Vẫn còn nhớ nhau (chuyện trẻ sơ tán)

Nguyễn Thị Hậu

Một dịp trò chuyện với nhà văn Lê Minh Hà, lỡ “xui dại” Hà và hứa sẽ cùng “viết về tuổi thơ hoang mang của chúng mình”. Vậy nhưng lu bu công chuyện và cũng làm biếng nữa, chưa kịp viết thì Hà đã xuất bản cuốn truyện CÒN NHỚ NHAU KHÔNG hay quá là hay! Chuyện của tôi thì không là truyện, nên cũng may, không làm hỏng cuốn sách của bạn.

Nhưng vẫn viết lại đây, để cho mình, cho hai con. Và để bạn biết, vẫn còn nhớ nhau!

TÂN CHI

1.

Sau sự kiện Vịnh Bắc bộ ngày 5 tháng 8 năm 1964, chiến tranh bùng nổ ở miền Bắc. Nhận biết đầu tiên về chiến tranh là khi má mang về nhà 5 cái ba-lô may bằng vạt bạt màu ghi.

– Má ơi cái này là cái gì?

– Ba lô con ạ.

– Để làm gì má?

– Để mang quần áo đi sơ tán.

– Đi sơ tán là đi đâu má, có đu quay, có kẹo bông không, má?

– …

Má lặng thinh, mắt đỏ hoe. Tôi đã không biết rằng cái ba lô là dấu hiệu sự chia ly rất lâu của gia đình. Sau đó ít ngày anh tôi, ba tôi lên đường ra chiến trường.

Một đêm Hà Nội tháng mười cuối thu, gió mùa đông bắc sớm tràn về. Má đưa tôi lên nhà trẻ ở đầu Hàng Bông Thợ Nhuộm (bây giờ nhà trẻ này vẫn còn). Ở đó đã có mấy chục bà mẹ ông bố đưa con đi sơ tán. Bọn trẻ ngủ gà ngủ gật, bố mẹ thì thầm trò chuyện lo lắng vì để các con đi theo nhà trẻ, còn mình phải ở lại Hà Nội làm việc… Bỗng một tiếng còi huýt lên, bọn trẻ giật mình ngơ ngác, bố mẹ giật mình hoảng hốt… Đến giờ tôi vẫn ghét kinh khủng tiếng còi huýt, bởi vì nó đã cắt lìa tuổi thơ của tôi với ba má, nó ném tôi – con bé mới gần 5 tuổi – vào những năm dài sơ tán lúc có lúc không gia đình bên cạnh.

Má đưa tôi lên xe, chọn một chỗ ngồi cạnh cửa sổ vì biết tôi hay bị ói khi đi xe. Nhìn má đi xuống xe tôi bỗng hốt hoảng mếu máo: má ơi ngồi đây, má đi đâu rồi? Một tiếng nói gắt gỏng: con bé kia lớn rồi không được khóc, các bạn khóc theo bây giờ! Sợ quá, tôi nín bặt. Má tôi nắm chặt tay tôi, nước mắt lã chã… Nhưng rồi trong bọn trẻ cũng có đứa khóc òa… Đứa nào cũng biết từ đây mình phải xa cha mẹ… Xe chạy rồi tôi vẫn thấy má đứng đó với đôi môi mím chặt và những giọt nước mắt tuôn rơi…

Thế là lần đầu đi sơ tán một mình, tôi về Tân Chi (tỉnh Bắc Ninh). Mấy tháng ở đó xa ba má, tôi và vài đứa nữa là trẻ lớn nhất của trại. Mỗi tối các cô bảo mẫu đều đi về với gia đình của họ, để lại tất cả bọn trẻ nằm như cá hộp trên sạp tre trong ánh đèn dầu leo lét. Mấy đứa lớn thành “bảo mẫu” bất đắc dĩ, dỗ đứa nào khóc, thay quần áo cho đứa đái dầm, đắp chăn cho đứa lạnh co ro… Bây giờ gặp lại, nhiều người đã thành ông bà nội ngoại, vẫn nhớ: bà này ngày xưa thay quần cho tui nè.

Nhiều buổi sáng sớm mùa đông, một mình con bé 5 tuổi là tôi đi ra cái quán đầu làng mua bánh khoai về cho bọn trẻ ăn sáng. Bánh làm bằng khoai sọ xắt mỏng rồi hấp lên, giã ra, gói vào lá chuối có nhân đậu xanh và chút thịt mỡ rồi luộc lại lần nữa. Thỉnh thoảng mua được bánh nóng, mùi lá chuối khô, mùi khoai, mùi đậu xanh quyện vào nhau bốc hơi thơm lừng. Nhưng bánh khoai sọ ăn nguội cũng ngon lắm, miếng khoai vừa bùi vừa dẻo, hơi lành lạnh khi ăn vào buổi sáng mùa đông. Cảm giác ngon lành đến giờ còn nhớ. Cái đói và thèm ăn làm quên đi nỗi sợ khi phải đi một mình trên đường làng còn tối om, tre già hai bên kẽo kẹt, thỉnh thoảng có cơn gió cuốn lá tre bay xào xạc, con bé sợ hết vía co chân chạy một mạch. Một lần đánh rơi chiếc mũ len không dám quay lại nhặt, khi về đến trại đầu ướt nhẹp vì mưa phùn gió mùa đông bắc. Sốt nằm một mình, mơ thấy má, nước mắt đẫm gối…

Đến giờ tôi vẫn không hiểu được một điều: vì sao các cô bảo mẫu có thể để chúng tôi – một lũ trẻ con như trứng gà trứng vịt, đêm nào cũng ở lại trong ngôi nhà đèn dầu leo lét, có khi gió lùa tắt ngúm, mà không có một người lớn nào bên cạnh? Cũng may ban đêm ít có báo động máy bay Mỹ ném bom… Hay vì nghĩ thế nên các cô yên tâm về nhà với con của mình và mặc kệ con cái người khác?

2.

Nhớ thời gian đầu mới đi sơ tán, anh Hai tôi hay lên thăm, anh thương cô em út nhõng nhẽo nhất nhà chưa từng xa ba má. Lúc đó anh Hai tôi làm việc tại Đoạn đầu máy – toa xe Hà Nội, mỗi lần lên thăm anh mang bánh mì và cà chua hồng, món ăn khoái khẩu của tôi hồi nhỏ. Lần ấy anh và bạn là anh Quảng đạp xe đến Tân Chi đón tôi và em Điệp (ở cạnh nhà tôi) về nhà chơi, vì ba tôi và má em Điệp sắp đi biểu diễn ở chiến trường. Trời chiều chuyển gió mùa Đông Bắc, hai anh gò lưng đạp xe còn hai em ngồi sau lạnh run cầm cập, các anh cởi áo bông mặc thêm cho em. Xe anh Quảng còn bị đứt xích, anh phải vịn vai anh Hai để kéo theo. Tối mịt mới đến ga xe lửa vừa kịp chuyến tàu chợ, các anh “nhét” hai em qua cửa sổ tàu rồi chạy về toa gửi xe đạp, vừa vội vàng trả lời khi ông soát vé chặn đường “tôi làm ở đầu máy Hà Nội”. Toa tàu chợ đầy bao củi than, rọ gà heo, những thúng bắp cải su hào… hai đứa bé lạnh phát sốt, được mấy bà buôn chuyến hỏi thăm rồi cho ăn cơm nắm với muối vừng. Nửa đêm mới về đến Hà Nội, tôi và em Điệp còn ngái ngủ chưa kịp hiểu gì thì đã nằm gọn trong vòng tay của ba má ra đón.

