khúc tiền chiến chỉ ghi nhận hình ảnh người nữ từ đầu tới cổ thì, qua một vài bài thơ phổ nhạc, ông cũng đã mang được nhiều phần khác của người nữ vào trong ca khúc của mình.
Một đặc điểm khác, tôi nghĩ, cũng nên ghi lại. Đó là: Trước khi chúng ta có truyền hình vào cuối thập niên 1960, khởi đầu, đa số các nhạc sĩ thường nhờ tới các làn sóng phát thanh, để phổ biến sáng tác của mình. Nhưng một số nhạc sĩ thuộc thế hệ thứ hai, như Từ Công Phụng, đã không chọn đi qua chiếc cầu gập ghềnh, gian nan này.
Nhiều tình khúc Từ Công Phụng được cất lên từ sân trường, các giảng đường đại học; trước khi chúng "xuống đường" bước về đại chúng. Lớp thính giả đầu tiên của Từ Công Phụng là thanh niên, sinh viên. Họ đón nhận ông, như đón nhận một phát ngôn nhân tình yêu gần gũi, đằm thắm nhất của họ. Họ cũng tìm thấy hình bóng, trái tim họ, trong cả những tình khúc chia, lìa, phụ rẫy nhất, của họ Từ.
Tôi không biết Từ Công Phụng tìm đến với âm nhạc hay, âm nhạc đưa tay gõ những tiếng gõ rụt rè đầu tiên, nơi cánh cửa tâm hồn, khi ông mới 13 tuổi, lúc còn theo học bậc tiểu học ở quê hương Phanrang, Ninh Thuận. (3) Ông kể, thời điểm đó, một lần, khi tình cờ nghe người anh cả đàn và hát bài "Con thuyền không bến" của Đặng Thế Phong, và "Trương Chi" của Văn Cao, ông bồi hồi, xúc động. Chạm mặt đầu tiên với âm nhạc, nơi Từ Công Phụng khiến ông ngây ngất, như sự chạm mặt với tình yêu thứ nhất. Ông bắt đầu học nhạc với người anh, qua những câu hỏi đơn giản về các nốt nhạc, cách đánh đàn. Ông nói: "Nhưng mãi tới năm 16 tuổi, tôi mới thực sự hiểu biết về âm nhạc một cách sâu sắc qua cuốn sách nhạc nhan đề ‘Harmonie et Orchestration’ của Robert de Kers, bản tiếng Pháp, xuất bản tại Paris, năm 1944; mà tôi vẫn còn giữ, như một kỷ niệm quý báu."
Cũng thuộc về kỷ niệm thời niên thiếu, Từ Công Phụng kể, lần đầu tiên ông bước lên sân khấu là khi đang học năm lớp nhất, trường Nam Phanrang, (lớp 5 bây giờ.) Sau đó, ông được đề cử đi hát ở các buổi lễ lớn, thi đua cùng các trường tiểu học khác. Con đường "nghệ sĩ trình diễn" này, tiếp tục đon đả mời ông bước tới khi lên trung học. Ông luôn được chọn lên sân khấu đơn ca trong các buổi sinh hoạt văn nghệ toàn trường. Hai năm cuối cùng của bậc trung học ở các trường Duy Tân, Phanrang và Trần Hưng Đạo, Đà Lạt, ông được chọn làm trưởng ban văn nghệ toàn trường.
Năm 1961, ông sáng tác ca khúc "Bây giờ tháng mấy". "Nhưng tôi không dám trình bày trước công chúng. Phần vì nhát, phần chưa tin tưởng lắm vào tài sáng tác của mình," họ Từ tâm sự.
Thời gian ở Đà Lạt, Từ Công Phụng cùng một số bạn học mới, thành lập ban nhạc Ngàn Thông, chơi hàng tuần cho đài phát thanh Đà Lạt. Ca khúc "Bây giờ tháng mấy" của họ Từ được trình bày lần đầu tiên, qua làn sóng điện này. Ngay sau đó, ông nhận được rất nhiều thư khen ngợi. Những bức thư khen ngợi kia, đã khuyến khích Từ Công Phụng mạnh dạn hơn trong lãnh vực sáng tác. Và, lần lượt, những ca khúc như "Mùa thu mây ngàn," "Bài cho em"…ra đời. Tác giả "Bây giờ tháng mấy" kể, một thành viên cùng trong ban Ngàn Thông với ông, sau này cũng trở thành nhạc sĩ nổi tiếng. Đó là nhạc sĩ Lê Uyên Phương.
Tuy nhiên, vẫn theo Từ Công Phụng, kể từ khi di chuyển về Saigòn, học đại học Quốc Gia Hành Chánh, thì: "Con đường âm nhạc của tôi mở ra thênh thang hơn. Sách vở về âm nhạc nhiều hơn, đã cho tôi một cái nhìn khác về âm nhạc. Tôi bắt đầu mê nhạc hoà tấu giao hưởng và thích nghe nhạc cổ điển Tây phương nhiều hơn. Trường hợp ca khúc ‘Bây giờ tháng mấy’ cũng là một cái duyên kỳ lạ, đưa nó tới quảng đại quần chúng. Ban đầu nó chỉ nằm trong khuôn viên ký túc xá của trường Quốc Gia Hành Chánh. Đêm đêm anh em ngồi quây quần chung quanh, nghe tôi hát. Bản ‘Bây giờ tháng mấy’ đã bị một anh bạn ‘chôm’, đem ra nhà xuất bản gạ bán giùm tôi. Nhà xuất bản Minh Phát lúc bấy giờ đã trả giá bản nhạc ấy có $4,000.00; và được hứa hẹn khi nào bán chạy sẽ trả thêm. Sau khi ca sĩ Nhật Trường trình bày ca khúc ấy, lần đầu tiên trên đài Quân Đội, bản nhạc bán chạy như tôm tươi. Nhạc lẻ in ra bán hết chục ngàn này tới chục ngàn khác, mà lời hứa hẹn của Minh Phát ngày nào, cũng tan bay theo gió!"
