Mấy chuyện nhỏ với Lâm Thị Mỹ Dạ

Hà Nhật

Mùa hè 1965, cuộc chiến trên bầu trời miền Bắc đã bước sang năm thứ hai. Trường Cấp Ba Lệ Thủy đã chuyển đến giấu mình sau những lùm tre của thôn Đông Liễu, xã Liên Thủy. Đầu năm học, các lớp 8 mới tập trung lo lao động sửa sang trường lớp. Có mấy em làm việc sát ngay ngôi nhà của ông bà nông dân mà tôi đang ở nhờ. Được vào học cấp ba, em nào cũng hơn hớn.

Tôi hỏi một em:

– Em tên gì?

– Dạ… dạ!

– Thầy hỏi: Em tên gì?

– … Dạ…

Lâm Thị Mỹ Dạ xuất hiện lần đầu với tôi là thế. Dạ sống ở Tuy Lộc, mỗi ngày đi bộ khá xa đến trường. Mẹ Dạ nghèo, đơn thân.

Tôi chỉ dạy Dạ có một năm ấy. Thật bất ngờ sau này cái lớp học nhỏ bé dưới lùm tre ấy lại đẻ ra cho đời những năm thi sĩ: Mỹ Dạ, Ngô Minh, Hải Kỳ, Lê Đình Ty, Đỗ Hoàng.

Tôi cũng khá bất ngờ khi Dạ trở thành phu nhân một người bạn tôi: Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Mùa hè 1974, được sự giúp đỡ của Tường, tôi lang thang khắp cả một huyện Triệu Phong đã được giải phóng của tỉnh Quảng Trị, gọi là đi thực tế.

Rồi Huế được giải phóng, tôi ghé thăm Huế. Tại nhà Hải Bằng, ngồi uống bia, có nhà thơ Hải Bằng, vợ chồng Tường Dạ, nhà giáo Phan Ngọc Thu, hai nhà thơ Ngô Minh, Nguyễn Trọng Tạo.

Chính từ buổi lai rai này mà sau đó có bài viết của Nguyễn Trọng Tạo trên tờ Văn Nghệ Trẻ: Một lớp hai thầy năm thi sĩ.

Ấy mà thật không ngờ một lần từ Sài Gòn ra thăm Huế thì Tường đã ngồi xe lăn. Đau quá, tôi lấy chai rượu rót hai ly, tôi uống một ly, ly kia thì đặt trước mặt Tường.

Đó chính là nguồn cơn của bài thơ này:

UỐNG RƯỢU VỚI TƯỜNG

Cạn ly đi Tường ơi

Không uống được vào môi thì nhấp bằng mắt vậy

Để ta nhớ một thời sôi nổi

Ngang dọc hai ta một dải đất gió Lào

Cả cuộc đời thuở ấy đẹp tươi sao

Gian khó hiểm nghèo say ta như rượu mạnh

Ta chưa một lần trở lại mảnh đất thiêng

Chưa kịp về với Quảng Trị bình yên

Tóc vội bạc rượu nồng chưa kịp uống

 

Một thời trẻ trai

Một thời mộng tưởng

Cạn ly đi Tường ơi

Thế rồi, một lần tôi đến thăm vợ chồng Tường Dạ ở Sài Gòn tại một căn hộ. Tường vẫn vậy, vẫn ngồi xe lăn, nghe không rõ, nói không rõ.

Nhưng đến chuyện này thì buồn hơn. Lúc đó Mỹ Dạ vừa được in một tập sách khá dày và đẹp. Không biết đây là toàn hay tuyển. Dạ giao quyền sách cho tôi nhưng không nói gì. Tôi hơi lạ, bảo:

– Em viết gì đi chứ?

– Phải viết à thầy?

– Ừ, viết tặng thầy đi chứ!

– Viết răng thầy?

– Thì em viết Kính tặng thầy Hà Nhật.

Rồi tôi đưa cây bút cho Dạ:

– Em viết: Ca hờ i…

– Ca là răng thầy?

Lúc này tôi suýt phát khóc. Bi kịch của đời là đây rồi sao!

Tôi đành tự mình viết lên trang giấy: Kính tặng thầy Hà Nhật.

May mà Dạ vẫn ký được loằng ngoằng.

Hôm ấy tôi trở về trong một nỗi nao lòng.

Cuối cùng thì chuyện đã đến. Sáng nay đang ngồi ăn cơm với mấy người bạn ở Hội Văn nghệ Quảng Bình thì Phan Đình, chủ tịch hội, báo tin: nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã từ trần!

Vậy là từ con số “một lớp năm thi sĩ” ấy đã có đến bốn thi sĩ bay lên trời: Hải Kỳ, Lê Đình Ty, Ngô Minh, Lâm Thị Mỹ Dạ.

Chợt nhớ một câu của Lev Tolstoy:

Hạnh phúc thì giống nhau, đau khổ thì mỗi người một cách.

Comments are closed.