Thời gian trôi qua. Những ngày sơ tán bọn trẻ đã lớn lên rất nhanh, không phải chỉ thể chất mà là tinh thần, tự lập sớm hơn, học và biết được nhiều điều từ cuộc sống ở nông thôn. Thế nhưng cái cảm giác “bị bỏ rơi”, cô đơn, tủi thân khi ốm đau khi nhớ cha mẹ của những ngày sơ tán ấy dường như không phai mờ… Rất lâu sau này trong cuộc sống, mỗi khi có gì khó khăn bế tắc, nhiều người chúng tôi vẫn không thể chia sẻ với người thân, luôn co mình lại trước bạn bè… Sự tổn thương (không ai muốn) từ ngày thơ ấu đã để lại dấu ấn này, gây ra sự bất hạnh cho không ít người.

Sau này trong bất cứ hoàn cảnh nào không bao giờ tôi để các con tôi phải một mình như tôi lúc ấy!

SEN HỒ

3.

Làng Sen Hồ (chẳng nhớ xã huyện nào, chỉ nhớ là tỉnh Bắc Ninh) là nơi tôi đi sơ tán cùng với Đoàn cải lương Nam bộ – ba tôi làm Trưởng đoàn. Bây giờ từ Hà Nội sang Bắc Ninh chỉ vài chục phút xe máy nhưng hồi ấy sao thấy xa xôi đến thế…

Lần ấy tôi đi cùng với chị Hiền, tôi gần 6 tuổi còn chị tôi 13 tuổi, vừa học xong học lớp bảy. Chúng tôi ở đó vào mùa hè, chỉ ở tạm chờ khi nào cơ quan má tôi đi sơ tán thì chị em tôi sẽ đi cùng với má. Ba tôi là nghệ sĩ, bình thường cũng đi lưu diễn quanh năm suốt tháng có mấy khi ở nhà, má tôi chẳng yên tâm chút nào khi giao con cho ông, dù ba tôi cũng rất cố gắng chăm sóc con.

Má tôi kể hoài một chuyện, có lần bà đi học bổ túc văn hóa ở Chèm, mang tôi theo vì tôi mới hai tuổi, chị Hiền ở nhà với ba. Trời chiều mùa đông âm u lạnh buốt, ba tôi mắt đeo kính lò mò… chải chí (chấy) cho con gái – tóc chị Hiền rất dày và dài, đen nhánh. Ông có nhìn thấy gì đâu, mỗi khi kéo cái lược xuống ông lại bảo: con xem có con chí nào không? Mấy cô diễn viên trong đoàn đi ngang thấy vậy liền nói: chú Bảy để con chải đầu cho em. Rồi khi má tôi về mấy cô kể lại, “trông chú Bảy thương lắm thím ơi, như đờn ông mồ côi vợ vậy”.

Làng Sen Hồ – tới giờ tôi không còn nhớ gì nhiều, chỉ nhớ có cây cầu bằng đá xanh rất đẹp bắc qua con sông nhỏ, có hồ sen thơm mát vào mùa hạ. Nhiều buổi chiều chị Hiền dẫn tôi ra ngồi trên cầu đá xem mọi người bơi lội dưới sông. Các anh thanh niên đứng trên cầu phóng mình xuống dòng nước trong vắt, còn các chị thì từ hai bên bờ sông sẽ sàng nhoài mình xuống làn nước mát. Thỉnh thoảng có tiếng cười ré lên, tiếng trêu chọc, tiếng mắng lầu bầu “phải gió cái nhà anh này”… Những đứa trẻ ôm thân chuối trần truồng bì bõm tập bơi. Chị Tuyên – một diễn viên trẻ rất nghịch, tướng tá như đàn ông – rất hay túm hai ống quần lụa đen cho phồng lên rồi lộn ngược đầu xuống nước, chổng mông bồng bềnh giữa tiếng vỗ tay của những người ngồi trên cầu. Có lần tiếng cười ha hả át cả tiếng vỗ tay, nhìn lại, hóa ra quần chị bị rách lộ ra khoảng da thịt trắng mịn màng… Sau lần ấy chị bỗng dịu dàng khép nép hẳn, ra dáng con gái hơn.

Ở Sen Hồ cha con tôi ở nhờ nhà bác Pha – chủ nhiệm hợp tác xã. Bác đi làm suốt ngày, thi thoảng mới thấy bác đi đôi dép cao su còn toàn thấy bác chân đất, quần nâu ống cao ống thấp, đạp chiếc xe đạp Thống nhất đã cũ, đeo chiếc túi vải chéo qua thân, đội chiếc mũ giắt mấy cành lá xanh “ngụy trang”. Bác sửa lại ngôi nhà ngang cho cha con tôi ở, nó vốn là nhà kho để thóc lúa, nông cụ, cái cối xay thóc và cối đá giã gạo phía ngoài. Nhà ngang chỉ có một gian không có cửa số, mái rạ, vách đất trộn rơm và trấu trát lên phên tre đan. Bác Pha phá một khoảng vách đất chỉ còn mấy ô tre đan vuông vuông, thế là thành cái cửa sổ nhỏ ở phía trên chiếc giường của hai chị em. Trời mùa hè oi bức, nóng quá tôi cứ trở mình liên tục dù chị Hiền luôn tay quạt cho tôi ngủ, trên chiếc giường tre bên cạnh ba tôi nằm im thỉnh thoảng mới phe phẩy chiếc quạt giấy, ba nói: nằm im không đổ mồ hôi dễ ngủ hơn.

Sau này khi về lại Hà Nội, nhà chỉ có mỗi chiếc quạt máy đã cũ, ba nhường cho má con tôi, ba cũng chỉ có cái quạt giấy phe phẩy suốt đêm hè. Chiếc quạt tai voi của Liên Xô, cánh bằng cao su đã nhão ra, khi chạy rung lên bần bật nên má tôi phải buộc chân quạt vào thành giường, nhưng thật ra chẳng mấy khi được nằm quạt vì Hà Nội thường xuyên mất điện.