Về nguồn gốc của ca khúc đầu tay vừa đề cập, Từ Công Phụng nói: " ‘Bây giờ tháng mấy’ là một sáng tác hoàn toàn hư cấu, là những mơ mộng của chàng học sinh mới lớn, là tâm tư của một tên học trò đọc quá nhiều tiểu thuyết lãng mạn, cho nên, như ghi nhận của nhà văn Song Thao: ‘Bây giờ tháng mấy đã bắt được nhịp đập con tim của giới trẻ lúc bấy giờ. Lúc họ đang sống thấp thỏm trong hoàn cảnh chiến tranh, khao khát một tình yêu trong sáng lãng mạn. Và Từ Công Phụng đã mang lại cho họ món ăn tinh thần ấy.’ "
Sau gần 40 năm, kể từ sáng tác đầu tay, cảnh thổ âm nhạc mang tên Từ Công Phụng vẫn là tình ca. Ông tâm sự: "Với tôi, tình ca vẫn là con đường đẹp nhất dẫn mọi người đến gần nhau hơn, chia sẻ được với nhau nhiều hơn vì, cùng chung một hơi thở." Họ Từ nói thêm: "…Cho đến tuổi này, chúng ta không còn thì giờ để chia lìa. Quá mụôn màng cho một bắt đầu mới(?) Dĩ nhiên mỗi tuổi cái nhìn về cuộc đời có khác đi (tuỳ người). Và dĩ nhiên sự chuyển hướng có đậm nét hay không, chắc chắn là phải có trong sáng tác của tôi sau này khi ra hải ngoại và khi tuổi đời đã chồng chất."
Nhân đề cặp tới tình khúc, nhạc sĩ Từ Công cũng đưa ra quan niệm của ông chung quanh hai danh từ "ca khúc" và "nhạc phẩm". Ông đề nghị những bài hát hiện nay các ca sĩ thường hát, chúng ta nên gọi là "ca khúc" hay "bài hát", hơn là "nhạc phẩm". "Vì danh từ ‘nhạc phẩm’ thường được dành cho những sáng tác âm nhạc lớn. Những sáng tác dùng nốt nhạc để diễn tả tâm tư hay hình ảnh v.v… Nhưng vì dùng nốt nhạc để diễn tả khiến không mấy ai hiểu nổi. Nên chúng ta mới có ca khúc. Ca khúc dùng nốt nhạc để chuyển lời ca đến với khán thính giả thì dễ hiểu hơn. Cho nên, nhạc và lời bao giờ cũng phải quyện với nhau sao cho tương xứng. Nói cách khác là khéo xếp đặt lời ca và nốt nhạc làm sao dễ đi vào lòng người. Tóm lại, ca khúc là chuyển tâm tư của người viết đến người nghe bằng những lời thơ qua âm nhạc…" Ông nói.
Về thói quen sáng tác, Từ Công Phụng cho biết, ông không biết các nhạc sĩ sáng tác ca khúc như thế nào; nhưng riêng với ông, ông coi trọng cả hai thứ: Nhạc và lời. Ông nói, nhạc phải cho hay. Lời phải cho đẹp và ý nghĩa. Đôi khi ông viết nhạc trước theo dòng cảm hứng và, tìm lời phù hợp với nốt nhạc gắn vào. Đôi khi ông lại làm lời trước. Đó là trường hợp ông muốn nói tới một điều gì đặc biệt…Sau đó ông mới tìm nốt nhạc gắn vào. Ông tóm gọn: "Tôi luôn tìm cách hành âm cho có sự thay đổi khác lạ; gây thích thú cho người nghe. Và cũng có đôi khi, tôi viết luôn hai thứ một lúc."
Với tiêu chí tự đặt cho mình: "Nhạc phải cho hay, lời phải cho đẹp và ý nghĩa;" Từ Công Phụng đã đem đến cho giới thưởng ngoạn những tình khúc sang cả, mượt mà từ nhạc tới lời. Nhưng ông không chỉ cho thấy khả năng viết ca từ với những câu đầy thi tính mà, trong nhiều ca khúc của họ Từ, người ta còn thấy sự hiện diện cùng lúc, những ca từ như thơ và, những ngôn ngữ dung dị, đời thường.
Bạn tôi, một lần, kể rằng giữa lúc đang chăm chú làm việc, khi không, một đoạn nhạc của Từ Công Phụng đã dềnh lên trong đầu bạn tôi. Đó là hai câu: "Đôi mắt em rất buồn / đôi chúng ta rất buồn…" (ca khúc "Mắt lệ cho người.") "Đôi mắt em rất buồn" hay "quá buồn," là một câu nói đơn giản. Ở đời thường, một lúc nào đó, có thể chúng ta cũng đã từng buột miệng, nói như vậy, với người thương yêu của mình. Nhưng cũng trong ca khúc này, trước đấy, lại là những câu mang tính văn chương bác học, với chủ tâm (tình cờ) nhân cách hoá "mưa" và "rong rêu"; khi tác giả viết:"Mưa soi dấu chân em qua cầu / theo những cánh rong cưu mang niềm đau." Bạn tôi nói, những ca từ đơn giản này, như có năng lực huyền bí, thẩm, nhập, rồi tiềm phục đâu đó, trong vô thức của bạn tôi. Tôi cho đó cũng là một trong những nét đặc thù của tình khúc Từ Công Phụng.
