Lí luận văn học Nga hậu xô viết (19)

Lã Nguyên

*

Hệ tư tưởng chính thống thời Xô Viết, khi “mở rộng” sang khoa học (có lẽ ở mức độ rộng nhất là vào nghiên cứu văn học) đã sở đắc nhiều hình thức biểu đạt cực kì độc đáo bằng ngôn từ, ở cả văn viết (sách, báo), lẫn văn nói (bài giảng cho sinh viên, các bài phát biểu trong hội nghị, hội thảo, trong bảo vệ luận văn, luận án). Đó là thứ tu từ học thấm đẫm cảm hứng mít tinh, thái độ tự thị và sự hằn học. Ví dụ thế này. Vào những năm 60, tôi (cùng cặp với U.P. Fort) phải làm phản biện cho một luận án phó tiến sĩ viết về Chekhov (việc xẩy ra ở trường Đại học sư phạm Moskva). Trước buổi bảo vệ này, còn có một buổi bảo vệ khác về đề tài giai cấp công nhân trong văn học Xô Viết. Tôi và U.P. Fort đứng ngoài hành lang tán gẫu với nhau về chuyện gì đó. Bỗng tất cả giật mình: trong hội trường, nơi đang diễn ra lễ bảo vệ, thấy vang lên tiếng kêu thất thanh, kiểu động kinh. Đó là cách mở đầu bài phát biểu của vị phản biện; luận án và chủ yếu là đề tài của nó đã khơi dậy ở ông niềm phấn khích đầy thống thiết theo tinh thần và phong cách diễn thuyết trước đám đông ở những năm 1930 – 1940.

Tất nhiên là ở đây có sự lố bịch thái quá, nhưng sự thái quá ấy rất tiêu biểu cho tinh thần thời đại. Bản chất của hệ tư tưởng Xô Viết cần nghiên cứu một cách thấu đáo, không thiên vị và bình tĩnh. Chúng tôi chỉ giới hạn ở một số vấn đề. Hệ tư tưởng này đã trải qua nhiều thay đổi, nhiều khi rất quyết liệt. Vào những năm 1920 – 1930, ngự trên mặt tiền sân khấu là tư tưởng của chủ nghĩa quốc tế vô sản (cách mạng), nó dẫn tới thái độ rẻ rúng, miệt thị một cách thô bạo các truyền thống dân tộc – miệt thị tất cả những gì từng tồn tại ở nước Nga thời trước cách mạng. Người ta chỉ đề cao kinh nghiệm đấu tranh cách mạng với thể chế chuyên chính (“phong trào giải phóng”). N.V. Kornhenko đã nhận xét chính xác, vào giữa những năm 1920, “người ta đã quyết định dùng tất cả các vũ khí giáng một đòn chí mạng vào kí ức lịch sử, vốn là nền móng của truyền thống dân tộc và văn hoá”[1]. Những đòn đánh như vậy thường được thực hiện dưới ngọn cờ đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa sô vanh cho đến tận thời kì chiến tranh 1941 – 1945.

Về sau này, tinh thần cực đoan theo hướng ngược lại cũng nguy hiểm đối với đất nước và nhân dân: biện minh cho nhân tố quốc gia – dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Liên Xô cùng với cương lĩnh tách rời xã hội Xô Viết với kinh nghiệm của các nước khác, với sự phủ định triệt để tất cả những gì được người ta gọi là chủ nghĩa thế giới, còn bây giờ (với nghĩa mở rộng theo quan niệm giá trị ngược lại cũng có khiếm khuyết), đôi khi người ta gọi là toàn cầu hoá với hàm ý san bằng và xoá bỏ các khác biệt dân tộc. Sau chiến tranh, việc giới trí thức (chính xác hơn, giới nguỵ trí thức, nhân danh tư tưởng hệ) xua đuổi các truyền thống thời tiền cách mạng có bớt dần, dù người ta vẫn hoài nghi tinh thần “nông dân gia trưởng” từng bị kết tội một cách nghiêm khắc trong các bài viết của Lênin về L.Tolstoi và vẫn được giữ lại như một bộ phận cấu thành của tư tưởng hệ và nghiên cứu văn học chính thống.

Hệ tư tưởng Xô Viết dưới “dạng biểu hiện của nó trong nghiên cứu văn học” rõ ràng đã trải qua một số giai đoạn, chí ít là hai thời kì lớn. Đồng thời, trong cấu trúc của nó, bao giờ cũng có sự hiện diện của những hằng số nào đó. Đó là sự tán dương, biện minh quyết liệt cho cách mạng và một quan niệm gắn với nó về các giá trị của quá khứ Nga, ví như lịch sử của phong trào giải phóng (về điều này, bài báo của Lênin Kỉ niệm Ghersen viết năm 1912 có “ý nghĩa chỉ đạo phương pháp luận”), vai trò tòng thuộc của đạo đức đối với chính trị (nhân đây, cần nhớ lại bài phát biểu tại Đại hội đoàn Komsomol toàn Liên bang Nga lần thứ III, năm 1920), chủ nghĩa vô thần do Lênin tuyên bố như một mệnh lệnh nào đó (bài viết năm 1922: Về ý nghĩa của chủ nghĩa duy vật chiến đấu).