4.

Mùa hè ở Sen Hồ là mùa hè đầu tiên tôi ở nông thôn, cái gì cũng lạ lẫm. Đường làng ẩm mát cỏ mọc hai bên mời gọi mấy chú trâu bò vừa đi vừa tạt vào vệ đường gặm búi cỏ, rồi khoan khoái phẹt ngay một bãi nóng hổi giữa đường, cái đuôi luôn ve vẩy đuổi ruồi muỗi có khi vẩy cả bùn đất vào người đi qua. Làng nhiều ao chuôm đầy bèo, ếch nhái kêu suốt đêm hè mưa rào, xung quanh cây xanh mát sà xuống sát mặt ao. Ba tôi chặt cây chuối tập bơi cho hai chị em, nhưng chị Hiền thì tập được còn tôi thì nhát nước lắm, vì cứ xuống ao là hai ống quần của tôi bị rêu bám xanh xanh, tôi nhìn ghê ghê thế là nhất định không chịu tập bơi. Đến bây giờ dù cầm tinh con cún nhưng tôi vẫn không biết bơi dù chỉ là bơi chó.

Vả lại, về làng mới vài ngày thì tôi bị phá nước (lạ nước) ghẻ lở đầy người, nhất là hai bàn tay và hai chân. Đầu tiên là những mụn nước nhỏ, ngứa ngứa, rổi vỡ ra mưng mủ chi chít, hai bàn tay không mở ra nắm vào được. Tôi đau đến phát sốt. Chị Hiền lấy kim băng nhể từng cái mụn mủ, khều “cái ghẻ” ra, tôi đau quá cứ rụt tay lại, lại còn dọa sẽ mách má chị làm em đau, chị tôi thương em nước mắt vòng quanh…

Không biết hỏi ai chị Hiền đi hái lá tre lá bưởi lá sả lá bàng… nhiều thứ lắm, về nấu nước tắm cho tôi. Ôi trời ơi là xót khi dội nước lên người, tôi khóc giãy nảy không chịu tắm, chị Hiền vừa lấy lá chà xát cho tôi vừa khóc kể lể “chị có muốn làm em đau đâu, nhưng không đau thì em không khỏi bệnh, em chịu khó cho chị tắm đi…”. Thấy chị khóc còn nhiều hơn mình thế là tôi nín bặt. Đến bây giờ chị tôi vẫn là người hay khóc (và kể) hơn tôi, tôi chỉ khóc có vài lần trước mọi người, sau này có khóc cũng ít ai biết.

Cả tháng sau tôi mới hết ghẻ, tay chân sẹo đầy, chị Hiền lại giã nghệ bôi khắp người vàng khè, dính hết ra bộ quần áo nhuộm màu xanh “phòng không” trông loang lổ. Ra đường cứ bị mấy đứa trẻ nông thôn “êu êu chó đốm”, tôi vừa sợ vừa tức chỉ mở to mắt rơm rớm nhìn chị cầu cứu. Chị Hiền quay ra dậm dọa chúng nó “tao mách bố mẹ chúng mày bây giờ”.

Kỷ niệm cuối ở Sen Hồ mà tôi còn nhớ là chuyện nồi vịt kho của chị tôi. Lần ấy ba tôi về Hà Nội họp, cho chị tiền đi chợ mấy ngày. Chị ra chợ mua con vịt cỏ bị chết ngạt nước (cho rẻ) về kho gừng để dành ăn dần. Đã treo lên cái gióng trong bếp mà thế nào con mèo vẫn nhảy lên làm đổ và ăn gần hết. Sáng ra thấy vậy chị Hiền khóc quá trời, bắt đền bác Pha “con mèo nhà bác ăn hết con vịt của cháu”. Bác Pha cười bảo: thôi để bác đền cho con vịt béo hơn to hơn. Nói vậy thôi chứ ai lại lấy của bác, chị tôi lại đi chợ mua thức ăn khác, còn dặn tôi “không được kể với ba nhỡ ba la”. Nhưng khi ba từ Hà Nội lên thì bác Pha vừa cười vừa kể lại, ba tôi cũng cười và bảo hai chị em: Chó treo mèo đậy mà con chỉ treo thì mèo ăn là phải rồi. Thôi, hôm nay ba “đền” cho con vịt luộc chấm mắm gừng nha. Chị Hiền tôi hớn hở đi chợ mua con vịt về luộc nấu cháo, lại làm một đĩa gỏi hoa chuối cho ba và bác Pha uống rượu “cuốc lủi”.

Hết mấy tháng hè má tôi lên đón hai chị em đi sơ tán theo má ở Quảng Oai, Hà Tây, cạnh bến phà Trung Hà nhìn qua bên kia sông Hồng là Việt Trì. Từ mùa hè 1965 đó tôi chưa lần nào trở lại Sen Hồ.

Vậy mà lâu lâu trong giấc mơ tôi như vẫn thấy hương sen hồ phảng phất đâu đây, và những cây cầu đá ở đâu cũng quen thuộc vì gợi nhớ một thời sơ tán ở Sen Hồ…

CHU MINH

5.

Khi đó nó 6 tuổi, sơ tán về làng Chu Minh, nơi có đình Chu Quyến to lớn, qua chín năm kháng chiến mà vẫn còn nguyên vẹn, bây giờ là Di tích lịch sử quốc gia, nổi tiếng là một trong vài ngôi đình đẹp nhất miền Bắc. Đi theo má và chị, nhưng lúc mới đến đó má nó bị sốt thương hàn phải về Hà Nội nằm bệnh viện, chị Hiền còn đang ở tạm nhà trọ của trường cấp ba bên xã Tiên Phong cách đó khoảng chục cây số. Vậy là má gửi nó lại cho một người bạn, nó gọi là cô Lý.

Cô Lý cũng gần bằng tuổi má, khoảng trên dưới 40 nhưng không có chồng, vì vậy trông cô nghiêm lắm. Ban ngày cô đi làm, nó đi học hoặc lang thang với bạn ở ngoài đồng, trên đê. Tối về nó ngủ với cô trên một tấm phản hẹp khoảng 80cm. Mùa đông cô lót một tấm chăn mỏng làm nệm, chừa chỗ nó nằm bề ngang khoảng hơn gang tay trải chiếu lạnh ngắt. Gần 8g tối là cô tắt đèn đi ngủ. Nó không ngủ thì cũng nằm im đấy, không dám nhúc nhích cục cựa vì cô khó ngủ. Nhiều đêm nó nhớ má cứ nằm im quay mặt vào vách để mặc nước mắt tràn trề không dám nấc tiếng nào…

Nhờ vậy sau này nó được nết ngủ ngoan, dù mất ngủ cũng không làm phiền ai.

