THẢO LUẬN DẠY-HỌC NGỮ VĂN TRONG NHÀ TRƯỜNG (6): AI ĐỦ NĂNG LỰC BIÊN SOẠN SÁCH GIÁO KHOA PHỔ THÔNG?

Nguyễn Trọng Bình

1

Trên báo điện tử Tuần Việt Nam nét, ngày 25/1/2013 có đăng bài viết của tác giả Phạm Anh Tuấn nhan đề: “Hãy dám xóa bỏ độc quyền biên soạn sách giáo khoa” [1]. Trong bài viết của mình tác giả Phạm Anh Tuấn đặt vấn đề phải chăng đang có tâm lý lo sợ về những “xung đột lợi ích” nên có một số “chuyên gia” tự cho mình cái quyền được biên soạn sách giáo khoa đã phát biểu những điều mà theo Phạm Anh Tuấn là “coi thường lớp lớp những nhà giáo dục độc lập”. Cụ thể trong bài viết của mình, tác giả Phạm Anh Tuấn đã phản biện lại ý kiến GSTS Nguyễn Minh Thuyết đăng trên báo Thanh Niên số ra ngày 18/12/2012 nhan đề: “Một chương trình với nhiều bộ sách giáo khoa” [2] như sau:

“Hiện nay, nước ta chưa có những người được đào tạo bài bản về kỹ thuật xây dựng chương trình và viết SGK. Phần lớn là các nhà khoa học cơ bản, nhà nghiên cứu về phương pháp và giáo viên phổ thông đều chỉ dựa vào kiến thức, kinh nghiệm của mình để viết”.

Thiết nghĩ cũng nên nói thêm, trong bài viết “Một chương trình với nhiều bộ sách giáo khoa” đăng trên báo Thanh Niên, ngoài ý kiến của GSTS Nguyễn Minh Thuyết còn có ý kiến của PGSTS Đỗ Ngọc Thống – người được bổ nhiệm chức Phó Vụ trưởng Vụ giáo dục trung học phổ thông, thường trực Ban biên soạn chương trình SGK sau năm 2015. Theo đó, ông Thống cũng cho rằng:

“Chúng tôi đã vào trường sư phạm xin ý kiến hầu hết tất cả giáo sư đầu ngành và nhận được câu trả lời: Đề án của các anh rất hay nhưng các bộ môn không còn người nữa, không còn ai nữa, tất cả môn học chúng ta đang hẫng hụt đội ngũ. Lấy đâu ra tác giả mà viết nhiều bộ? Người thì thừa nhưng người có năng lực rất thiếu”[2].

Gần đây nhất, trong phần trả lời chất vấn trước quốc hội, GSTS Phạm Vũ Luận – Bộ trưởng Bộ GD cũng phát biểu như đinh đóng cột như sau:

“Lần này, theo dự báo của chúng tôi, lực lượng làm SGK còn ít hơn. Vì lần này chúng ta làm sách theo cách mới, theo cách tiếp cận phát triển năng lực chứ không làm như những lần trước đây là truyền thụ kiến thức cho học sinh. Chúng tôi dự báo 2 khả năng có thể xảy ra. Khả năng thứ nhất là với cơ chế xã hội hoá, sẽ giải phóng được sức sản xuất của xã hội. Nhiều nhóm, tập thể sẽ biên soạn. Sách biên soạn ra sẽ tốt, đa dạng, giúp cơ sở giáo dục lựa chọn được sách phù hợp nhất để sử dụng. Khả năng thứ hai, chưa có nhiều người sẵn sàng tham gia viết sách, sách viết ra không đáp ứng yêu cầu, không kịp thời gian và có thể có những mảng sách không ai viết cả”.“Chúng tôi rất mong khả năng thứ nhất xảy ra, nhưng kinh nghiệm lịch sử của những lần làm sách vừa rồi cảnh báo khả năng thứ hai rất có thể  xảy ra”.[3]

Qua sự việc trên, trước hết tôi xin được bày tỏ sự đồng cảm với những trăn trở của tác giả Phạm Anh Tuấn. Đồng thời tôi cũng cho rằng những phát biểu của GSTS Nguyễn Minh Thuyết, PGSTS Đỗ Ngọc Thống và GSTS Phạm Vũ Luận ở trên không những thiếu cái nhìn mang tính lịch sử mà quan trọng hơn đằng sau những phát biểu này vô tình chính các ông đã “tự thú trước bình minh” về tất cả yếu kém của nền giáo dục nước nhà (mà phải chăng chính bản thân các ông cũng góp phần gây nên những yếu kém ấy)?