Sự kiện vừa kể, khiến tôi liên tưởng tới khí hậu trong cõi giới tình ca của Phụng. Khí hậu trong nhạc tình Từ Công Phụng, theo cảm nhận của tôi, là cái khí hậu ẩm đục những cơn mưa. Đầm đìa những lệ mặn, chát đắng những quá khứ. La đà những cây, trái thất lạc tương lai. Đồng thời, người nghe cũng có thể cảm được những tay ôm, vỗ về của biển. Những chân đi chập chùng của gió. Những rét mướt của rừng. Những bơ vơ của núi. Những ngơ ngác phố cũ. Những rữa nát thềm xưa. Những cỏ cây. Chim muông. Hình bóng. Kỷ niệm…Tất cả, dường đã cùng thức dậy, đứng lên, buồn bã, chông chênh bước vào tâm hồn người thưởng ngoạn. Vì trong rất nhiều tình khúc của Phụng, hạnh phúc đã tựa như lời nói dối; nếu hiểu, tình yêu, vốn là điều không thật!
Nói tới tình ca, tôi nhớ, tình cờ đọc được ở đâu đó, trước tháng 4 – 1975, một câu của nhạc sĩ Phạm Duy, in trang trọng nơi trang đầu một tuyển tập nhạc tình của ông. Đại ý ông tỏ dấu tiếc đã không dành hết quãng đời viết nhạc của mình, cho sự ngợi ca tình yêu. Tôi thú vị lắm, phải nói thế, khi đọc lời tâm sự buồn bã nhưng rất thực của người viết nhạc lớp trước. Tình yêu, cách nào khác, tôi nghĩ, chính là khuôn mặt chập lại, sáng lên cùng lúc: Sự sống và, lẽ chết.
Nói tới tình ca, cũng là nói tới bước đường mà, chẳng một nhạc sĩ nào không ít, nhiều kinh qua. Nó giống như cánh cửa mê hoặc đầy cạm bẫy sinh / tử của thể thơ lục bát, với những người làm thơ vậy. Tình ca, cái thế giới mầu nhiệm, thấn thánh của tuổi trẻ? Hay nó là mặt bên kia của cảm nhận đại ngục, thiên đường; hắt lên từ một dương gian hiu quạnh? Lại nữa, những tình khúc của họ Từ, hình như đã không chỉ như những tình khúc hiểu theo nghĩa một sáng tác nói về tình yêu đôi lứa. Ẩn giữa những dòng nhạc, giấu trong những lời ca, mỗi tình khúc của Từ Công Phụng còn là một thánh thoát êm đềm, dù cho nhạc phẩm nói về một tình yêu đổ vỡ. Ở đâu đó, trong những dòng nhạc, giữa những từ ngữ, vẫn thấp thoáng một nhân sinh quan đầy cam chịu và độ lượng.
Từ những cảm nhận trên, tôi thấy, một trong những nét đặc thù của sinh hoạt âm nhạc miền Nam trước tháng 4-1975, là sự góp mặt đông đảo và, sự phồn thịnh sáng tác của nhiều người viết nhạc. Nhưng, nói như thế, không có nghĩa tất cả những người sáng tác nhạc đều trở thành nhạc sĩ. Định đề khắc nghiệt của nghệ thuật là, giá trị thực hữu trong sáng tác, phải được ấn chứng bởi ngọn lửa thời gian bạo liệt. Thời gian tuồng keo kiệt nụ cười trước mỗi lao tác tinh thần, tự nguyện. Mặc dù, cuối cùng, thời gian, cũng vẫn là đôi tay duy nhất, nâng niu, gìn gìn giữ cho chúng ta, những hạt ngọc.
Trong biển sống cuồn cuộn của nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng thì, mỗi tài hoa tiêu biểu cho một dòng sống. Kẻ đại diện dòng sống đó, được quần chúng ngắm nhìn, yêu thích, như một phần đời dậy hương của chính họ. Trong nghĩa này, Từ Công Phụng là người đã được giới thưởng ngoạn chọn lựa. ông là đại diện thân ái nhất cho dòng suối tình ca lênh đênh ly biệt, của hai mươi năm tân nhạc Nam, Việt Nam.
Là một trong những ngọn thác âm giai chảy từ đầu nguồn riêng lẻ, đời nhạc Từ Công Phụng, nhìn lại, từ điểm đứng tỵ nạn, nửa vòng trái đất, tôi thấy, trước sau, vẫn đằm đằm sang-cả-buồn-bã, mới. Từ điểm đứng kia, tôi chợt hiểu sự kỳ diệu của âm nhạc, không chỉ là những phối ngẫu toàn hảo giữa âm giai và ca từ mà, âm nhạc, ở độ chín nào đó, còn là những hồi chuông lung linh kỷ niệm khôn nguôi, một đời vậy.
Bạn có quyền không đồng ý những cảm nhận của tôi. Bạn cũng có quyền cất tiếng thảo luận với nhạc sĩ … Nhưng trước đó, tôi đề nghị, bạn nên có một lần, buông, thả thân, tâm mình trong dòng suối tình khúc của họ Từ. Dù cho, hạnh phúc trong tình khúc Từ Công Phụng có tựa như những lời nói dối!
Du Tử Lê,
(Calif. Oct. 7- 09)
Chú thích:
(1) Nhà thơ Nguyên Sa sinh ngày 1 tháng 3 năm 1932 tại Hà Nội. Ông mất ngày 18 tháng 4 năm 1998, tại miền nam California. Cả hai bài thơ được trích dẫn, đều nằm trong "Thơ Nguyên Sa" tập 1. Tổ hợp Gió, xuất bản lần thứ 6, Saigòn, 1971.
(2) Nhà thơ Quách Thoại sinh năm 1929 tại Huế. Ông mất ngày 7 tháng 11 năm 1957 tại Saigòn. Hình trong todaypicture tên là: TCP 6
(3) Từ Công Phụng sinh ngày 27 tháng 7 năm 1943 tại Văn Lâm, Phanrang, Ninh Thuận.