Khi má nó khỏi bệnh trở lên nơi sơ tán, má con nó được gia đình bác Hùng trong làng cho ở cùng. Nhà bác có ổ chó con mới sinh, mẹ là một con Mực nhưng đàn chó 5 con đủ màu vàng trắng vện… Nó yêu bầy chó lắm, suốt ngày bồng bế trên tay. Bấy giờ là mùa hè, làng bị dịch chó dại. Tối hôm trước người ta vác loa đi thông báo từ đầu làng đến cuối thôn, rằng ngày mai nhà ai không đập chết hay thịt chó thì xã sẽ đến bắt đi “tiêu hủy”.

Sáng sớm hôm sau nó lặng lặng ôm bầy chó con, gọi con chó mẹ đi theo rồi trốn vào hầm tăng-xê, lại còn cẩn thận đậy nắp hầm lại. Trong bóng tối nó cố vượt qua sự sợ hãi những con rắn, con chuột, thằn lằn… trong tưởng tượng, chịu đựng lũ muối, kiến lao vào đốt như điên. Bầy chó như hiểu tình cảnh của chúng, không kêu la gì. Chó con nằm im không đòi bú mà chó mẹ cũng im, không dám liếm láp con.

Đến tận chiều, bác chủ nhà sốt ruột quá đi tìm ổ chó, còn má nó thì đi tìm nó. Thấy tiếng gọi ời ời nó mới chui ra khỏi hầm, mặt mũi tay chân sưng vù, đói lả. Lúc bấy giờ bầy chó mới kêu nhặng lên đòi ăn. Khôn thế chứ.

Sau này nhà nó ai mà ăn thịt chó thì bao giờ cũng có chuyện không may. Chắc vì tuổi nó cầm tinh con gâu gâu.

Chị nó học cấp ba, “con gái không ở một mình” nên chị không ở nhà trọ mà về ở với má con nó, dù hàng ngày phải đi bộ hơn 10 km. Một lần hai chị em nó từ nơi sơ tán đi về Hà Nội. Hai chị em ra phố huyện – gọi là phố Lả, đón xe khách nhưng đã lỡ chuyến, chỉ còn cách đi bộ lên bến xe thị xã Sơn Tây, cách đó hơn 20 km thì có thể mua được vé xe về Hà Nội. Trưa nắng chang chang hai chị em cứ đi, đi mãi… Một chú bộ đội đi xe đạp qua, hỏi: hai chị em đi đâu? Chị nó trả lời: chúng cháu về bến xe, chú cho em cháu đi nhờ với. Ừ lên đây chú đèo cho một đoạn. Nó sợ không dám ngồi sau xe đạp người lạ, chị nó phải gắt lên sợ gì mà sợ… Thế là chú bộ đội đèo nó đi trước, chị nó vẫn đi bộ, sau đi nhờ một chiếc xe bò chở mía lên thị xã, bị lá mía cứa xước hết cả người.

Chú bộ đội đèo nó gần đến bến xe thì rẽ đường khác, chú thả nó xuống và bảo: cứ đi thẳng nhé, một tí là đến bến xe thôi. Nó đi và cuối cùng cũng đến. Không biết bao lâu thì nó nhìn thấy chị, vừa mừng vừa tủi mà không dám khóc, sợ chị mắng (trong nhà nó sợ chị nhất, sợ hơn sợ ba má).

Tối mịt chị em mới về đến Hà Nội. Bước vào nhà nhìn thấy má, nó òa lên khóc. Hình như đấy là lần cuối cùng nó khóc òa lên như thế…

6.

Ở Chu Minh nó bắt đầu vào lớp 1. Trường cách nhà không xa, nó học buổi chiều nhưng hôm nào ăn cơm trưa xong là nó cũng tấp tểnh đi ngay. Chị nó mắng: đi sớm làm gì, dang nắng về bệnh bây giờ! Nó lại giơ tay ra đếm lẩm nhẩm: à, hôm nay em trực nhật. Thế là tót đi học sớm.

Nó chưa đến trường vội, tất nhiên. Nó đi tắt qua ruộng rau trước nhà để tránh bầy ngỗng lúc nào cũng nằm phục trước ngõ, ai đến gần không sao nhưng hễ nó đi qua là thế nào cả bầy cũng đứng lên kêu kíu kíu, vừa vươn cái cổ dài dứ dứ muốn cắn, nó sợ lắm, mấy lần nó bị ngỗng đuỗi chạy ngã rách quần u đầu. Mấy đứa trẻ nhà quê nhìn thấy nhưng nhất định không đuổi ngỗng giùm mà cứ đứng cười “con bé sơ tán”, con bé không có mái tóc dài như chúng nó mà cắt ngắn “như liền ông”.

Men theo bờ đê nó lang thang ra đình Chu Quyến. Ngày nào cũng đi qua, nhìn ngôi đình còn nguyên vẹn hàng cột gỗ lim to mấy vòng tay ôm, chân tảng bằng đá xanh bóng loáng, sàn đình bằng gỗ nhẵn bóng mát rượi, nó đã hiểu vì sao người ta nói “to như cái đình”. Cả làng đúng là không có nhà nào to như thế, cả ngôi chùa (đã bị biến thành kho để phân đạm) cũng chỉ nhỏ nhắn dưới bóng mấy cây hoa đại hoa trắng quanh năm. Không hiểu sao giữa những ngày chiến tranh mà ngôi đình to lớn này không bị biến thành nhà kho hay là nơi bộ đội đóng quân? Buổi trưa quanh đình vẫn vắng vẻ, cây đa cổ thụ rợp mát một góc sân đình, mấy chú trâu bò thơ thẩn gặm cỏ, có thằng bé con trạc tuổi nó nằm trên lưng trâu ngủ khì, có lần bị ngã lộn cổ xuống đất, nó xoa tay lên cái đầu trọc rồi càu nhàu gì đó, hình như mắng con trâu sao để nó ngã.

Nó hay thơ thẩn ra đình, ngồi dựa lưng vào cột đình ngắm mãi mái đao cao cao cong vút và những hình chạm khắc, thỉnh thoảng được ông từ cho đi theo vào hậu cung, thành kính nhìn những bức tượng thờ được “giấu kín” ở đó, đâu biết rằng sau này sẽ đi học cái nghề khảo về đình chùa.