Sau đây tôi sẽ chứng minh tất cả những điều vừa nói với một tinh thần cầu thị và phản biện nghiêm túc nhất (qua trường hợp biên soạn sách giáo khoa môn Văn nói chung trong nhà trường phổ thông).

2

Hiện tại, trong tay tôi là quyển sách giáo khoa môn Giảng văn lớp 11 (do một người Thầy giáo cũ cho mượn) bìa ngoài ghi tên tác giả biên soạn là Đỗ Văn Tú – vốn chỉ là một Cử nhân văn chương (do nhà xuất bản Văn Hào, Sài Gòn ấn hành năm 1970). Quyển sách dày 787 trang không tính mục lục. Ngoài ra, cũng theo trang bìa giới thiệu của quyển sách này thì Cử nhân văn chương Đỗ Văn Tú cũng là người biên soạn cả bộ Giảng văn và sách Giáo dục công dân từ lớp 6 đến lớp 11 trong chương trình giáo dục của chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ.

Nhìn quyển Giảng văn lớp 11 do cử nhân Đỗ Văn Tú biên soạn đồng thời nhìn sang các tập sách giáo khoa môn Ngữ văn đang lưu hành từ lớp 9 đến lớp 12 trong đợt cải cách gần đây nhất (năm 2002) do tập thể các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ… “của ta” hiện nay biên soạn, tôi cam đoan nếu bạn đọc biết được những điều dưới đây cũng sẽ có tâm trạng bàng hoàng và sửng sốt giống như tôi.

Trước tiên, một cách ngẫu nhiên tôi liệt kê một số quyển sách giáo khoa môn Ngữ văn đang lưu hành do tập thể các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ hiện nay biên soạn như sau:

– Sách Ngữ văn 9 tập một (236 trang), tập hai (212 trang), nhà xuất bản Giáo dục, năm 2005 có số người biên soạn lên đến 12 vị có học hàm, học vị cao ngất ngưỡng gồm: Nguyễn Khắc Phi (tổng chủ biên), Nguyễn Văn Long, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử, Diệp Quang Ban, Hồng Dân, Bùi Mạnh Hùng, Lê Quang Hưng, Lã Nhâm Thìn, Đỗ Ngọc Thống, Trịnh Thị Thu Tuyết, Phùng Văn Tửu.

– Sách Ngữ văn 10 tập hai (157 trang), nhà xuất bản Giáo dục năm 2006 do 12 người biên soạn gồm:

Phan Trọng Luận (tổng chủ biên), Lã Nhâm Thìn, Bùi Minh Toán, Lê A, Nguyễn Thái Hòa, Đỗ Kim Hồi, Nguyễn Xuân Nam, Vũ Dương Quỹ, Đặng Đức Siêu, Trần Nho Thìn, Lương Duy Thứ, Đoàn Thị Thu Vân.

– Sách Ngữ văn 11 tập 1 (213 trang), nhà xuất bản Giáo dục năm 2007 do 15 vị biên soạn gồm: Phan Trọng Luận (tổng chủ biên), Lã Nhâm Thìn, Trần Đăng Suyền (đồng chủ biên phần văn), Bùi Minh Toán (chủ biên phần tiếng Việt), Lê A (chủ biên phần làm văn), Lê Nguyên Cẩn, Nguyễn Thái Hòa, Đỗ Kim Hồi, Nguyễn Xuân Nam, Đoàn Đức Phương, Vũ Dương Quỹ, Trần Nho Thìn, Trịnh Thị Thu Tuyết, Hà Bình Trị, Đoàn Thị Thu Vân.

– Sách ngữ văn 12 tập hai, 213 trang, nhà xuất bản Giáo dục năm 2008 do 12 vị biên soạn gồm: Phan Trọng Luận (tổng chủ biên), Lã Nhâm Thìn, Trần Đăng Suyền (đồng chủ biên phần văn), Bùi Minh Toán (chủ biên phần tiếng Việt), Lê A (chủ biên phần làm văn), Đặng Anh Đào, Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Nguyễn Thái Hòa, Đỗ Kim Hồi, Nguyễn Xuân Nam, Đoàn Đức Phương, Nguyễn Phượng, Vũ Dương Quỹ, Đặng Đức Siêu, Lương Duy Thứ.

