Với người vừa khuất núi

Nguyễn Đình Phượng Uyển

Hồi đi tù về, bác thường đạp xe tới Làng Báo Chí thăm bố. Chắc hai ông toàn nói chuyện vũ trụ, thế giới, cõi âm dương, cõi ta bà … cao siêu lắm nên con nhóc là tôi ngày ấy chả hiểu, chả nhớ được gì.

Bố kể có bữa bác đến, áo sơ mi trắng muốt, ủi phẳng, trong túi áo lộ rõ tờ giấy bạc 50 đồng – mệnh giá lớn nhất thời ấy – Bố nhướng mày: “Anh cất kỹ. Thằng nào thò tay cuỗm mất sao?”. Bác nhoẻn miệng, mắt lấp lóa: “Mình nuôi con bao năm, cho nó tiền bao lần không sao. Tiền này con Thanh (con gái lớn của ông) nó cho, sướng thế ông ạ!”. Ý là bác muốn cả thế giới biết quà của con gái tặng.

Bố hay bảo tôi kể việc này cho con bác Sỹ nghe, “Tụi nó không biết đâu.”.

Kỷ niệm với riêng bác không có nhưng với gia đình bác, tôi có cả đống.

Lần đầu tôi đến căn nhà ở đường Thành Thái, bác trai ở tù, bác gái nhận nuôi trẻ hàng xóm để kiếm sống, bác giữ chúng cả ngày lẫn đêm để cha mẹ nó đi làm. Tối thứ Bảy, khách văn nghệ kéo tới chơi đông thật đông, người đánh Guitar, người Piano, kẻ hát bè chính, kẻ bè phụ dưới ánh đèn vàng. Thứ mà tôi thích nhất là được ăn bánh trái các chị làm. Tôi trầm trồ trong bụng, nhà bác sang quá, khách của bố mình chỉ được mời cơm, đụng bữa, có gì ăn nấy, tương chao vớ vẩn, bàn ghế đã biến thành gạo từ đời tám hoánh nên muốn tụ họp ca hát, cả hội toàn ngồi bệt dưới đất với mỗi cây guitar Gibson mà bố rất quý, ai đụng vô cũng khen tiếng ấm.

Ngày định mệnh hàng loạt văn nghệ sĩ bị bắt: Doãn Quốc Sỹ, Duy Trác, Hoàng Hải Thủy, Lý Thụy Ý … nhà tôi cũng bị lục tung. Công an, trinh sát, quân đội, an ninh, … súng ống lăm le, trải biên bản lên bàn, đọc lệnh truy xét … họ lôi sách vở trên kệ xuống, đổ giấy má, hình ảnh trong hộc bàn, trong tủ ra, nệm chiếu, gầm giường, phòng bố phòng con lật lên hết, nhà thành bãi chiến trường, chúng tôi cầm chắc nó bắt bố rồi nhưng không.

Chiều hôm đó tôi vội vàng đạp xe lên Đại học Tổng Hợp, nơi tôi và Hương – con gái út của bác Sỹ – cùng học Anh văn, để thông báo cho nhau biết, ai lường được gì thì lường, tâm biết tỏng có đuôi bám sau lưng, bàng hoàng khi Hương bảo: “Nó bắt bố tao rồi, cả ông Trác, Lý Thụy Ý …”. Chúng tôi, con của văn nghệ sĩ chế độ cũ, đã chứng kiến cảnh nhà cửa tan hoang, cảnh bố mình bị truy sát như vậy đó.

Tôi bỏ bữa học, đạp vội về nhà thông báo hung tin, đoán chừng cái đuôi sau lưng sung sướng lắm khi thấy chúng tôi hớt ha hớt hải, mặt cắt không còn giọt máu. Cả gia đình chuẩn bị tinh thần, sớm muộn gì Việt Cộng cũng tới hốt bố đi. Nó không tới nhưng nó bắt ông lên trình diện, lên hoài. Mỗi lần đi, bố chuẩn bị sẵn khăn mặt, bàn chải đánh răng, bộ quần áo … cầm bằng không về.

Sống cách nào được với tình trạng đó? Có người rủ, bố tôi liều vượt biên, thế là bị bắt, coi như cùng vụ với các văn nghệ sĩ khác.

Bạn bè, họ hàng xa gần đến thăm hỏi, mẹ cứ cười buồn và rằng: “Có cục bự nhất, nay bị bắt rồi, mới hết lo.” Thật đó! Bố ở tù tôi mới hết sợ tiếng xe máy chạy ngang nhà, nhỡ nó dừng lại và hết sợ tiếng chó sủa ban đêm. Đứa con nào có thể chịu nổi cảnh bố mình bị còng tay dẫn vô chỗ chết?

Khi các ông bố nằm bóc lịch, biết mẹ không khéo xoay sở, các anh chị con bác Sỹ rủ chị em tôi lên bán canteen trong trường Lê Hồng Phong. Họ coi chúng tôi như em trong nhà, bảo muốn ăn gì, cứ lấy. Canteen bánh trái đầy, mình thì đói, vậy mà anh chị không sợ chúng tôi xơi lẹm vào vốn. Ngộ!