Mùa đông bước vào trong đình thấy ấm áp hẳn dù xung quanh vẫn trống trải, nhờ mái đình sà xuống thấp nên che bớt cơn gió mùa đông bắc ngoài kia. Mùa nước lũ, từ bờ đê phía ngoài đình nó nhìn thấy những chiếc thuyền đi vớt “củi rều” từ thượng nguồn trôi về. Đàn ông đàn bà đều lái thuyền chèo thuyền bằng hai chân, hai tay thoắn thoắt với những cành cây nhỏ, họ còn khéo léo tránh những cây gỗ, bè tre trôi trên sông. Thỉnh thoảng có những thuyền ghé vào bến bán cá mòi. Lên bờ họ quạt than nướng cá mòi, đàn ông mua ăn ngay, chấm muối ớt và uống rượu, đàn bà mua về kho khô với nghệ, cá mòi kho khô ăn cơm với rau muống luộc nước vắt chanh thì ngon thôi rồi…

Ngày hè, thỉnh thoảng có đoàn người ào vào đình ngồi nghỉ, bỏ nón quạt lấy quạt để, gương mặt nóng bừng lấm tấm mồ hôi… Phần lớn là phụ nữ gánh những bó “ráng” to che lấp cả người. Ráng là một loại cây dương xỉ mọc thành rừng trên những ngọn đồi bên xã Tiên Phong cách đây chừng mươi cây số, người xã Chu Minh vẫn sang đấy cắt về phơi khô để đun nấu thay củi. Cắt ráng bằng liềm, bó lại và dùng đòn xóc hai đầu gánh như gánh rơm rạ. Họ đi từ sáng sớm, cắt ráng đến quá trưa rồi đi một mạch từ những ngọn đồi đá ong nóng bỏng chân về đến đình làng mới hạ gánh nghỉ ngơi, ra hồ nước rửa mặt mũi chân tay rồi thong thả gánh ráng về nhà.

Trời đã về chiều, khói lan lên từ những ngôi nhà. Tiếng trâu khua móng về chuồng, tiếng í ới gọi con về tắm rửa ăn cơm… Nó đi học về lại ngồi ở bậc đá thềm đình, cảm thấy buồn buồn, chưa hiểu đấy là cảm giác cô đơn, cái cảm giác sẽ đi theo nó suốt đời.

7.

Khi quen với nhiều bạn rồi nó càng lang thang nhiều hơn, dưới đồng trên bãi, ngoài sông trong đê, chỗ nào bọn trẻ nông thôn đến thì nó cũng đi theo. Đi theo trâu trên những triền đê, ven rặng điền thanh muồng muỗng thấp thoáng bướm vàng, chuồn chuồn kim… Đi hái rau muối trong ruộng ngô bãi ven sông vào những buổi sáng sớm còn mù sương, lạnh giá. Rau muối nhỏ xíu cánh lấm tấm trắng như những hạt muối tinh, phải hái sớm vậy mới ngon, nấu canh ngọt lừ không cần mì chính. Chị Hiền nó và chị Vân – bạn thân của chị Hiền đi sơ tán một mình nên má nó bảo về ở chung nhà, rồi thành con cái trong gia đình nó – vẫn nói với nhau: cái Hậu trông nhõng nhẽo thế mà gì cũng biết, chả sợ gì cả.

Những buổi tối trời, nhất là sau trận mưa rào nó còn trốn má đi theo các chú (làm chung cơ quan với má nó) đi bắt cóc ếch nhái về cải thiện. Chú Hài (thương binh, đi tập tễnh) và chú Thái là hai người bắt ếch cóc giỏi nhất, chỉ một lát là đầy cái thùng gánh nước mang theo. Hai chú đổ vào hầm tăng-xê để ăn dần. Ban ngày mới làm thịt cóc ếch vì phải cẩn thận: lột da, bóc sạch trứng và rút hết gân. Sau đó thịt ếch thì xào mặn ăn dần, còn thịt cóc thì bằm nát rồi xào để nấu cháo hay nấu bánh canh. Bánh canh làm từ bột mì, má nhồi bột, cán mỏng và sắt sợi, làm một nồi thật to, hai ba nhà ăn chung. Đến giờ nó vẫn nhớ hương vị nồi bánh canh bột mì sợi bánh bở bở, nước dùng sền sệt nhưng ngọt lắm. Đấy là thức ăn tươi hầu như duy nhất trong hơn hai năm sơ tán ở Chu Minh. Có lẽ được ăn thịt cóc ếch nhiều nên hồi nhỏ nó không hay ốm vặt, người tròn cui chắc nịch và… đen thui.

Hàng tháng má nó đạp xe về Hà Nội mua gạo mì mắm mỡ. Chiều thứ bảy về tối chủ nhật mới lên, đi cùng chú Hài chú Thái để lỡ dọc đường có máy bay hay việc gì bất trắc. Đạp xe ban đêm không đèn đường, đường quốc lộ xe ô tô không đèn kín lá ngụy trang chạy rầm rập nối đuôi nhau… Về đến Hà Nội khoảng 1,2 giờ sáng thì 4,5 giờ đã phải ra xếp hàng mua gạo mì, mua thịt mỡ… về nhà thắng mỡ cho vào chai, rồi ba nó buộc bao gạo mì lên xe đạp, chiều chủ nhật má lại đạp xe đi. Lần nào trở về nơi sơ tán má cũng nói: tưởng không về được đến nơi!

Đi sơ tán nhưng nó vẫn được má và các chị cưng chiều vì là con út. Bởi vậy nó cũng hay đành hanh cãi lại các chị. Một lần biết má sắp về Hà Nội, đêm đó nó ôm má thủ thỉ “má, mai má đừng về Hà Nội nhé!” – Má không về lấy gì ăn, phải về mua gạo mì chứ? – Má về, chị Hiền chị Vân bảo sẽ tẩn cho con một trận! Trời trời, nửa đêm má lôi hai chị dậy la: sao dọa em để nó sợ? Hai bà chị ngái ngủ càu nhàu: dọa thế cho nó sợ chứ ai đánh nó, rồi lăn ra ngủ tiếp. Nó ôm má ngủ mà vẫn phập phồng lo cho ngày mai không có “ô dù” che chắn.

Hai chị hay mắng nhưng yêu nó lắm, nhường nó tất cả giấy ngà ngà trơn nhẵn, lại dùng thước với bút chì kẻ dòng cho nó tập viết, còn các chị viết trên giấy đen thui đầy cọng rơm trên mặt giấy nhám. Chị Hiền nó học rất giỏi tất cả các môn nên rèn chữ đẹp cho nó, dạy nó làm toán. Một lần hai chị đọc vở của nó, thì thầm với nhau: cái Hậu tập làm văn hay ghê! Nó ham chơi học không chăm nhưng được cái sáng dạ, năm nào cũng là học sinh giỏi.

Có một chuyện nó luôn biết ơn chị Hiền. Đó là chuyện chị không cho nó nói “giọng nhà quê” vì “chửi cha không bằng pha tiếng”, chị bảo vậy! Ở đâu chỉ vài hôm là nó nói đặc giọng ở đấy, chị nghe thấy chỉ cần trừng mắt là nó khiếp vía… Nhờ vậy nó giữ giọng Hà Nội rất lâu. Lâu đến nỗi năm 1975 về Sài Gòn lúc 17 tuổi mà đến nay đã 40 năm ở Sài Gòn nó vẫn một giọng “Hà Nội chuẩn”, dù nó chẳng coi là “chuẩn” và nếu có thì cái “chuẩn” ấy cũng bình thường thôi, nó nghĩ thế!