Chủ nghĩa Mác – Lênin qua sự “chỉnh sửa của Stalin” là một phiên bản của chủ nghĩa Mác bị xuyên tạc nghiêm trọng. Hệ tư tưởng thống trị ở nước Nga thời Xô Viết chủ yếu có ý nghĩa tiêu cực đối với đất nước và xã hội. Suốt hai chục năm gần đây, người ta đã nói rất nhiều về điều này trên báo chí, trên màn hình tivi, qua đài phát thanh…

Còn một phương diện khác của vấn đề cũng đáng lưu ý. Nó là thế này: kiểu gì thì rồi hệ tư tưởng Xô Viết cũng chống lại chủ nghĩa chiết trung, thuyết tương đối luận ở đủ mọi làn điệu của nó: cả tương đối luận của Nietzsche (trong chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa vị lai, có tiếng vọng của nó), lẫn tương đối luận của chủ nghĩa hậu hiện đại rất sôi động ở nhiều năm về sau này. Ở một mức độ nào đó, nó còn khư khư giữ lại cho mình một quan niệm thâm căn cố đế (và cả chân lí tuyệt đối, bất khả xâm phạm) tồn tại đời đời trong dân chúng và xã hội của họ như là những đại diện và nơi tập trung tính xác định, tính chuẩn mực nào đó của các quan hệ thế giới và thước đo đạo đức. Hệ tư tưởng này đòi hỏi con người phải có lí tưởng nhân sinh sắt đá. Quan điểm marxiste (trong đó có quan điểm marxiste – leniniste) không chấp nhận chiết trung, nó thù địch với thói vô liêm sỉ (tất nhiên, ở đây không nói về thực tiễn đời sống của thời đại, mà chỉ bàn riêng về phạm vi thế giới quan). Cho nên, khi đã rơi vào khu vực quyền lực của hệ tư tưởng này, con người đôi khi duy trì được tiềm năng để khắc phục quá trình suy thoái giá trị của chủ nghĩa Mác. Những người tiếp nhận hệ tư tưởng Xô Viết (thực tế, phần lớn xã hội và nhân dân đã tiếp nhận như thế) đều có thể trở thành (nhiều trường hợp, hiện nay vẫn là) những người trung thành tuyệt đối với các nguyên lí nền tảng của văn hoá Nga và văn hoá toàn nhân loại. Hệ tư tưởng được nhào trộn trong men say của cuộc đấu tranh giai cấp triệt để ở thời đại ấy (may sao!) không phải là hệ tư tưởng tiêu cực hoàn toàn. Nó là sự xuyên tạc đầy cay đắng, mang theo hung triệu đối với các giá trị hiển nhiên, nhưng chưa đối lập tuyệt đối với các giá trị ấy, vì rằng, nó vẫn chứa đựng trong bản thân khả năng (tiềm năng) khắc phục, như chúng ta đã chứng kiến những gì diễn ra vào giữa những năm 1950 (thời tan băng và Đại hội XX) và giữa những năm 1980 (bắt đầu cải tổ).

Các nhà nghiên cứu văn học lọt vào sự thống trị của hệ thống quan điểm được ứng dụng một cách chính thống, bắt buộc phải phục tùng, hay tự nguyện tiếp thu chúng, thể nào rồi cũng thu hẹp đối tượng của mình. Trong thành phần của văn chương nghệ thuật có rất nhiều chuyện giao cắt với nhau. Trước hết, đó là những tiên đề và những vấn đề mang ý nghĩa tôn giáo – đạo đức vô cùng quan trọng, không sao có thể đánh giá hết được. Thế mà, các sự kiện của lịch sử văn học lại bị dồn vào một sơ đồ theo yêu cầu hạn hẹp. Các nhà văn – tác gia cổ điển bị đẩy sang hàng ngũ của những nhà đối kháng, những nhân vật tố cáo chế độ cũ, hàng ngũ của các nhà cách mạng hoặc tương tự như họ. Trong đa số trường hợp, tác phẩm của Chekhov được giải thích như là sự báo trước sự xuất hiện sáng tác của Gorki. Dostoievski bị cấm (hoặc bán cấm), vì đó là “nhà văn thậm khả ố” (những lời này của Lênin được xem như một huấn thị và thường xuyên được trích dẫn). Có thể nói, chỉ Pushkin may mắn được phong thánh chính thức. Lễ kỉ niệm lần thứ một trăm ngày mất của ông diễn ra rất ầm ỹ vào năm 1937 là bằng chứng. Nhưng ở đây, có những mất mát cực kì nghiêm trọng: sáng tác của thi hào vĩ đại được đẩy lại gần một cách thái quá với phong trào của những người tháng Chạp. Nhờ các bài viết của Lênin về Tolstoi mà nhà văn này được chú ý và được kính trọng, nhưng ở đây, sự kính trọng cũng bị đẩy lệch một cách thái quá sang phía nội dung tố cáo trong sáng tác của ông. Tuy nhiên, so với những gì đa số các học giả Xô Viết đã khảo sát, thì việc nghiên cứu các văn sĩ – tháng Chạp, Bielinski và Ghersen, Secnysepski và Dobraliubov, Nhecrasov và Santykov-Sedrin, ít nhiều, có phần được tự do và đầy đủ hơn (dù cả ở đây cũng bị mất mát nghiêm trọng).