Qua so sánh với quyển Giảng văn lớp 11 của tác giả Đỗ Văn Tú năm 1970, tôi thấy có một số vấn đề rất đáng để suy ngẫm sau đây:

Thứ nhất, hóa ra ngày xưa (cách nay gần nửa thế kỷ) chỉ một mình Cử nhân văn chương Đỗ Văn Tú mà đã “xơi” gần như toàn bộ bộ sách giáo khoa môn Văn (và cả Giáo dục công dân) vô cùng đồ sộ. Đặc biệt, theo tôi là quyển sách được trình bày rất bài bản, khoa học và có chất lượng (tôi sẵn sàng cung cấp toàn văn quyển Giảng văn lớp 11 hiện có gồm 787 trang cho quý vị nào có nhu cầu muốn kiểm chứng). Trong khi đó, chỉ với một quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11 (tập 1) mỏng lét (như chúng tôi vừa liệt kê ở trên) mà phải huy động đến “trí tuệ tập thể” của tổng cộng 15 vị GS, PGS, TS.

Thật mỉa mai thay nếu chúng ta đem chia quyển sách 213 trang này ra thì tính trung bình mỗi vị đứng tên đồng biên soạn (15 vị) chỉ sở hữu khoảng 14,2 trang sách. Chua xót hơn nữa, trong 14,2 trang sách này nếu nhìn kỹ sẽ thấy phần “trích dẫn văn liệu” chiếm khoảng 2/3 số trang. Như vậy, suy cho cùng mỗi vị đứng tên đồng chủ biên trong quyển sách này chỉ thực viết khoảng chừng vài ba trang sách mà thôi. Thật là không biết nói sao về cái chuyện “không tin được dù đó là sự thật” này!

Như vậy, từ đây mà suy thì những lời phát biểu của các ông Nguyễn Minh Thuyết, ông Đỗ Ngọc Thống và ông Phạm Vũ Luận phải chăng cũng chính là lời “tự thú” về một sự thật đáng hổ thẹn của đội ngũ biên soạn sách giáo khoa phổ thông hưởng lương Nhà nước ở ta thời gian qua? Rằng, chính các vị chứ không phải ai khác là một minh chứng tiêu biểu nhất cho câu “người thì thừa nhưng người có năng lực rất thiếu” mà ông Đỗ Ngọc Thống đã mạnh miệng tuyên bố (dĩ nhiên ở đây xin hiểu là năng lực trong việc biên soạn sách giáo khoa chứ không nói năng lực ở những vấn đề khác).

Và cũng từ đây mà suy, phải chăng qua chuyện này, vô tình các vị đã chứng minh một cách không thể nào chối cãi được về sự yếu kém và lạc hậu của nền giáo dục nước nhà mấy mươi năm qua mà chính các vị chứ không ai khác đã trực tiếp quản lý, điều hành và đào tạo? Bởi lẽ, tại sao với đội ngũ GS, PGS, TS chen nhau trong một quyển sách mỏng dính như thế nhưng cuối cùng lại “đổ vỡ” ra rằng chất lượng của nó rất kém nên giờ đây cần phải gấp rút biên soạn lại? Có lẽ nào cái “trí tuệ tập thể” của đội ngũ những vị “mũ cao áo dài”, học hàm học vị cao ngút trời hôm nay (lại được sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại) lại kém xa với trí tuệ cá nhân của một Cử nhân văn chương Đỗ Văn Tú cách đây non nửa thế kỷ? Thử hỏi, thời gian qua các vị đã đào tạo và giáo dục kiểu gì để đến giờ việc tìm người đủ năng lực để viết được sách giáo khoa (như các vị nói) là rất khó, rất thiếu trong khi cả nước số người được cấp bằng Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ tăng nhanh một cách rất chóng mặt?

Thứ hai, cứ như lời của các ông Nguyễn Minh Thuyết, ông Đỗ Ngọc Thống, ông Phạm Vũ Luận ở trên thì có vẻ như các ông đang rào đoán rằng việc biên soạn sách giáo khoa sắp tới đây chỉ nên dành cho “những người được đào tạo bài bản về kỹ thuật xây dựng chương trình và viết SGK”. Nếu vậy thì xin được hỏi, đến giờ phút này bản thân các ông đã từng được đào tạo bài bản về vấn đề này chưa? Cơ sở, đơn vị giáo dục nào đã đào tạo và cấp bằng hay chứng chỉ công nhận cho các ông về vấn đề này? Và trước đây nữa, các ông đã được đào tạo bài bản chưa sao lại… liều mình tham gia vào hội đồng biên soạn sách?

Tôi tin rằng, cách đây non nửa thế kỷ, những học giả như Cử nhân văn chương Đỗ Văn Tú, hay một số học giả nổi tiếng khác Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Hiến Lê… chắc là chưa từng kinh qua lớp học về “kỹ thuật xây dựng chương trình và viết SGK” như các ông nói đâu nhưng họ vẫn biên soạn những bộ sách giáo khoa hay thậm chí là giáo trình đại học rất có giá trị đó thôi.