Nguồn: https://amnhac.fm/tu-cong-phung/3920-tu-cong-phung-phat-ngon-nhan-tinh-yeu-cua-tuoi-tre-mien-nam

clip_image005

Từ Công Phụng: 50 năm ‘Bây Giờ Tháng Mấy’

Nhân dịp nhạc sỹ Từ Công Phụng về Việt Nam thực hiện đêm nhạc vào đêm 19/01/2013, [dongnhacxua.com] xin chúc anh nhiều sức khỏe và có một đêm nhạc thật thành công.

Photo: vnExpress.net

Sinh năm 1942 tại Ninh Thuận, nhà nhạc sỹ năm nay đã bước sang tuổi “thất thập”. Từng chiến đấu cam go với hai chứng bệnh ung thư, sức khỏe của anh đã yếu đi nhiều trong những năm gần đây. Cho nên anh nhiều lần tâm sự từng giây từng phút với anh bây giờ rất đáng quý, để anh còn làm được thêm một cái gì đó cho đời, cho người yêu nhạc.

Nhân dịp này [dongnhacxua.com] gởi đến quý vị yêu nhạc đôi dòng về nhân thân mà anh cho đăng trên website http://www.tucongphung.net/blog/tac-gia

Sinh ngày 27.7.1942 tại Văn Lâm Ninh Thuận. Cử nhân luật, cựu biên tập viên đài phát thanh VOF. Rời Việt Nam vào tháng 10.1980 hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Viết nhạc từ năm 1960.

