Thuật ngữ chính trị (122)

Phạm Nguyên Trường
289. Law and Order – Luật pháp và trật tự. Luật pháp và trật tự là nói về tình trạng xã hội, trong đó luật hình sự và dân sự được áp dụng và những cơ quan nào đó, ví dụ, cảnh sát, chịu trách nhiệm bảo đảm trật tự ở trong nước. Nói chung, luật pháp và trật tự được hầu hết những người bảo thủ và nhiều người theo chủ nghĩa tự do coi là yêu cầu cơ bản của một nhà nước, vì không có luật pháp và trật tự thì xã hội dân sự, các quyền tự do chính trị và tự do dân sự sẽ không thể nào tồn tại được. Luật pháp và trật tự, trong ngôn ngữ đời thường, có nghĩa là lực lượng cảnh sát hùng hậu và quan tâm đến việc kiềm chế tội ác và hành động phá hoại. Do đó, luật pháp và trật tự có thể trở thành vấn đề mà người dân quan tâm trong các cuộc vận động bầu cử trong chế độ dân chủ.

290. Leadership – Khả năng lãnh đạo. Khả năng lãnh đạo là khả năng của một người hoặc một nhóm người trong việc thuyết phục người khác hành động bằng cách truyền cảm hứng cho họ và làm cho họ tin rằng đường lối hành động được đưa ra là đúng đắn. Lãnh đạo chính trị thường được coi là phẩm chất quý giá, trừ khi nhà lãnh đạo trở nên quá tự tin về địa vị của mình và không chịu nhận trách nhiệm giải trình trước những đảng viên thường hoặc trước cử tri. Lãnh đạo, trong những triết lý lãng mạn hoặc phát xít, có thể có vai trò đặc biệt, nhưng trong nền chính trị dân chủ bình thường, nó được coi là đặc điểm thông thường của tiến trình chính trị.

Đôi khi nhóm tinh hoa cầm quyền của đảng có thể được coi là ban lãnh đạo của đảng đó. Ví dụ, ở Liên Xô, Đảng Cộng sản nhấn mạnh “lãnh đạo tập thể”, coi đó là nguyên tắc cơ bản của quản trị, trái ngược với thời kỳ Stalin, khi một người nắm toàn quyền lãnh đạo được coi là bình thường. Ở nhiều nước – đặc biệt là những nước mới giành được độc lập – các nhà lãnh đạo thường được coi là cha già của dân tộc hay của đất nước. Tuy nhiên, lãnh đạo ở các nước thuộc Thế giới Thứ ba thường khó tồn tại trong một thời gian dài vì các thể chế chính trị không bền vững và kinh tế ngày càng phát triển.

291. Leadership selection – Lựa chọn ban lãnh đạo. Lựa chọn ban lãnh đạo là tiến trình lựa chọn những nhân vật lãnh đạo chủ chốt của tổ chức. Trong hầu hết các nước, người ta thường quan tâm tới những biện pháp mà các đảng phái chính trị sử dụng nhằm lựa chọn người lãnh đạo đảng, cũng là những người sẽ trở thành lãnh đạo quốc gia ngay sau đó hoặc sau cuộc tổng tuyển cử.

Có 5 hình thức lựa chọn lãnh đạo như sau.

1. Bởi một người duy nhất. Đấy là khi người đó thành lập đảng và coi đảng là phương tiện nhằm thực thi quan điểm chính trị của mình hoặc khi người sắp mãn nhiệm chỉ định người kế nhiệm nhằm tránh cuộc xung đột có thể đưa đảng đến chỗ tan rã.

2. Bởi một nhóm tinh hoa trong đảng hoặc bằng bầu cử hay thỏa thỏa thuận. Quá trình này thường diễn ra trong những đảng được thành lập trước khi xuất hiện nền chính trị dân chủ đại chúng, và trong các hệ thống chính trị trung ương tập quyền, tôn trọng các giá trị tinh hoa.

3. Bởi các đảng viên trong cơ quan lập pháp. Các đảng trong hệ thống đại nghị thường sử dụng phương pháp này. Người lãnh đạo trước hết phải là người lãnh đạo của đảng trong cơ quan lập pháp và được các đảng viên trong cơ quan này ủng hộ. Ở Anh, các đảng như Công đảng, đảng Tự do và đảng Bảo thủ đều sửa dụng biện pháp này.

4. Bởi cử tri đoàn của đảng. Các đảng viên trong cơ quan lập pháp cùng với các đảng viên bên ngoài cơ quan này – là những người đại diện hoặc đại biểu của đảng – tạo ra cử tri đoàn để bầu lãnh đạo.

5.  Bởi cuộc bầu cử của toàn thể đảng viên của đảng.

Comments are closed.