Nhân đây, tôi xin phép được trích lại một đoạn văn trong bài “Ngôi trường bên chợ Đũi” (in trong tập tản văn Bây giờ mà có về quê, Nhà xuất bản Phụ nữ năm 2011) của GS Huỳnh Như Phương vì ít nhiều cũng cho thấy cái nhìn liên quan đến vấn đề này:

“Ở Sài Gòn, phía trước mỗi trường tư thục đều có tấm biển dài, ghi tên các thầy cô trong ban giảng huấn phụ trách từng môn học. Các trường thường mời những thầy giáo giàu kinh nghiệm, vừa đứng trên bục giảng vừa viết sách giáo khoa, nên học trò mọt sách như tôi, dù ở quê xa cũng biết tiếng các thầy (Chả bằng bây giờ, mình đổi mới, sách giáo khoa trung học hầu hết do các giảng viên đại học biên soạn, dù nhiều thầy cô không dạy trung học giờ nào cả).” [4]

Có thể thấy, qua ý kiến này của GS Huỳnh Như Phương và qua thực tế về quyển giảng văn lớp 11 dày 787 trang do Cử nhân văn chương Đỗ Văn Tú biên soạn năm 1970; cũng như qua tìm hiểu một số công trình của những người vốn là Giáo sư dạy ở các trường đại học ở miền Nam trước đây, tôi hiểu được rằng hóa ra những bộ óc mang tầm GS, TS giảng dạy ở bậc đại học trước đây không quan tâm lắm đến việc biên soạn sách giáo khoa ở phổ thông như các GS, PGS, TS… dạy đại học “của ta” bây giờ. Không quan tâm không phải họ coi thường mà họ xem việc biên soạn sách giáo khoa là vấn đề rất nhẹ nhàng, trình độ cỡ những Cử nhân văn chương, những giáo viên trung học như Đỗ Văn Tú thời ấy là có thể dư sức đảm đương được. Vì vậy, hầu như tất cả họ chỉ lo nghiên cứu những vấn đề học thuật mang tầm “vĩ mô”, có tính “khai phá”, “khai sáng” thôi.

Họ ý thức rằng bản thân chỉ chuyên nghiên cứu và dạy ở bậc đại học thì làm sao am hiểu và có kinh nghiệm bằng các giáo viên phổ thông trung học về các vấn đề tâm lý học sinh phổ thông mà ôm đồm biên soạn sách? Vấn đề mà đúng như ông Nguyễn Minh Thuyết đã phát biểu: “Để viết được sách, người viết vừa là nhà khoa học cơ bản rất giỏi, vừa là người am hiểu về giáo dục phổ thông cũng như tâm lý, trình độ của học sinh phổ thông. Nhưng trên thực tế đội ngũ viết của ta hiện nay rất thiếu sự am hiểu về giáo dục phổ thông”. Đến đây chắc hẳn mọi người đã tự nhận ra điều gì qua thực trạng về đội ngũ trực tiếp biên soạn sách giáo khoa hiện nay của ta rồi.

3

Từ những vấn đề đã phân tích ở trên mà suy thì vấn đề biên soạn sách giáo khoa phổ thông trong đề án Đổi mới toàn diện nền giáo dục sắp tới đây nên chăng phải dừng lại để chờ đến khi nào tìm được người đủ năng lực? Chứ nếu cái đà này chẳng lẽ lại tiếp tục sử dụng đội ngũ những con người cũ?

Nói thật là cá nhân tôi không cho rằng cả cái nước Việt Nam với 90 triệu dân hiện nay lại thiếu người có năng lực biên soạn SGK (đến nỗi các vị đang phụ trách vấn đề này phải phải “vò đầu bứt tai” than vãn). Vấn đề là phải chăng đúng như tác giả Phạm Anh Tuấn đã nói, “khúc mắc” ở đây chính là đang có tâm lý lo sợ xảy ra “xung đột lợi ích” giữa những người soạn sách nằm trong Hội đồng biên soạn hưởng kinh phí của Nhà nước và những người biên soạn không nằm trong Hội đồng này?

Bên cạnh đó, phải chăng đằng sau sự phân vân này còn là tâm lý lo sợ của những người với học hàm, học vị cao ngút trời nhưng nếu chẳng may sau này bộ sách mà mình biên soạn bị dư luận đánh giá chất lượng kém hơn sách của những người – những nhà giáo phổ thông hay những nhà nghiên cứu độc lập khác – thì phải chăng còn… nỗi buồn nào buồn hơn?

Thật sự thì tôi cầu mong cho những suy luận và phán đoán trên của tôi là sai bởi nếu không chắc là sẽ… càng buồn hơn nữa!