Tình ca của Từ Công Phụng với những nét đặc biệt mang tính chất lãng đãng, bàng bạc nhẹ nhàng đã trở nên thật gần gũi với những người yêu nhạc từ 40 năm qua, kể từ khi anh cho ra đời nhạc phẩm đầu tiên Bây Giờ Tháng Mấy vào năm 60. Không những thế anh còn có một giọng hát thật trầm ấm như những lời tâm sự chân tình, dễ gây cảm xúc bằng lối diễn tả bằng tất cả chiều sâu của tâm hồn. Với Bây Giờ Tháng Mấy Từ Công Phụng đã thành công ngay từ bước đầu khi người nhạc sĩ sinh quán ở Ninh Thuận này đang theo học lớp đệ nhị nhưng đã mon men đến với âm nhạc bằng cách tự học.

Trước đó Từ Công Phụng thường nghe những loại nhạc hòa tấu qua những chương trình phát thanh với những nhạc phẩm cổ điển hay nhẹ nhàng như của Mantovani, Paul Mauriat. Do sở thích nghe nhạc, anh đã từ từ tìm hiểu về điểm đặc biệt của từng nét nhạc, song song với việc nghên cứu cách viết của những nhà soạn nhạc quốc tế. Về các ca sĩ, anh cho biết thường nghe Andy Williams, Perry Como và Pat Boone. Còn về nhạc khí, anh biết sử dụng guitar và piano, riêng nhạc khí sau anh cho đó là nhạc khí có sức lôi cuốn mãnh liệt nhất đến từ những âm thanh thánh thót.

Về nhạc Việt Nam, Từ Công Phụng thích nghe những bài của Đoàn Chuẩn-Từ Linh. Sau đó anh để ý đến nhạc tình của Phạm Duy. Riêng với nhạc phẩm Bây Giờ Tháng Mấy khi được hỏi có chịu ảnh hưởng gì nơi những nét nhạc anh đã nghe từ trước, người nhạc sĩ họ Từ cho nếu có cũng chỉ là một sự vô tình đến từ sự thẩm thấu của trí nhớ gom góp từ những làn gió của bốn phương tới. Nó thẩm thấu cho mình, mình đâu có biết được. Nhưng mà theo tôi thấy nó vẫn có những nét bẩm sinh riêng.?

Bây Giờ Tháng Mấy sau đó được nhà xuất bản Minh Phát mua và tung ra thị trường. Chỉ trong một thời gian ngắn nhạc phẩm này đã trở nên rất quen thuộc. Sự phổ thông mạnh mẽ của nó đã khiến tựa đề của nhạc phẩm này được truyền khẩu thành Bây Giờ…Mấy Tháng? Từ Công Phụng cho biết đã không hài lòng lắm khi tên đứa con đầu đời của anh bị đổi tên một cách châm biếm như vậy. Nhưng dù sao anh cũng thừa nhận nhờ đó mà tác phẩm đầu tay của anh được nhắc nhở tới nhiều hơn. Một điểm đặc biệt là trước đó, Từ Công Phụng không bao giờ nghĩ đến việc sinh sống với việc sáng tác mà chỉ muốn coi âm nhạc là một thú tiêu khiển thanh tao. Anh đến với âm nhạc hoàn toàn bằng năng khiếu, cộng với sự chịu khó tìm tòi, học hỏi, hoàn toàn không được ai nâng đỡ trong bước đầu. Sự kiện này lại được anh coi là một sự may mắn để tạo riêng cho mình một nét nhạc đặc thù…

Sau thành công ở bước đầu, trong thập niên 60, Từ Công Phụng đã sáng tác thêm được nhiều nhạc phẩm khác, trong số này có nhiều bài trở thành quen thuộc như Bài Cho Em, Lời Cuối, Mùa Thu Mây Ngàn, v.v. Tổng cộng trong thời gian này, anh sáng tác dược trên 20 bài. Tổng cộng cho đến nay số lượng sáng tác phẩm của Từ Công Phụng đã lên đến khoảng 100 bài, tuy nhiên anh chỉ xuất bản những bài nào anh còn nhớ được lời, sau đó chép lại nhạc.

Những nhạc phẩm được nhiều người ưa thích của anh đã được đưa vào bốn tuyển tập, tuyển tập gần đây nhất mang tựa đề Một Góc Đời Phôi Pha, ra đời cùng một lúc với CD mang cùng tên do chính Từ Công Phụng trình bầy. Trong CD mới nhất này, có một số nhạc phẩm viết từ lâu nhưng chưa được phổ biến như Xứ Thâm Trầm, Một Thoáng Nhìn Nhau, Hóa Kiếp, v.v.