Chúng tôi, một bầy con các nhà văn: Doãn Quốc Sỹ, Dương Hùng Cường, Thanh Thương Hoàng, Nguyễn Đình Toàn … ráp lại, cà khịa, lốp bốp … banh nóc nhà luôn.

Em tôi 16-17 tuổi, pha ly trà uống, khen ngon. Anh Vinh cười ruồi: “Thằng này hay. Hồi anh bằng mày, chả biết trà nào ngon, trà nào dở, chỉ biết em nào thơm, em nào thối.” Cà chớn!

Ở Mỹ, vợ chồng chị Liên hay đưa bác Sỹ tới thăm bố, từ lúc bác còn tinh tường đến lúc bác lãng đãng nhiều nhưng bố vẫn thấy ấm cúng, gặp bạn cùng thời.

Bố tôi đau yếu, chậm chạp ra sao, chị nhắn tôi kỹ càng. Đêm nhạc của bố, 04/2022, không có chị khuyến khích, khuyên nhủ, tôi đã hụt mất một kỷ niệm nhớ đời, hụt chụp tấm hình với đầy đủ cha mẹ anh em sau 30 năm binh biến, bởi tù đày, bởi vượt biên, người ở Việt Nam, người bên Mỹ, Úc … Ai mà nghĩ bỏ ngang công việc, bay qua đó một ngày? Anh em đầy bên ấy. Ông cụ cũng đâu dặn tôi phải có mặt.

“Bố em chậm chạp, dễ té lắm rồi. Con gái dìu bố lên sân khấu, lo giày dép, áo quần cho ông là đẹp nhất. Mấy thằng con trai sao lo được như em.” Chị Liên bảo.

Thế là đi!

Một tháng sau gặp mẹ lần nữa, loáng thoáng vài giờ đồng hồ, coi như không tính. Qua dự chương trình nhạc, tôi được bữa đi, bữa ở, bữa về, đủ dài để nắm tay, chải đầu, mặc áo cho mẹ lần cuối, ăn cơm cùng mẹ, nhìn mẹ nằm vùi trong đống chăn gối cả ngày mà ngậm ngùi. Lần cuối được mẹ hôn khi thấy tôi khóc, mẹ đã từ biệt con gái trước khi chìm vào thiên thu. May mà tôi nghe lời chị …

Những ngày cuối của bố, vợ chồng chị Liên sang thăm, bố hụ hợ được vài tiếng, chị đưa tôi ít tiền, bảo cái này không phải phụ giúp, chỉ để ông Toàn thích ăn gì thì mua, coi như con cháu trong nhà.

Cầm chứ sao không.

Đợi bố tỉnh táo, tôi nói ngay:

– Chị Liên, anh Hiếu tặng bố nè. Bố muốn ăn gì?

– Bánh mì bơ đi – Ông nhanh nhảu.

Tội nghiệp! Bệnh Parkinson thít chặt cổ họng, nước bố còn không nuốt được, sao ăn bánh mì?

Cậu em lên tiếng:

– Lúc khỏe bố thích bánh mì bơ lắm.

Ông Toàn không được ăn món mình thích như chị dặn mà phải mua mấy món theo ý bác sĩ, thịt thà, rau quả mang về hầm nhừ, xay nhuyễn. Ăn được một hai bữa, ngán, ông bảo: “Để nguyên miếng thịt, đừng băm.”

Chả hột nước nào chứ đừng nói miếng thịt rơi vào bao tử ông kể từ hôm ấy, cổ họng nghẽn, lưỡi phồng rộp như vảy cá … Vài ngày sau, đến phiên ông … chìm vào thiên thu.

Anh Hiếu, rể bác Sỹ, có nhiều dây mơ rễ má với gia đình tôi hơn. Khi anh còn là sinh viên kiến trúc, anh tới Làng Báo Chí và hát cho bố nghe bài “Mồng Tơi”.

“Ra sân hái mớ mồng tơi”

“Về nấu canh mời anh xơi”

….

“Bao lâu nên duyên chồng vợ”

“Lúc đó mới hiểu được tôi”

Bài này bố thích, đặt thêm lời 2, chắc anh không nhớ. Khi anh Hiếu tham gia chương trình Du Ca ở Little Saigon, bố hỏi tôi liền:

– “Nó có hát bài “Mồng Tơi” không? Bài đó hay.”

Ngày anh đến nhà, tôi mới 11-12 tuổi, nghe anh đàn hát “Mồng Tơi”, tôi mê tít thò lò. Từ anh, tôi còn thuộc thêm mấy bài nhạc tuổi mới lớn của Nguyễn Quyết Thắng, Phan Ni Tấn. Thích nhạc nhưng chưa bao giờ diện kiến hai tác giả, tôi tưởng tượng họ tài hoa, bảnh tỏn, xa vời như chú Cuội trên cung trăng.