8.

Ở Chu Minh lúc đầu nhà nó ở nhờ nhà bác Hùng có con là cái Hoan bằng tuổi nó, nhưng nhà bác đông quá nên ít lâu sau mấy má con nó qua ở nhà chị Rau. Nhà chị ở phía sau nhà bác Hùng, cùng chung ngõ nhỏ chạy giữa một bên là hàng rào râm bụt thấp bên kia là cái ao nhỏ vuông vắn thường cạn nước.

Chị Rau khoảng 30 tuổi, ở một mình, thỉnh thoảng có bà vãi (mẹ chị) ở làng bên qua chơi vài ngày. Chồng chị là anh Trác đi bộ đội, anh chị cưới nhau vài năm rồi nhưng không có con. Chiến tranh, anh Trác nhập ngũ, chị ở nhà làm hợp tác. Má con nó ở nhà chị Rau gần một tháng thì về Hà Nội ăn tết, quay lên đã thấy chị xin được một đứa con nuôi còn đỏ hỏn, đặt tên là cái Nhàn. Con bé dễ như củ khoai, không có sữa toàn uống nước cơm, được vài tháng thì ăn “cơm mớm”, càng lớn càng tròn quay và đen thui giống y như nó. Ai chê nó xấu thì chị Rau đều nói “xấu mà học giỏi như cô Hiền cô Hậu”. Chị Hiền còn dạy cái Nhàn nói câu “đen mà có duyên” khi nó bập bẹ học nói. Chị Rau đi làm cả ngày, nó tha cái Nhàn đi khắp nơi như chó mẹ tha chó con, trong nhà ngoài sân, ra vườn, ra cả sân kho hợp tác… Trưa nắng nóng chị Hiền chặt mấy tàu lá chuối trải trên nền nhà, hai đứa lăn lóc trên đó cho mát. Khi cái Nhàn biết bò rồi biết đi, nhanh như chớp đã lần ra đến bờ ao thành giếng, thế là nó liền lấy sợi dây buộc một chân cái Nhàn vào cột nhà, hai đứa ngồi chơi với nhau, nó cầm sách đọc như cuốc kêu còn cái Nhàn thì ê a đọc theo. Lúc đầu cái Nhàn còn thích thú, sau đó khóc ré lên, khóc chán lăn ra ngủ ngay cạnh cây cột.

Chiều mát, nó ra giếng kéo mãi mới đầy một chậu nước tắm. Vào nhà lấy quần áo quay ra đã thấy cái Nhàn mặt mũi người ngợm nhem nhuốc ngồi gọn trong chậu vùng vẫy tung tóe. Nó mếu máo: bắt đền chị Rau lấy cho em chậu nước khác đi. Chị Rau kéo nước lên tắm cho cả nó và cái Nhàn, hai đứa tha hồ nghịch nước giếng mát lạnh đến tím môi và các ngón tay nhăn nheo mới chịu thôi.

Lần nào bà vãi (ở vùng này gọi bà ngoại là bà vãi) qua nhà cũng có quà cho nó. Khi là cái bánh đa khi khúc mía bắp ngô. Bà vãi hay ra sau nhà đào lấy củ rong riềng, được cả rổ đem luộc lên. Nó thích củ rong riềng lắm, củ màu xám trắng, thơm, ngọt, ăn mãi không chán. Bà vãi vẫn hay mặc váy đụp, quấn khăn mỏ quạ dù bà cạo trọc đầu, bà đã già lưng còng như trông vẫn dong dỏng, khác hẳn chị Rau người thấp đậm, mà cái Nhàn càng lớn càng giống chị Rau, chẳng ai biết nó là con nuôi. Mùa đông bà vãi cấy rau cần ở cái áo nhỏ cạnh nhà, khi rau ăn được thì phần mang ra chợ bán phần cho hàng xóm, phần muối dưa ăn dần. Rau cần mới cắt đem xào tái với chút mỡ tỏi, cọng rau ngọt lừ, thêm quả cà chua hồng vào nữa thì ăn với cơm nóng quên no. Nó rất thích lội xuống ruộng rau cần với bà vãi, nhưng hai chị nó thì không dám, vì sợ đỉa.

Một lần chồng chị Rau được về phép, hàng ngày anh bế cái Nhàn đi chơi khắp các nhà hàng xóm. Một buổi chiều đi làm về má nó thấy hai cha con ngồi trước bếp lửa, cái Nhàn không mặc quần áo, lạnh tím tái. Má nó hốt hoảng hỏi “sao anh không mặc quần áo cho con Nhàn để nó lạnh thế kia?”, anh Trác hồn nhiên bảo: nó ị hết ra người nên vừa tắm cho nó, hơ lửa cho khô. Đến đêm cái Nhàn cảm lạnh một trận tưởng chết, sốt cao co giật, mấy chị nó cùng chị Rau phải thay nhau bế nó chạy lên bệnh viện huyện trên phố Lả để cấp cứu. Một tuần sau cái Nhàn mới qua khỏi, gầy tọp. Ngày đón cái Nhàn về nó ôm chặt cái Nhàn đòi mang theo… ngày mai nó về Hà Nội, hết phải đi sơ tán rồi. Má nó mắt đỏ hoe, phải hứa sẽ đón em Nhàn về sau nó mới chịu. Từ đó nó không gặp lại cái Nhàn…

Bà vãi mất sau đó vài năm. Khoảng năm 1990 nghe nói anh Trác chị Rau cũng đã mất. Cái Nhàn kém nó 6 tuổi, bây giờ cũng ngoài 50, nếu còn ở Chu Minh chắc đã là bà nội bà ngoại rồi. Không biết nó còn nhớ đến “cô Hậu” vẫn bế nó ngày còn bé không…

LẠC ĐẠO

9.