Xứ Thâm Trầm, được hoàn thành vào năm 1968, phổ nhạc từ một bài thơ của Đông Duy, một người bạn thời sinh viên. Về trường hợp ra đời của bài Một Thoáng Nhìn Nhau, Từ Công Phụng viết vào năm 77, từ một bài thơ của Phong Sơn, trong lần gặp gỡ tại buổi sinh hoạt ở Hội Văn Nghệ Thành Phố, khi các anh em nhạc sĩ đang bàn thảo để tìm một chiều hướng mới thích hợp với chế độ mới. Sau khi phổ bài thơ này của Phong Sơn, Từ Công Phụng đã hát cho tác giả bài thơ nghe. Phong Sơn đã tỏ ra rất xúc động và bật khóc vì đã từ lâu không được nghe những dòng nhạc tình như vậy.

Từ Công Phụng cho biết anh phổ thơ là do kỷ niệm với bạn bè, thật sự anh không chủ trương phổ thơ. Anh cũng không hề đặt ra một tiêu chuẩn nào để phổ nhạc từ thơ, ngoài sự cảm xúc.

Vào năm 79, Từ Công Phụng phổ nhạc một bài thơ của một người bạn là nhà văn Nguyễn Đông Ngạc sau khi được nhà văn này tâm sự về một biến chuyển trong đời sống tình cảm của mình. Đó là bài Hóa Kiếp.

Riêng về phương diện phổ nhạc từ thơ của bạn bè, Từ Công Phụng đã hoàn tất được khoảng 10 bài, trong số đó nhạc phẩm mang tựa đề Giữ Đời Cho Nhau đã trở thành một trong những nhạc phẩm rất được ưa chuộng. Tuy nhiên tựa đề của nhạc phẩm đã gây nên một số thắc mắc vì có nhiều người cho tựa đề đó phải là Ơn Em. Đây chính là dịp để Từ Công Phụng giải thích về sự thắc mắc đó: Thực sự tựa bài thơ là Ơn Em. Sau khi làm xong, tôi thấy có mấy câu ở trong đó ngồ ngộ như kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau thì tôi đề nghị lấy tựa là Giữ Đời Cho Nhau với tác giả bài thơ là Du Tử Lê. Du Tử Lê đồng ý là có một ý tưởng mới lạ trong cái tựa…nhưng khi bài đó hát lên, người ta nghĩ là Ơn Em cũng đúng.?

Từ Công Phụng nói rõ thêm về trường hợp anh đã phổ nhạc từ bài thơ chỉ gồm có 10 câu này nhưng đã gây nơi anh nhiều xúc động khi thấy có những âm hưởng gợi lại lời ru của thân mẫu anh khi anh còn thơ ấu. Vì bài thơ ngắn nên thiếu trường canh cần thiết cho một bản nhạc nên Từ Công Phụng đã thêm hai câu cho đủ, đó là: Ơn em tình những mù lòa, như con sâu nhỏ bò qua rất mùi. Khi phổ xong anh mang lại tặng Du Tử Lê như một kỷ niệm sau khi anh đã từng phổ nhạc từ bài thơ Trên Ngọn Tình Sầu. Cũng với tựa đề Giữ Đời Cho Nhau, Du Tử Lê đã dùng để đặt cho bộ video do trung tâm Diễm Xưa thực hiện riêng cho anh, phát hành trong tháng Tư năm 2000.

Một trong vài thi phẩm của Du Tử Lê được Từ Công Phụng phổ nhạc và trở thành một ca khúc nổi tiếng phải nhắc tới là Trên Ngọn Tình Sầu vào khoảng năm 69, 70. Tựa đề nguyên thủy của bài thơ thật ra là Khúc Thêm Cho Huyền Châu, trong tập thơ của thi sĩ họ Lê ấn hành trong thời gian này. Cũng đề cập đến nhạc phẩm Trên Ngọn Tình Sầu, Từ Công Phụng cho biết thêm một chi tiết về sự anh gọi là bạo dạn trong việc phổ bài thơ của Du Tử Lê: là đã dùng âm vực rất cao. Lên cao và xuống thấp để diễn tả hết những cái nỗi buồn ở trong đó. Ngay vào đầu tôi đã dùng note rất cao. Từ Sol lên tới Fa. Tôi dùng Sol, Fa liền thay vì Mi lên Fa, tức là quá lên một ton nên tạo được một âm hưởng lạ.?

Trong bài thơ đó, Từ Công Phụng cho biết anh đã sửa lại một số câu để đúng với chiều hướng âm thanh: như là hạnh phúc tôi, hạnh phúc tôi từ những ngày con nước về. Ngoài trời mưa mau.., tôi lập lại ngoài trời mưa mau tay vuốt mặt khôn cùng. Trong bài thơ tôi còn nhớ là bầy sẻ cũ hom hem, bầy sẻ cũ hom hem chiều mái xám. Tôi mới thêm hai chữ nữa là bầy sẻ cũ hom hem chiều mái xám rêu xanh. Mái xám mà còn rêu xanh nưa để nó phủ thêm một lớp thời gian. Bởi vì rêu đóng vào cái mái, qua thời gian mưa nắng các thứ, nó thành rêu, nó làm đậm thêm cái nét của hình ảnh.?

Cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương có lần đề cập đến nhạc phẩm này và đưa ra nhận xét là dưới mắt ông, bài thơ Khúc Thêm Cho Huyền Châu không có hơi nhạc mà Từ Công Phụng làm được như vậy thật là rất xuất sắc. Về sự liên hệ gắn bó giữa thơ Du Tử Lê và nhạc Từ Công Phụng, người phổ nhạc bài thơ của Du Tử Lê thành ca khúc Trên Ngọn Tình Sầu cho biết không có vấn đề Du Tử Lê làm thơ để anh phổ nhạc. Anh không chấp nhận điều đó vì chỉ phổ nhạc khi tìm thấy được một sự xúc cảm nơi bài thơ. Anh còn cho biết là đã nhận được rất nhiều thơ của các thi sĩ gửi tới nhờ anh phổ nhạc, nhưng vì nhận thấy không có xúc cảm nên không phổ được.

Qua những lời tâm sự, được biết cuộc sống của Từ Công Phụng nếu không có âm nhạc se rất ư tẻ nhạt. Với âm nhạc, anh đã tìm thấy một thứ hạnh phúc nhỏ nhoi trong đời sống của mình. Hàng đêm trước khi đi ngủ, anh không thể bỏ được thói quen nghe một vài nhạc phẩm cổ điển hoặc hòa tấu nhẹ nhàng. Đối với anh đó là một nhu cầu rất cần thiết. Cái nhu cầu cần thiết đó, với thời gian đã ẩn tàng trong tâm hồn đầy cảm xúc của anh, để từ đó phát xuất ra một dòng nhạc đặc biệt mang tên Từ Công Phụng.

Vì không chủ trương sinh sống bằng âm nhạc nên Từ Công Phụng không hề bị gò bó để bắt buộc làm những điều anh không thích trong phạm vi nghệ thuật. Từ đó anh cảm thấy thoáng hơn để đi theo cách riêng của mình, kể cả trong kỹ thuật viết nhạc. Tất cả đều thoát thai từ nét bẩm sinh của anh… Cái nét bẩm sinh Từ Công Phụng đó, tự anh không thể phân tích được mà phải đến những người thưởng thức. Bây giờ hễ nhạc của anh tấu lên, mọi người đều dễ dàng nhận ra dòng nhạc của Từ Công Phụng, không thể lẫn lộn với một ai khác như những Mùa Thu Mây Ngàn, Mùa Xuân Trên Đỉnh Bình Yên, Giọt Lệ Cho Ngàn Sau, Lời Cuối, v.v. Riêng với nhạc phẩm Lời Cuối, Từ Công Phụng đã hoàn tất chỉ trong hai tiếng đồng hồ, thúc đẩy bởi một sự xúc cảm mạnh mẽ về một cuộc tình tan vỡ của anh.

Tuy đầu óc âm nhạc của anh đã ghi nhận được rất nhiều điều học hỏi nơi những người khác, nhưng khi một nhạc phẩm nào đó được Từ Công Phụng hoàn thành, những ảnh hưởng đó phối hợp với sự bẩm sinh của anh đã tạo thành một nét nhạc riêng biệt.

Đối với Từ Công Phụng, biến cố tháng Tư năm 75 đã gây cho anh rất nhiếu mất mát, do đó dùng anh đã dùng nhiều chữ cũng đành trong bài Như Chiếc Que Diêm để diễn tả một sự buông xuôi theo số phận vì không làm gì khác được: Thôi cũng đành một kiếp trăm năm đời người sẽ qua. Cũng đành một thoáng chiêm bao tình người cũng xa… Thôi cũng đành một kiếp phong ba lệ tình cũng sa… Thôi cũng đành như chiếc que diêm một lần lòa lên… Thôi cũng đành như kiếp rong rêu một lần hóa thân…

Tâm trạng chán chường của Từ Công Phụng trong những ngày còn ở lại Việt Nam hơn năm năm sau ngày 30 tháng Tư được anh diễn tả một cách cụ thể: Mỗi buổi sáng thức dậy kiếm được một ít cà phê pha cho mình uống và suy nghĩ về cuộc đời… Vấn đề nghĩ đầu tiên là trong ngày hôm nay tôi có thể làm thế nào kiếm được một ít tiền để cơm nước cho con cái thôi, không có mơ ước gì hơn.