Nhân đây, một lần nữa tôi cho rằng, sắp tới đây nếu muốn thực sự đổi mới toàn diện nền giáo dục nước nhà trong đó có đổi mới biên soạn sách giáo khoa phổ thông thì trước hết phải bắt đầu từ sự đổi mới triệt để về con người (nhất là con người trong khâu điều hành, quản lý). Một khi con người đã hỏng hay quá… cũ rồi mà không dũng cảm thay đổi, vẫn cứ bảo thủ và cố níu kéo giữ nguyên hiện trạng thì nói thật, tôi rất có niềm tin là công cuộc đổi mới toàn diện nền giáo dục sắp tới đây sẽ rơi vết xe đổ của những lần đổi mới trước đó.

Vì vậy, riêng vấn đề này xin mạo muội kiến nghị với những người có trách nhiệm ở Bộ giáo dục là nên chăng cần công khai minh bạch chủ trương của đề án Đổi mới biên soạn sách giáo khoa phổ thông sắp tới đây để tất cả mọi người dân tham gia đóng góp ý kiến (đặc biệt là vấn đề đội ngũ những người nằm trong Hội đồng biên soạn bao gồm những ai, thành phần nào; mục tiêu cụ thể của từng bộ sách ra sao, chương khung cụ thể là gì…)?

Ngoài ra, theo tôi những người phụ trách vấn đề này cần minh định rõ ràng trong nhận thức giữa hai vấn đề đổi mới chương trình khung trong sách giáo khoa phổ thông và vấn đề cụ thể hóa cái khung chương trình ấy tức là khâu biên soạn và viết sách. Trong hai khâu này thì khâu đổi mới khung chương trình sách giáo khoa là khâu quyết định và quan trọng hơn. Bởi lẽ, phải làm sao xây dựng được cái khung chương trình sách giáo khoa phổ thông theo tinh thần đổi mới nhằm đáp ứng và cụ thể hóa cái mục tiêu giáo dục chung của đề án “đổi mới căn bản toàn diện giáo dục” đề ra là cực kỳ khó. Và càng khó hơn nữa là phải làm sao đảm bảo tuyệt đối mục tiêu“định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế”.

Lời cuối, tôi biết tất cả những gì tôi nói ở trên sẽ làm cho nhiều người “trong cuộc” cảm thấy khó chịu. Nhưng biết thế nào được, tự đáy lòng mình, với tư cách một giáo viên tôi không thể không góp thêm một tiếng nói tất cả không ngoài mục đích (nói như lời Giáo sư Nguyễn Lân Dũng) là “lựa chọn bộ sách nào để dạy, để học là tùy thầy cô giáo và học sinh. Chỉ có cạnh tranh như vậy mới mong có được những những bộ sách giáo khoa tốt” [2]. Và quan trọng hơn nữa là vì sự lành mạnh của nền giáo dục nước nhà trong tương lai. Vì thế, tôi sẵn sàng chịu trách nhiệm về sự “đường đột” và bất đắc dĩ khi phải nói lên những sự thật (dù biết rằng nó rất đắng và “khó” nghe) này.

Để kết thúc bài viết này tôi mạn phép trích lại đây hai câu thơ của nhà thơ Nguyễn Duy trong bài “Nhìn từ xa… Tổ quốc” để tất cả chúng ta cùng suy ngẫm:

“Đổi mới thật không hay giả vờ đổi mới

Máu nhiễm trùng ta có dám thay không?”

————————-

Chú thích:

[1]: Phạm Anh Tuấn – Hãy dám xóa bỏ độc quyền biên soạn sách giáo khoa. Tuần Việt Nam nét (xem tại đây: http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/106818/hay-dam-xoa-bo-doc-quyen-bien-soan-sgk.html)

[2]: Tuệ Nguyễn – Một chương trình nhiều bộ sách giáo khoa. Báo Thanh niên số ra ngày 18/12/2012 (xem tại đây: http://www.thanhnien.com.vn/pages/20121217/mot-chuong-trinh-nhieu-bo-sach-giao-khoa.aspx)

[3]: Làm SGK “tuyệt nhiên không có lợi ích nhóm gì cả” http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/208017/lam-sgk–tuyet-nhien-khong-co-loi-ich-nhom-gi-ca-.html

[4]: Huỳnh Như Phương – Ngôi trường bên chợ Đũi (in trong Bây giờ mà có về quê), Nhà xuất bản Phụ nữ, năm 2011.

Cần Thơ, 2013 (chỉnh sửa, bổ sung 2014)

Nguyễn Trọng Bình

Comments are closed.