Qua Úc, mở Facebook, tôi kết bạn được với Phan Ni Tấn và được biết anh đã nhiều lần ghé Làng Báo Chí, thăm điêu khắc gia Trương Đình Quế nhưng chả biết bố chỉ ở cách đó vài trăm thước, khỏi tốn công tôi mơ gặp người cung trăng …

Anh Hiếu còn là người làm slide show đêm nhạc “Một Ngày Sau Chiến Tranh”, dàn trang cuốn “Thơ và Ca Từ”, tác phẩm cuối cùng của bố, gợi ý để tôi xuất bản cuốn sách thứ hai.

Chúng tôi quen anh trước, anh đưa chị Liên đến nhà sau, thành cầu nối giữa hai gia đình.

&

Khi tôi có dịp ngồi ăn cơm chung bàn thì bác đã trôi vào cõi mơ hồ, mất khả năng đối đáp, kể chuyện.

Đến bữa, con dẫn ra ghế, xới cơm vào bát, con cho gì, ăn nấy, bác không ý kiến ý cò. Bàn ăn chỉ có tôi và các anh chị trao đổi qua lại, thỉnh thoảng chị dỗ: “Bố ăn đi. Ăn hết nha. Húp canh há.” Bác chỉ lặng lẽ nhai, nuốt.

Y chang mẹ tôi khi mắc bệnh quên, bác đã xa rời thế tục từ lúc mất khả năng nghe, mất khả năng nói. Những thứ gần gụi nhất – cái ví, khăn mặt, cây bút, đôi dép, con cái … thành xa xăm, khó nắm bắt. Mặc quần áo, đánh răng, bước ra khỏi giường, đi toilet … phải nhắc nhở, phải phụ giúp …

Tuy nhiên, bác ăn được, đi đứng vững vàng. 95-96 tuổi mà thả bộ ngoài bãi biển, bác bước phăm phăm, chả bù bố mình, nhỏ hơn bác mấy thập niên mà lom khom, ngồi ghế cũng ngã, không gượng được nên ít dám ra đường.

Cơm nước xong, bác được đưa ra ghế sofa, lặng lẽ ngồi như tượng cho đến khi ngủ gục. Lúc tỉnh táo, trong cõi yên ắng, bác tẩn mẩn cầm kéo cắt báo cũ, sợi to sợi nhỏ, sợi vắn sợi dài, chả chủ ý gì, chỉ đỡ buồn tay, chơi đấy!

&

Số mình xui, lúc Rồng đến nhà, đầu óc minh mẫn, sắc bén, tim đầy ắp chuyện đời, chuyện người thì mình còn quá bé, không dám mon men đến gần, quá bé để hiểu bố và bác nói gì. Suy cho cùng, có lớn mấy thì bác vẫn là bạn bố, cửa nào cho mình dám ngồi ngang hàng, đàm đạo. Hụt một sàng khôn, hic!

Dù chưa bao giờ hầu chuyện bác nhưng tôi cảm nhận được bác hiền, rất hiền. Hiền từ giọng nói trong trẻo đến tiếng cười đôn hậu khi trà đàm với bố.

Đôi tri kỷ nay đã gặp nhau nơi chín suối. Chắc lại giống hồi bác tới Làng Báo Chí, hai ông trên hai cái ghế gỗ cọc cạch, sát cửa sổ, nắng hắt vào lưng, mồ hôi rịn trán, hai ông rỉ rả chuyện viết lách, tòa báo, bạn bè, tù đày, thơ phú … khổ mấy hai ông cũng nói như bỡn, coi như pha.

Còn hai bà mẹ, ừ, hai bà lại chị chị, em em trong bếp, chỉ nhau pha chế món nào rẻ mà ngon, thậm thụt lắc đầu khi kể về tính khí thất thường của hai ông chồng nhưng mắt thì long lanh hãnh diện, chắc luôn!

Bác ơi! Con chưa biết được một bí mật nào của bác, tiếc ơi là tiếc! Nhưng con quý các anh chị. Từ ngày đầu con đến nhà bác ở Thành Thái cho đến căn ở Little Saigon, lúc nào các anh chị và nhất là Hương đều coi con như người trong gia đình, chan hòa, thân thiện. Chắc tính cách này từ bác mà ra.

Ngày xưa, nếu cháu gan một chút – mà chắc gì bố cho phép – cháu sẽ hỏi chuyện bác ở tù, chuyện bác quen bố và các nhà văn khác thế nào, họ có điểm đặc biệt gì, bác biết mấy hàng quà vặt ở Saigon không, sao bố cháu rành thế? Bao nhiêu lần bác yếu lòng vì phái nữ – bố “yếu” không đếm nổi luôn – sao nhiều người, kể cả mẹ cháu, khen bác là người chồng, người cha mẫu mực?

Ủa, nghệ sĩ phải trăng hoa chứ.

Bác và bố đã sống trọn vẹn cuộc đời của một người cầm bút, biết đủ những gì cần biết, phải không?

Gặp lại, bác nhắn giùm, con nhớ bố mẹ lắm. Thương bác.

17/10/25

Bác đến thăm bố

 

Thắm tình đồng chí

 

Ngày ra mắt sách “Thơ và Ca Từ”

Vài lời trước giờ ra mắt sách

Bác đọc bài thơ do Nuyễn Đình Toàn và Doãn Quốc Sỹ làm chung

Và với người … nay đã khuất núi

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.