Trong thời gian lưu lại Việt Nam trước khi vượt biển vào tháng Mười năm 80, Từ Công Phụng đã sáng tác được một tình ca, sau này được phổ biến tại hải ngoại và trở thành rất nổi tiếng như Mắt Lệ Cho Người, Trên Tháng Ngày Đã Qua, v.v. Nhạc phẩm sau là một trong những nhạc phẩm anh thích thú nhất. Khi nói về nhạc phẩm mang tựa đề Tình Tự Mùa Xuân của mình, Từ Công Phụng cho biết anh muốn dùng nội dung của nhạc phẩm đó để nói nên niềm mơ ước của những người yêu nhau trong cuộc đời này: Tình Tự Mùa Xuân là tôi viết theo một cái hư cấu về một mối tình giữa đôi tình nhân khi mùa xuân tới thì có những nỗi vui mừng khi họ ngồi gần bên nhau nương tựa nhau ở trong cái cuộc đời. Có những lúc xa mà gặp lại, họ khóc mừng cho một ngày hạnh phúc. Đó là cái mơ ước dành cho những người yêu nhau trong cuộc đời này.

Trước kia, trong thời kỳ chiến tranh, Từ Công Phụng cũng đã từng mang một niềm mơ ước mà anh nhận thấy có tiềm ẩn một tư tưởng phản chiến trong nhạc phẩm Mùa Xuân Trên Đỉnh Bình Yên: Lúc thời gian chiến tranh khốc liệt, tôi dường như không muốn nghe tới tiếng súng nổ nên nhạc của tôi vẫn là nhạc tình. Trong thế giới này chúng ta cứ chiến tranh mãi thì con người sẽ bị tận diệt nên tôi mơ ước chỉ có tình yêu mới tạo nên sức sống thôi. Tôi vẽ ra một sự mơ ước của tôi là, có một ngày nào đó sẽ đưa người tình lên một chỗ thật là thanh bình, không còn nghe tiếng súng, không còn nghe tiếng đạn, không còn nghe tiếng thở dài, than vắn, mà chỉ sống trong thế giới của tình yêu. Điều đó hơi ích kỷ. Nhưng cái điều mơ ước đó thật ra không ích kỷ. Hồi đó tôi có ý phản đối chiến tranh, nhưng phản đối một cách nhẹ nhàng…

Đúng 40 năm trước, chúng ta đã được nghe nhạc phẩm bất hủ Bây Giờ Tháng Mấy. Nhưng không ngờ 40 năm sau tại hải ngoại chúng ta lại được thưởng thức một nhạc phẩm mang cùng một đề tựa, được viết thành ca khúc thứ hai của anh. Về trường hợp lý thú này, Từ Công Phụng kể lại: Đó là kỷ niệm của thời sinh viên khi tôi còn sống trên Đà Lạt. Lúc bấy giờ bài Bây Giờ Tháng Mấy 1 mà thính giả thường hay nghe được… trên đài phát thanh Đà Lạt, tôi có nhận được nhiều bức thư khen ngợi trong số có một bức thư đặc biệt không ký tên tác giả. Trong đó ngoài những lời khen tặng còn tặng cho tôi một bài thơ cảm hứng theo cái bài Bây Giờ Tháng Mấy?

Đó là một bài thơ 5 chữ mà anh thấy mang một nội dung lạ nên đã sửa lại bài thơ và làm thành ca khúc 2 của Bây Giờ Tháng Mấy vào năm 65. Cho đến nay anh vẫn không biết tác giả bài thơ đó là ai. Trước khi chính thức được phổ biến trên CD mấy chục năm sau. Từ Công Phụng nói đùa, với lời nhạc mỗi câu 7 chữ của Bây Giờ Tháng Mấy Ca Khúc 1 người ta có thể đổi từ Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em? thành Bây giờ mấy tháng rồi hỡi em? Với bài thơ 5 chữ, mở đầu bằng Bây giờ là tháng mấy của Ca Khúc 2 có vẻ khó… xuyên tạc hơn.?

Với Từ Công Phụng nơi xứ thâm trầm nhiều khi anh quên đi cả bây giờ tháng mấy để vùi đầu vào việc sáng tác ở một góc trời phôi pha này. Bên cạnh anh đã có chị Kim Ái, thành hôn với anh sau khi cuộc hôn nhân giữa Từ Công Phụng và Từ Dung tan vỡ, quán xuyến mọi việc. Một người hướng nội với những suy tư triền miên về cuộc đời, về tình người. Một người hướng ngoại với những suy tính thích hợp với cuộc sống chạy theo kim đồng hồ. Phải chăng đó là một sự kết hợp chặt chẽ để giữ đời cho nhau?

Nguồn: https://www.dongnhacxua.com/tu-cong-phung-bay-gio-thang-may

Comments are closed.