Văn học mười năm đầu thế kỉ XX bị thu hẹp, giảm thiểu lớn nhất: nó bị “teo tóp” một cách thảm hại đến mức chỉ còn Gorki và Maijakovski mà sáng tác của họ cũng bị diễn giải một cách phiến diện và lệch lạc, Solokhov và Tvardovski (nếu chỉ kể tên các nhà văn lớn). Chẳng những thế, có vô số nhân vật thuộc hạng hai, hạng ba được đưa về phía mặt tiền của sàn diễn nghiên cứu văn học. A. Blok được đánh giá cao chủ yếu nhờ trường ca Mười hai, tác phẩm được diễn giải như là sự ngợi ca cách mạng. Mandelstam và Akhmatova vào những năm 30 (và cả sau này nữa!), dĩ nhiên là bị người ta lờ đi. Các nhà văn – “Nga kiều” hoàn toàn không được nhắc tới (thật ra, Làng của Bunhin được thừa nhận vì giá trị tố cáo nước Nga tiền cách mạng). Sự trấn áp các nhà nghiên cứu văn học và việc thu hẹp có tính cưỡng bức đối tượng nghiên cứu của họ, rõ ràng, đi liền với nhau. Vào những năm 1930 – 1940, “liên minh” giữa chúng trở nên vững chắc và hiệu quả nhất.

*

Những mệnh lệnh – cấm kị và lưỡi hái tử thần của những vụ trấn áp không buông tha bất kì ai đã tạo ra bầu sinh khí đặc biệt, đôi khi ngột ngạt quá sức chịu đựng (với sự tồn tại của giới khoa học), các thế hệ sau này khó có thể hình dung được bầu khí quyển ấy. Không sao tránh khỏi cảm giác căng thẳng và khốn khổ về mối nguy hiểm đang treo lửng lơ trên đầu, cảm giác bất lực, sợ hãi mà những con người can đảm đã phải trải qua.

Chuyện gì cũng ẩn chứa nhiều hiểm hoạ, và nguy cơ lớn nhất là sự giao tiếp cởi mở – chân tình giữa người với người, điều mà M.M. Prisvin đã phải ghi vào nhật kí bằng những lời khủng khiếp sau đây: “Trong số những người trung thành, mình quyết định cắt đứt tất cả, chỉ trừ một vài trụ cột cá biệt hoàn toàn không bao giờ giao động. Cũng chỉ vì mình, vì sự yên tĩnh của mình, đúng là chỉ vì sự yên tĩnh của mình thôi. Nếu không thế, mỗi bận trót nói với ai chuyện gì đó không cần thiết, một thời gian sau sực nhớ, liền thấy hối hận: “mình nói chuyện ấy để làm gì cơ chứ!”. Tất nhiên, khi hồi tỉnh như thế, mình đã nghĩ tới khả năng bị người ta cáo giác. Thế tức là, mỗi lần trò chuyện úp mở với ai là mình đã xúc phạm họ”. Ông viết tiếp: “Có một lời khuyên khá khôn ngoan: “Hãy treo ở nhà mình một bức chân dung nào đó để xác định giới hạn của những cuộc trò chuyện”[2]. Hãy nhớ lại lời của Brodski: một thời, “gần như trong mỗi căn phòng đều có treo chân dung ông ấy”[3] (chân dung Stalin. – V.Kh.), tuy nó cũng rất bấp bênh, nhưng dẫu sao đó cũng là kí hiệu để người ta vững lòng. Đặc biệt, từng xẩy ra tình trạng “đóng kín”một cách bí hiểm trong giao tiếp giữa lớp già và lớp trẻ: cả trong sinh hoạt gia đình, ở trường phổ thông (đặc biệt trong các giờ học văn học và lịch sử), lẫn các trường đại học, mức độ khép kín lớn nhất là ở các khoa đào tạo ngành nhân văn, tức là những đơn vị, như người ta thường nói, tạo thành mắt xích của “mặt trận tư tưởng hệ”.

Lưu trữ loại sách và bản thảo trái với hệ tư tưởng thống trị cũng là một mối nguy hiểm. Tôi đã nhìn thấy trong thư viện riêng của một gia đình cuốn hợp tuyển thơ ca Nga đầu thế kỉ xuất bản vào những năm 1910 – 1920, trong đó, tất cả những trang in thơ của Gumilev[4] đều bị xé bỏ, đến họ tên của thi sĩ ở phần mục lục cũng bị bôi mực đen rất cẩn thận. Theo hồi ức của S.G. Bocharov, ta biết, M.M. Bakhtin đã huỷ bản thảo Những người không chết của mình, cuốn sách nói về tội lỗi của những ai đã thích nghi theo cách này hay cách khác với trật tự đời sống thời trước cách mạng. A.A. Akhmatova kể lại, vào đầu những năm 1930, bà đã nhìn thấy khói bốc lên từ bếp lò của nhiều nhà trong thành phố: người ta đốt sách và bản thảo.