Mùa đông 1972. Từ tháng 10 ở Hà Nội có nhiều cơ quan, gia đình đã lục tục sơ tán về nông thôn. Đến đầu tháng 12 thì có lệnh sơ tán khẩn cấp. Trên các nẻo đường người, xe đạp ùn ùn kéo đi…

Đoàn kịch nói Nam bộ – lúc này ba tôi chuyển qua làm Trưởng đoàn kịch nói Nam bộ – lần này sơ tán về Lạc Đạo, một xã ở ven đường quốc lộ số 5, gần ga Như Quỳnh trên con đường huyết mạch Hà Nội – Hải Phòng. Đoàn về đây từ tháng 10, ở đó đoàn bắt đầu dựng vở kịch “Hòn đảo thần vệ nữ” – vở kịch đã trở thành một “hiện tượng” trong đời sống nghệ thuật lúc đó ở Hà Nội và cả miền Bắc. Hàng ngày các nghệ sĩ tập trung ở nhà ai đó, “thoại lời”, “vỡ hoang” (ngồi đọc đối thoại kịch, phân tích lời kịch, tâm lý và tình huống kịch, trước khi tập trên sàn diễn). Bọn trẻ con em của đoàn kịch ngay từ những ngày tập đầu tiên đã thuộc câu thoại nổi tiếng “hết ngày dài lại đêm thâu, chúng tôi đi trên đất Phi châu” của một nhân vật trong vở kịch do nghệ sĩ Can Trường thủ vai.

Thời gian này má tôi không đi sơ tán, ngân hàng nơi bà làm việc vẫn ở Hà Nội; chị Hiền đã đi học nước ngoài từ cuối năm 1969, còn anh Hai đi bộ đội vào chiến trường B từ năm 1968. Năm 1971 ba tôi cũng đưa đoàn kịch đi Trường Sơn gần nửa năm, tưởng đã đi thẳng vào đến B2 (Nam bộ) nhưng rồi lại phải quay ra. Ba tôi buồn lắm, nhiều lần đi B mà không lần nào về được quê hương…

Đầu tháng 12, đúng lúc Hà Nội có lệnh sơ tán khẩn cấp thì đoàn kịch lại về Hà Nội để tập giai đoạn cuối vở “Hòn đảo thần vệ nữ”. Đúng đêm 18/12 là đêm tổng duyệt ở Nhà hát lớn, mới mở màn được khoảng 30 phút thì còi báo động, rồi tiếng bom rền, tiếng súng cao xạ, tiếng rít dài của tên lửa phóng lên bầu trời… Sáng hôm sau ba tôi và các cô chú lên đến nơi sơ tán, ông nói ngay: Mỹ đưa B52 ném bom Hà Nội! Kinh nghiệm đi chiến trường nhiều lần đã cho ông biết điều này trước khi có thông báo từ Đài phát thanh.

Ở Lạc Đạo cha con tôi sống cùng gia đình bác Mai, bác cũng là cán bộ xã, hai bác có bốn cô con gái, chị lớn đã lấy chồng có con, ở nhà còn ba chị em trong đó có cái Chỉ bằng tuổi tôi nên hai đứa học cùng lớp 6 ở trường cấp II của xã. Trong lớp cũng có nhiều bạn là người sơ tán, có cả thầy cô từ Hà Nội về dạy ở trường nữa. Vì vậy sơ tán lần này không làm cho tôi bỡ ngỡ như những lần trước, và cũng vì “lớn rồi” nên việc học hành phải tự lo, lại còn phải biết nấu cơm cho ba, thỉnh thoảng làm vài món nhậu cho ba và các chú nữa.

Sau đợt B52 của Mỹ ném bom Hà Nội, Hải Phòng vào cuối tháng 12/1972, cuối tháng 1/1973 Đoàn kịch lại về Hà Nội nhưng tất cả gia đình con cái vẫn ở Lạc Đạo. Cứ cuối tuần tôi lại đạp xe về Hà Nội để mang gạo mì mắm mỡ lên nơi sơ tán, giống như má tôi trước kia. Chiều chủ nhật ba má đưa tôi đi, đến cầu phao Chương Dương ba dẫn xe đạp cho tôi qua cầu, má đứng lại đầu cầu nhìn theo với đôi mắt đỏ hoe… Tôi đạp xe đi, có khi một mình, có khi cùng với hai anh em Minh – Yến, mỗi đứa một xe đằng sau có hai cái túi làm bằng lốp xe, trong đó có thức ăn cho một tuần mười ngày, có mấy cái bánh mì hay gói bánh ngọt má tôi gửi biếu nhà bác Mai, khi là gói đường hay lọ mì chính (bột ngọt) gửi bác Mai gái, khi là mấy mét vải màn gửi cho các chị…

Đường 5 chạy song song với đường xe lửa Hà Nội – Hải Phòng, ban ngày vắng xe ô tô qua lại, chỉ có người đi xe đạp, lỡ có máy bay thì lao ngay vào vệ đường hay gốc cây, vứt xe đấy mà nhảy xuống hào giao thông. Thỉnh thoảng có chuyến tàu vội vàng trên đường ray, nhưng nếu có máy bay thì cũng ngừng lại, người trên tàu túa xuống tìm nơi ẩn nấp. Khi máy bay đi rồi, tàu hú vài tiếng lại tiếp tục lăn bánh. Đi qua Trâu Quỳ – nơi có bệnh viện tâm thần – vẫn thấy thấp thoáng sau bức tường sơn loang lổ màu phòng không là những bệnh nhân đi lại, nhảy nhót, có khi trồng cây, quét sân, có khi là một đám đánh nhau… Nhưng lạ, hễ nghe tiếng loa của bệnh viện, bất cứ nói gì, là bệnh nhân ngoan ngoãn ngay lập tức.

10.

Khi sơ tán về Lạc Đạo nó bước vào tuổi thiếu nữ, bắt đầu biết để ý vẻ ngoài, biết chăm chút đến mái tóc, bộ quần áo. Tóc nó dài quá gấu áo và rất dày, khi tết hai bím tóc trông đằng sau nó giống hệt chị Hiền, đằng trước thì khác vì có những sợi tóc quăn tự nhiên cứ xòa xuống má. Mấy cô ở đoàn kịch chọc nó là “Mai Liên” – tức là Miên lai vì nước da ngăm đen, mái tóc quăn và cặp mắt to mi dài. Lúc đó nó không thích bị trêu như vậy, vì đó là những gì làm cho nó khác các bạn gái cùng lứa. Sau này lớn rồi nó lại nghĩ: không chừng trong dòng máu của mình có lai Miên thật, vì quê nội của nó ở An Giang, một nơi có nhiều người Khmer sinh sống từ lâu đời.

(Mới năm ngoái năm kia, một lần ở tiệm uốn tóc, cô nhỏ gội đầu hỏi nó: cô là người miền Bắc à? Nó trả lời: quê cô ở miền Tây nhưng cô sinh ra ở Hà Nội. – Miền Tây cô ở tỉnh nào vậy? – Cô ở An Giang. – Con cũng An Giang nè, chắc cô là người Miên phải hôn, thấy cô đen đen giống con! Người miền Tây thiệt thà thấy thương luôn vậy đó!).