Nhưng vô số văn bản không phù hợp với hệ tư tưởng chính thống (văn học nghệ thuật, phê bình văn học, chính luận, triết học) vẫn tiếp tục tồn tại, tiếp tục được sáng tạo thêm ngay cả trong thời kì ảm đạm nhất. Chúng, những văn bản ấy, không có đường đến với công chúng, không tồn tại dưới dạng ấn phẩm, không có hình dạng giống với loại “Samizdat” ở thời đại sau này. Đó là thứ văn học được giấu kín, nó cẩn thận giữ mình, tránh sự soi mói của những “cặp mắt lạ”: đó là những người, như vẫn nói, “viết vào bàn”. Không ai đảm bảo sẽ tránh được sự lục soát. Cho nên, bản thân việc lưu giữ các văn bản dưới dạng đã in ấn và bản thảo như thế đòi hỏi người ta phải can đảm và khả năng dám mạo hiểm. Nó được gọi là loại văn học tránh khám xét. Những công trình được xuất bản hai ba chục năm sau đó (một phần hoặc toàn bộ) của các tác giả như S.A. Askoldov (Bốn cuộc trò chuyện (Những mảnh rút ra từ cuốn tiểu thuyết đã phác hoạ)Hình ảnh suy ngẫm của Đức Kitô – Những năm 1930)[5], của A.A. Meier (trong loạt Suy nghĩ khi đọc “Faust”, 1935, một công trình rất phổ biến và có nội dung sâu sắc, mà, theo chúng tôi, tạo thành một mắt xích trọng yếu của ngành “Faust học” ở Nga[6]), của A.A. Zolotarev, tác giả của bản thảo Cuốn sách về những cuốn sách. Ghi chú để nhớ và nhận xét cho bản thânNhật kí văn học giai đoạn 1939 – 1940, cũng như luận văn Về Hegel và chủ nghĩa Hegel (1940), trong đó triết học Mác – Lênin được đánh giá như một hệ thống vu vơ, vô căn cứ[7]. Nhân đây cũng nên nhắc: những cuốn nhật kí được ghi trong những năm khác nhau và hàng chục năm liền của L.Ja. Ghinburg, K.I. Chukovski, M.M. Prisivin là kho bằng chứng vô giá về thời đại đã mãi mãi để lại dấu ấn riêng của mình.

Thời đại Stalin và, về cơ bản, mấy chục năm liền sau đó, là thời đại của những thoả hiệp mà các nhà văn, học giả, nhất là các nhà nghiên cứu văn học, không sao tránh khỏi. Những thoả hiệp này cực kì đa dạng, đôi khi chúng diễn ra rất vòng vèo. Những ghi chép trong thời gian 1920 -1930 của Ghinburg đã nói lên sự nghiệt ngã vô hạn của điều đó (có thể nó được nói quá lên, nhưng chắc chắn, đó không phải là những chuyện vô căn cứ). Những ghi chép ấy phải chờ mãi đến năm 1989 mới được xuất bản. Xin dẫn ra đây một số trích đoạn. 1929: “Buộc phải viết lén”. (Theo lời kể của A.A. Zolotarev, thời gian này và cả sau đó, nhà sử học I.M. Gpevs phải “làm việc lén lút”). 1932: “Người ta đã học được lối viết quả là không tồi, viết không có tư tưởng”. 1932: “Mọi chuyện thế là đã rõ: viết để in, thì không được nữa, chỉ có thể viết nhăng viết cuội thôi”. Nhiều năm sau, khi nhớ lại thời đại ấy, Ghinburg viết: “Điều khiến tôi ngạc nhiên, ấy là việc từ trong bản chất, con người bao giờ cũng trung thực, dù người ta nghĩ và nói về những việc rất khác nhau”[8].

Đồng thời, những học giả xứng đáng với danh hiệu ấy vẫn kiên trì tìm cách giảm tối đa sự thoả hiệp mà họ không thể né tránh. Họ viết và cho xuất bản những gì họ thực sự suy ngẫm, mặc dù họ phải sử dụng lối diễn đạt theo “lối nói gói kín” (chữ của A.P. Skaftymov) và “tỏ dấu hiệu giả vờ thành thực” (chữ của V.M. Markovich). Các học giả còn tìm đủ mọi cách im lặng và lối nói nửa vời. Đây là đoạn nhật kí tuyệt vời của M.M. Prisvin (1932): “Nhiệm vụ của nhà văn bây giờ là phải giữ sao cho nổi rõ lập trường Xô Viết, nhưng đồng thời, không được đánh mất bản thân”[9]. Những hành động nửa vời nhằm chống lại hệ tư tưởng chính thống đã được thực hiện trong hình thức mập mờ như vậy.

Một trong số “chủng loại” thoả hiệp là tác giả tự kiểm duyệt, kiểm duyệt tự nguyện và tự động. Chẳng hạn, năm 1928, V.M. Zyrmunski tự chỉ trích mạnh mẽ những bài viết đầu tay được đưa vào cuốn Những vấn đề lí luận văn học. Cả cuốn sách Thơ Aleksandr Blok ông viết năm 1922, trong đó phần bàn rất nhiều về quan điểm triết học – tôn giáo của thi sĩ, đã bị lược bỏ hai lần, cuối cùng biến thành một bài báo Thi pháp Aleksandr Blok. Nhà nghiên cứu đã xoá bỏ toàn bộ những gì liên quan tới truyền thống tôn giáo của Akhmatova trong bài Những người khắc phục chủ nghĩa tượng trưng (1916). Đoạn thể hiện hy vọng, rằng cùng với thời gian chúng ta sẽ chiếm lĩnh được văn học vừa mang tinh thần tôn giáo, vừa có tính hiện thực chủ nghĩa đích thực, cũng bị loại bỏ. Ông viết: “Chúng ta ước mơ, rằng thơ mới sẽ không thành thơ của chủ nghĩa cá nhân, không thành thơ thành thị, mà trở thành thơ mang tính toàn dân, tính dân tộc, nó sẽ được toàn thể nước Nga, truyền thống lịch sử và những mục tiêu lí tưởng của đất nước nuôi dưỡng”[10]. Xóa bỏ nhiều đoạn như thế của các bài viết đầu tay trong ấn phẩm mới, dĩ nhiên, Zyrmunski đã làm méo mó bản thân mình. Nhưng nếu không làm như thế, thì sẽ không thể nào có được cuốn sách in năm 1928.

Dấu hiệu đáng sợ của thời đại toàn trị là đòi hỏi các nhà khoa học bắt buộc phải thừa nhận sai lầm cá nhân. Để tránh mối hoạ bị trấn áp, các nhà khoa học từng “chệch đường” ở đâu đó và đã bị phê bình trên báo chí hoặc trong hội nghị sinh hoạt đảng dứt khoát phải thừa nhận sai lầm cá nhân, tức là phải sám hối. Lễ nghi sám hối được gọi là tự phê bình, nó vô tình nhại lại (lộn ngược lại) lễ xưng tội trong nhà thờ. Dưới thời Stalin, dân chúng truyền tụng một lời khuyên buồn cười ra nước mắt dành cho mỗi người thế này: “Đừng nghĩ! Nghĩ rồi, thì đừng viết. Viết rồi thì đừng in. In rồi, thì sám hối!”.

Tục lệ buộc phải thừa nhận lỗi lầm có tính chất hạ nhục con người thời Xô Viết có rất nhiều hình thức khác nhau. Đó là những lời phát biểu trong hội nghị hoặc trên báo chí, cũng như những lá đơn viết tay gửi lên các cấp quản lí cao hơn. Nằm nơi ngọn nguồn, nếu có thể nói, của thể loại khoa học này là: Đài tưởng niệm sai lầm khoa học của V.B. Sklovski (1930). Về cái văn bản đáng buồn khét tiếng ấy, rất lâu sau, L.Ja. Ghinburg nói với A.P. Chudakov: “… khi ấy đó là chuyện bình thường. Người này không sám hối, thì có người khác thôi”. Và bà nhấn mạnh, rằng Shklovski (ý muốn nói tới quá khứ “đảng xã hội – cách mạng” của ông) sẽ khó giữ được lành lặn với cái lí lịch như vậy”[11]. V.F. Pereverzev có lời khuyên rất đáng nhớ dành cho môn đệ và học trò của mình (vào thời ấy): “Hãy rũ bỏ tất cả những gì các anh đã viết. Những gì học được ở tôi cũng làm vậy”[12]. Nhân đây xin nhắc lại chuyện Akhmatova đã hành xử thế nào vào năm 1946, khi bà bị buộc tội bôi nhọ (Báo cáo của Zdanov, nghị quyết về các tạp chí “Ngôi sao” và “Leningrad”). Khi người ta “gần như bắt buộc” Anna Andreievna đi gặp một phái đoàn sinh viên Anh, người ta hỏi bà, xem bà đánh giá thế nào về các nghị quyết. Mấy năm sau Akhmatova kể với L.K. Chukovskaija là mình đã trả lời thế này: “Hai tài liệu, cả bài phát biểu của đồng chí Zdanov, lẫn quyết nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tôi nghĩ là hoàn toàn đúng đắn”[13].

Thể loại sám hối đạt tới độ hưng thịnh nhất trong thời kì đấu tranh chống chủ nghĩa thế giới: những người buộc phải thú nhận bằng văn bản đã phạm phải tội này là V.Ja. Propp, B.M. Eikhenbaum, V.M. Zyrmunski. G.A. Gukovski định chống lại điều đó, nhưng kết cục lại tồi tệ hơn.