Chiến tranh nên quần áo đều nhuộm xanh hoặc nâu, đen. Con gái thường mặc áo cổ lá sen với quần đen, thường là quần “phíp” (gần giống như vải lanh) hoặc quần vải, may mắn thì có cái quần lụa của chị hay mẹ cho. Nó cũng có một cái quần lụa đen đã ngả màu, thỉnh thoảng má nó lại rền rĩ “tôi mặc mãi không sao tới lượt nó mặc thì nay rách mai sờn…”. Ba bênh con gái “bà mặc mãi thì tới nó mặc rách là phải rồi”. Trong ba lô mang đi sơ tán nó có 4 cái áo và 3 cái quần, thật là một gia tài lớn! Hai cái áo ngắn tay là từ cái váy hoa của chị nó được phát mang đi nước ngoài, thương em chị để lại cho em may áo. Một cái áo màu nâu nhuộm từ chiếc áo trắng vải pô-pơ-lin đẹp nhất của nó, và cái còn lại màu “mận chín” – cái áo “điệu” nhất, nó ước ao mãi má nó mới may cho để dành mặc Tết.

Đi học cùng lớp với con gái út của bác chủ nhà, nó thích mặc cái áo màu nâu giống như cái Chỉ. Đến lớp nếu nó không nói ra thì thầy cô không biết nó người Hà Nội vì các bạn gái Hà Nội vẫn mặc áo hoa áo màu… Ngoài giờ đi học nó cùng cái Chỉ đi gánh phân, làm đất trồng rau, đi bón kali cho ruộng khoai tây, rồi thu hoạch rau vụ đông… Nhà bác chủ làm gì nó làm việc ấy, lúc đầu vụng về rồi sau cũng quen tay. Ba nó không nói gì nhưng tỏ ý bằng lòng. Còn má nó luôn nhắc “con gái ở nhà người ta phải ý tứ”. Vậy nên vào những ngày “đau bụng”, nó len lén đi thay, rồi tối mịt mới cầm đèn dầu một mình đi ra con mương cuối làng giặt giũ, đàn bà con gái không được giặt “đồ bẩn” ở giếng nhà. Phơi phóng cũng phải khuất mắt, che chắn bằng 2,3 lớp áo. Một lần đèn hết dầu mà nó không để ý, ra tới mương đèn tắt, nó mò mẫm giặt rồi mò mẫm đi về. Đến cổng thấy ba nó như đang đứng chờ, trong ánh đèn từ nhà hắt ra cặp mắt kiếng của ba hình như loáng ướt…

Một phiên chợ bác gái chủ nhà đi bán gánh khoai tây, lúc về mua một con chó con rất xinh. Được hai, ba ngày con chó uể oải bỏ ăn, bác gái đút cơm cho nó bị nó cắn xước một chút ở tay. Ai dè khoảng một tuần sau bác gái lên cơn dại. Lúc đầu bác nóng sốt cao, rồi sợ gió sợ ánh sáng, bác nằm trong buồng tối và bắt cả nhà che chắn hết các khe cửa… rồi chiều tối thì bắt đầu tru lên từng hồi. Đến lúc này mọi người mới biết bác bị lên cơn dại, hùa nhau đi tìm đập chết con chó con. Nó nhớ mãi cảnh con chó nằm bẹp dưới cối xay lúa, xung quanh cơm vãi kiến bu đầy, khi bị lôi ra con chó đã yếu lắm rồi, vậy mà nó biết, nó chảy nước mắt…

Hôm đó là thứ bảy, tình cờ chiều tối má nó lên thăm, gặp lúc bác gái ốm má nó là người duy nhất vào buồng xoa bóp cho bác gái khi bác tỉnh lại. Bị bệnh dại lạ lắm, khi lên cơn thì tru tréo không ai dám đến gần, nhưng qua cơn rồi thì người rất đau nhức nhưng tình táo. Mỗi lần má nó vào xoa bóp là bác gái lại dặn dò cẩn thận: ai nợ bác cái gì, nhà còn nợ ai bao nhiêu, bác để dành cho các con gái những gì, chuẩn bị đám cưới chị thứ hai thế nào… Cứ thế, vật vã đến trưa hôm sau thì bác gái mất. Má nó thay cho bác bộ quần đen và chiếc áo bà ba màu xanh mới tinh mà nó cẩn thận mang đi sơ tán cất để dành cho má. Bác trai nức lên “cả đời bà bây giờ mới được mặc quần áo mới, bà ơi…”.

Đó là một cú sốc rất lớn với nó, sau cú sốc hồi nó học lớp Hai một đứa bạn thân của nó bị chết vì bom Mỹ, đứa bạn ấy cũng tên là Hiền.

Từ đó, tất cả mọi thứ với nó đều nhạt nhòa, hình như không còn gì đáng nhớ.

Gần hai năm sau, chưa mãn tang bác gái thì bác trai lấy vợ mới rồi đẻ được một thằng con trai. Chị thứ hai – chị Xoan – chờ ba năm đoạn tang mẹ mới lấy chồng. Chồng chị là thương binh. Một lần chị lên Hà Nội đến nhà nó chơi, nó đi học về không nhận ra chị: cô gái có nước da trắng hồng, mặt tròn má lúm đồng tiền, lúc nào cũng tươi tắn… nay thành một người phụ nữ gầy gò, da sạm lại, và cái nhìn chỉ ánh lên một chút khi thấy nó. Chị thứ ba – chị Lan – “thoát ly” đi làm công nhân khi bác trai lấy vợ khác. Còn cái Chỉ: “Nó khổ lắm, bố chị giờ nát rượu suốt ngày đánh chửi nó…”, chị Xoan khẽ kể như thế…

Năm 1975 cả nhà nó về Sài Gòn. Khoảng năm 1978 ba nó đưa Đoàn kịch Nam bộ ra Bắc biểu diễn “đền ơn đáp nghĩa” ở những nơi đoàn từng sơ tán. Về Lạc Đạo ba nó gặp lại bác trai, nhưng hỏi thăm các chị thì bác chẳng nhớ gì, “ổng không uống được nữa, chắc không còn lâu…”. Lúc này Lạc Đạo nổi tiếng vì một “đặc sản” lâu đời mà lúc trước luôn phải giấu giếm: rượu cuốc lủi.

Bây giờ Lạc Đạo còn là nơi làm cơm nắm muối vừng mang bán khắp Hà Nội. Cứ ra Hà Nội là nó luôn tìm mua cơm nắm của các chị gánh bán rong, lần nào nó cũng nghĩ, biết đâu sẽ gặp lại cái Chỉ…

***

Thời sơ tán cách đây đã hơn năm mươi năm, con bé, nó hồi đó giờ đã là một người đàn bà U60, nghỉ hưu rồi, “rảnh rỗi sinh nông nổi” bèn nhớ lại và ghi chép ra đây, nếu có gì chưa thật chính xác thì mong những người liên quan lượng thứ.

Sài Gòn, 5/2014 – 8/11/2015

Comments are closed.