Một cái gì tương tự như thế cũng diễn ra lúc ấy ở Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Tổng hợp MGU. G.N. Pospelov đã “sám hối” sau hàng loạt đòn tấn công vào ông trong nhiều cuộc hội nghị và trên báo chí[14]. Đây là một đoạn bài phát biểu của ông trong hội nghị Bộ môn Lịch sử văn học Nga diễn ra ngày 25.2.1949: “Tôi thấy cần phải phê phán nghiêm khắc những bài viết của tôi và suy ngẫm về nguồn gốc sai lầm của mình”. Ông viết tiếp theo thế này: “Tôi thấy, chuyện xẩy ra với tôi cũng tương tự như với những trưởng biên tập các tạp chí ở Leningrad, những tạp chí đã đem in nhiều tác phẩm thù địch và đồi bại của Zoshenko và Akhmatova”[15]. Đọc văn bản này (chỉ gần đây, tôi mới tìm thấy văn bản), thấy quá khủng khiếp và chua xót.

Cho tới thời hậu Stalin, nghi lễ sám hối vẫn tiếp tục được duy trì, tuy có nhẹ nhàng, mềm mỏng hơn: bây giờ phê bình chính thức chỉ là sự đe doạ mất việc, bị thải hồi khỏi cơ quan. Đây là một trong những trường hợp như vậy. Giữa những năm 1970, Viện Văn học thế giới chuẩn bị tập tiếp theo (tập 3) bộ Những tượng đài văn học trung đại. Rồi nổ ra chuyện ầm ỹ, om sòm. Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô nổi đoá vì có quá nhiều văn bản tôn giáo và những lời bình chú đích đáng dành cho các văn bản ấy. Giám đốc Viện Văn học thế giới (“ИМЛИ”) B.L. Sutskov bị khiển trách. Sutskov liền gọi Bộ môn văn học cổ (Trưởng bộ môn là M.L. Gasparov). Nhiều năm sau, M.L. Gasparov kể lại: “Sutskov giải thích cho chúng tôi, văn hoá trung đại có tính chất ngu dân như thế nào. Chúng tôi nói “chúng tôi hiểu rồi ạ”, nhưng hình như vẫn chưa thật tin, nên Sutskov bèn nói phóng mãi lên. Khi ông ấy nói, nạn trộm cướp hoành hành rất ngang ngược trong các nhà thờ châu Âu, tôi bắt đầu thấy bất yên, há hốc miệng. Averinsev ngồi bên cạnh, giữ tôi lại. Sau đó ông ấy bảo: “Anh muốn mất chức à?” … Thế là tôi viết bản thú nhận các sai lầm theo đúng mọi yêu cầu của thể loại ấy và đem ra đọc. Tờ giấy tôi vẫn còn giữ”. Đây là một đoạn của văn bản vừa dẫn: “Chúng tôi quên rằng, các văn bản tôn giáo có thể bị công chúng hiểu không đúng… Những lời chỉ dậy của Marx và Engels chưa được vận dụng đúng mức…” Tiếp nữa: “ Tập thể Bộ môn thừa nhận những sai lầm và sẽ tìm biện pháp để xoá bỏ hoàn toàn những sai lầm ấy trong công việc sau này”[16]. Xin lưu ý, cuốn sách khiến giới lãnh đạo nổi giận vào những năm 1970, mãi tới năm 2006 mới được xuất bản.

Ai đã ném đá vào các nhà khoa học từng mấy chục năm buộc phải thoả hiệp và thay vì kiên quyết bảo vệ lẽ phải, họ phải công khai thừa nhận cái được gọi là sai lầm của mình?

Có vẻ như ngược với tất cả, toàn bộ nỗi kinh hoàng đã làm nảy sinh ở các nhà khoa học lao động sáng tạo tình cảm nhẫn nhục hết sức nặng nề. Năm 1971, khi trò chuyện với S.G. Bocharov, M.M. Bakhtin đã nói như sau về những công việc đã làm với cuốn sách Những vấn đề sáng tác của Dostoievski (1929), mà cũng có thể ông muốn nói tới lần biên tập vào năm 1963: “Ở đó lúc nào tôi cũng buộc phải ngoe nguẩy – chạy tới chạy lui. Buộc phải kìm nén, giữ mình. Chỉ có ý nghĩ là vận động và cần bắt nó dừng lại”[17]. Mẩu chuyện chuẩn bị bảo vệ luận án về Rabelais cũng thuộc loại như vậy. Vào quãng 1949 – 1950, theo yêu cầu của VAK (tiếng Nga : “ВАК” – Hội đồng giám định tối cao – ND), Bakhtin đã viết phần dẫn luận cho luận án. Nhiều năm sau, trong thư gửi V.V. Kozynov, ông nói về việc trên như sau: “Tôi đã phải bổ sung bản thảo theo yêu cầu của Hội đồng giám định VAK và viết thêm vào đó nhiều thứ dung tục bỉ ổi cho đúng theo với tinh thần của thời ấy”[18]. Còn đây là mấy câu rút ra từ cuộc trò chuyện của A.F. Loshev với V.V. Bibikhin: “Trong các công trình của tôi, chỗ nào cũng trích dẫn Mác. Dẫu sao cũng phải tuân thủ lễ nghi”. “Không làm thế, anh sẽ bị khốn khổ”. Đoạn sám hối này mới thật là đau đớn: “Tôi vác chủ nghĩa Stalin trên đôi vai mình. Mọi người đều tán thành Marr, cả tôi cũng tán thành Marr. Nhưng sau đó tôi lại buộc tội Marr”. Và V.V. Bibikhin bình luận những lời sám hối ấy như sau: “Tôi lấy làm ngạc nhiên khi thấy hồi ức về những năm 30 hành hạ ông ấy đau khổ đến thế”[19].

Sau thời kì Stalin vài chục năm, những gì vừa nói ở trên (nỗi sợ hãi của các nhà khoa học, sự thoả hiệp và nghi lễ sám hối của họ) giảm bớt dần một cách rõ rệt. Có một sự thật quan trọng: từng yêu cầu M.L. Gasparov “đừng để mất chức”, nhưng ngay trong thời gian ấy (thậm chí, trước đó rất lâu, vào những năm 1960 – 1970), bản thân S.S. Averinsev, trong khi tiếp xúc với một cử toạ đông đảo (khoa lịch sử MGU), đã rất hào hứng nói về văn hoá trung đại với những cơ sở tôn giáo của nó. Có thể thấy, bên ngoài môi trường công vụ, nơi những cấm kị chính thức không thể duy trì sức mạnh của nó, người ta đã có thể ăn nói tự do.

Từ thập niên này quan thập niên khác, chế độ kiểm duyệt tư tưởng hệ Xô Viết ngày càng giảm nhẹ dần. Chuyện mang nhau ra “cạo” về sau này không còn nữa. Vụ “khiển trách” cuốn sách Truyền thuyết Nga cổ do V.V. Kuskov xuất bản (1982), có lời mở đầu của ông, chắc chắn là trường hợp cuối cùng. Nhân viên canh giữ các giáo điều của chủ nghĩa vô thần cho rằng Kuskov đã “mủi lòng trước tác phẩm của một tăng lữ – thày chùa” nên đã đồng nhất “việc thờ phụng chúa trời… với sự phục vụ lợi ích của đất nước”[20]. Khi nghe tôi hỏi, liệu bài báo nói trên có gây phiền hà cho công việc ở cơ quan hay không, Kuskov cười vui vẻ, phẩy tay làm ra bộ coi thường và bảo chẳng thấy mối nguy hiểm nào. Đến trước cải tổ, thời đại trấn áp những kẻ “lệch lạc” cũng hoàn toàn kết thúc. Những “lối nói bọc lót” thời này xuất hiện ít hơn. Việc trích dẫn các vị kinh điển Mác – Lênin được hạn chế tối đa, nó biến thành một thứ nghi thức vô thưởng vô phạt, hoặc người ta hoàn toàn không làm như thế nữa.

Nhưng cho đến tận những năm 1989 -1991, trong các luận văn, luận án, danh mục tư tiệu tham khảo vẫn cứ bắt buộc phải mở đầu bằng tác phẩm của các tác gia kinh điển chủ nghĩa Mác và tư liệu các Đại hội đảng gần nhất. Danh mục tài liệu tham khảo mà các sách giáo khoa, giáo trình Dẫn luận nghiên cứu văn họcLí luận văn học buộc sinh viên phải đọc cũng giống hệt như vậy. Trong các giáo trình giảng dạy những môn học trên, suốt nhiều thập kỉ, bao giờ cũng có các phần như tính giai cấp, tính đảng (và giải thích kèm theo), tính nhân dân của văn học. Bất kì ai cũng không dám bỏ qua các điển chế ấy. Đây là lời trong bài Tựa viết cho tập bài giảng tuyệt vời của V.M. Zyrmunski (nửa sau những năm 1950) được xuất bản sau khi ông mất: “Chúng tôi in lại văn bản các bài giảng … hầu như không có sự sửa chữa đáng kể nào”, nhưng “một trong những phần thời ấy buộc phải in”[21] đã được loại bỏ. Xin nhấn mạnh, cái “thời ấy” kéo dài sát tận tới những năm 1980 – 1990.

Đồng thời, trong khoa học nhân văn ở “thời kì hậu tan băng”, chủ nghĩa Mác dưới dạng bị cơ chế dung tục làm méo mó một cách nghiêm trọng trong suốt nhiều thập kỉ trở thành tài liệu cực kì phổ biến. Đây là đoạn ghi chép của M. Mamardasvili: “Ngày nay chúng ta có một thứ “chủ nghĩa Mác lè nhè””[22].


[1] N.V. Kornhenko – “Tan băng thời NEP”… Tr. 46. Xem thêm tài liệu này ở các trang 44 – 52. Ngay từ năm 1927, L.Ja. Ghinburg đã nhận ra xu hướng tư tưởng hệ hung triệu này: “Ở ta bây giờ được phép bộc lộ mọi tình cảm quốc gia, ngoại trừ tình cảm đại Nga… Điều đó sỉ nhục lòng trung thành của chúng ta đối với văn hoá Nga” (L.Ja. Ghinburg – Nhật kí. Hồi ức. Tiểu luận. Spb., 2002, tr. 380).

[2] M.M. Prisvin – Nhật kí.1938 – 1939. Spb., 2010. Tr. 5.

[3] Iosif Brodski – Suy ngẫm về con quỷ// “NLO”, 2000, số 45. Tr. 149.

[4] N.S. Gumilev (Sinh năm 1886 trong một gia đình quý tộc, mất năm 1922): Nhà thơ của “thế kỉ bạc”, người sáng lập trường phái đỉnh cao, dịch giả, nhà phê bình văn họ – ND.

[5] Xem: Các con đường và những vũ trụ của văn hoá Nga. Spb., 1994, tr. 402 – 508.

[6] Xem: A.A. Meier – Luận văn triết học. Paris, 1982. Bài dẫn nhập của V.N. Toporov (Bút danh – S. Dalinski).

[7] Xem: A.N. Anhinkovska, V.E. Khalizev – Về đời sống văn học ở Nga những năm 1930 – đầu những năm 1940// “Khoa học ngữ văn”, 1962, số 2; A.A. Zolotarev – Về Heghel và chủ nghĩa Heghel// “Những vấn đề triết học”, 1994, số 5.

[8] L.Ja. Ghinburg – Nhật kí. Hồi ức. Tiểu luận. Tr. С. 79, 112, 394.

[9] A.A. Prisvin – Nhật kí. 1932 – 1935. Spb., 2009, tr. 133.

[10] V.M. Zyrmunski – Những người khắc phục chủ nghĩa tượng trưng// “Tư tưởng Nga”, 1916, số 12. Tr. 56. Trong một ấn phẩm có uy tín, các công trình của vị học giả trẻ, rất tiếc, các văn bản tái bản đã bị “cắt bỏ” để xuất bản vào năm 1928 (Xem: V.M. Zyrmunski – Lí luận văn học. Thi pháp. Tu từ học. L., 1977).

[11] A.P. Chudakov – Trò chuyện với Ghinburg// “NLO”, số 49 (2001). Tr. 231.

[12] Vào những năm 1920 -1930, diệu pháp chối bỏ và sám hối trong giới học giả ngữ văn học đạt tới giới hạn cao nhất và quái gở nhất. Người ta yếu cầu các môn đệ của A.M. Deborin (1881 – 1963, nhà triết học marxiste, sáng lập viên Viện triết học Viện hàn lâm khoa học Liên Xô.- ND) viết bài tố cáo ông (“Dưới lá cờ của chủ nghĩa Mác”, 1931, số 1, 3-4, 11-12; 1932, số 1-2). Sự phản bội tập thể của Deborin với các học trò về sau này được gọi chính xác là sự vi phạm và huỷ hoại “các nguyên tắc đạo đức ngàn đời của giới trí thức Nga” (G.A.Belaja – Những chàng Don Quixote những năm 1920. “Cái đèo” và số phận lịch sử của nó. M., 1989. Tr. 330.

[13] L.K. Chukovskaja – Ghi chép về Anna Akhmatova. Bộ 3 tập. T. 3. M., 1997. Tr. 94.

[14] Xem: V.E. Khalizev – G.N. Pospelov trong cuộc đấu tranh chống lại “chủ nghĩa tự do tư sản” và “chủ nghĩa thế giới” của A.N. Veselovski (1947 – 1949)// Đã được nhận in trong Nghiên cứu văn học Nga thế kỉ XX: tên tuổi, trường phái, quan niệm. Nxb.: MGU.

[15] Lưu trữ cá nhân của tác giả bài báo này.

[16] M.L. Gasparov – Ghi chép và trích lục. Spb. 2008, tr.83.

[17] S.G. Bocharov – Về một cuộc trò chuyện và xung quanh cuộc trò chuyện ấy// S.G. Bocharov.- Những truyện kể của văn học Nga. M., 1999, tr. 475.

[18] M.M. Bakhtin – Tuyển tập. Bộ 6 tập. T. 4 (1). M., 2010, tr. 921.

[19] V.V. Bibikhin – A.F. Loshev. S.S. Averinsev. M., 2004, tr. 217, 173, 270.

[20] N. Tarasenko – Thời đại tìm kiếm. Mấy ý kiến về văn học vô thần// “Sự thật”, 1983, 15.5.

[21] Xem: V.M. Zyrmunski.- Dẫn luận nghiên cứu văn học. Tập bài giảng. Spb., 1996. Tr. 7

[22] M. Mamardasvili – Sự cần thiết với mình. Dẫn luận triết học. M., 1996. Tr. 203.

Comments are closed.