Dương Thắng
- Đã hơn một trăm năm trôi qua kể từ ngày Karl Popper ra đời, và hơn sáu mươi năm kể từ lần xuất bản đầu tiên, Xã hội mở và những kẻ thù của nó vẫn luôn được coi là một cuốn sách lớn của thế kỷ 20, một cuốn sách dường như có vẻ quen thuộc ngay cả với những người chưa đọc nó. Sau sự sụp đổ của mô hình Liên bang Xô viết, hệ thống quan điểm của Popper dường như đã “ca khúc khải hoàn”, tuy nhiên cuốn sách vẫn luôn luôn đáng để chúng ta đọc lại: cuộc đấu tranh giữa lợi ích của nhà nước và lợi ích của cá nhân – và xu hướng dịch chuyển về mô hình một “xã hội khép kín” – vẫn đang tiếp tục ngay cả ở các quốc gia được cho là dân chủ và cởi mở nhất, trong khi chủ nghĩa lịch sử (đối tượng bị Popper lên án mạnh mẽ) vẫn tiếp tục nhận được sự ủng hộ rộng rãi.
- Karl Popper là một triết gia gốc Áo được đào tạo bài bản, ông đã trốn khỏi Vienna trong thời kỳ khủng khiếp khi Đức Quốc Xã đang bành trướng ách thống trị trên khắp châu Âu. Sau một thời gian ngắn tỵ nạn và tham gia giảng dạy ở New Zealand, ông chuyển sang dạy học ở Hoa Kỳ và cuối cùng là tại Đại học London, Anh Quốc. Chứng kiến tận mắt sự tàn khốc do chế độ toàn trị gây ra tại quê hương mình, Popper, một con người thực sự hiền lành và thông minh, đã quyết định cống hiến phần còn lại của cuộc đời học thuật của mình cho việc xây dựng một hệ thống tư duy logic, có khả năng chống lại sự giám sát chặt chẽ đến mức phi nhân tính của các phương pháp khoa học duy lý, một hệ thống tư duy lôgic được thiết kế để giúp cho các sinh viên và độc giả nuôi dưỡng một lương tâm xã hội cá nhân cho phép nhận ra giá trị của tinh thần dân chủ và những nguy hiểm nghiêm trọng nảy sinh một khi những tinh thần dân chủ này bị xói mòn. Nhưng Popper cũng đủ sắc sảo để hiểu rằng việc thiếu cảnh giác dẫn đến tình trạng lạm dụng quyền lực chính trị một cách sai trái là một hiện tượng sẽ tồn tại lâu hơn ông, và ông đã có đủ sáng suốt để lưu lại những ghi chép cẩn thận về các công thức, các ý tưởng và các lý lẽ của riêng ông để bảo đảm rằng cuộc đấu tranh này vẫn có thể tiếp tục sau khi ông đã ra đi.
- Xã hội mở và những kẻ thù của nó là một cuốn sách hướng tới nhiều mục đích. Thoạt nhìn nó có thể được coi là khá đơn giản, chỉ như là một tác phẩm triết học phê phán đề cập và phân tích chi tiết những ý tưởng chính của một số triết gia chính trị. Nhưng nếu chúng ta dừng lại ở nhận định này, chúng ta là bỏ lỡ điểm thiết yếu của cuốn sách, bởi vì ở một cấp độ khác sâu sắc hơn, như tiêu đề cuốn sách đã chỉ ra, cuốn sách phải gánh vác nhiệm vụ bảo vệ “xã hội mở” chống lại “kẻ thù” của nó.
- Vậy, Popper muốn nói gì khi nói về “xã hội mở”? Để trả lời cho câu hỏi, một cách tiếp cận hợp lý đó là việc chúng ta, trước hết sẽ đề cập đến những công trình nghiên cứu của ông về triết học (của) khoa học, những công trình đã góp phần tạo dựng tên tuổi ông cũng lừng lẫy như các công trình nghiên cứu về triết học chính trị. Đóng góp của Popper cho triết học của khoa học là học thuyết của ông về “tính khả kiểm sai/tính bác bỏ được” (falsifiabilité/réfutabilité), theo đó khoa học luôn tiến hành bằng cách xây dựng các giả thuyết và cố gắng chứng minh chúng thông qua thử nghiệm thực nghiệm. Nhưng theo Popper, không thể chứng minh một cách chắc chắn rằng một giả thuyết đã cho là đúng; nghĩa là, để “xác minh” nó một cách thuyết phục, điều tốt nhất bạn có thể làm là loại trừ nó khi biết nó là giả. Ví dụ như với nhận định rằng “Tôi chỉ nhìn thấy toàn cò trắng” không bao giờ cho phép suy diễn để đưa ra mệnh đề khái quát “Tất cả loài cò đều có lông màu trắng”, thế nhưng chỉ cần một lần quan sát “Tôi nhìn thấy một con cò màu đen” là cũng đủ để phủ nhận khái quát trên. Quan điểm của Popper trong triết học của khoa học là cho rằng khoa học là phải đạt được một số đức tính nhất định: tính sáng tạo và trí tưởng tượng khi xây dựng các lý thuyết và giả thuyết, việc thiết kế các thí nghiệm phải cho phép kiểm tra các kết quả; nhà khoa học phải có sự khoan dung cần thiết để nhận ra rằng lý thuyết của người khác có thể cạnh tranh với lý thuyết của bạn.
- Do đó, một “xã hội mở” phải là một xã hội được đặc trưng bởi những thể chế cho phép áp dụng những đức tính tương tự (như trong nghiên cứu khoa học) trong việc tìm kiếm giải pháp thực tế cho các vấn đề xã hội và chính trị. Đối với Popper, đây là những thể chế đặc trưng của một nền dân chủ tự do hiện đại. Còn “kẻ thù” của một xã hội mở thì sao? Theo Popper, điều khiến Plato trở thành kẻ thù của xã hội mở là ở cái “chủ nghĩa toàn trị”của ông. Trạng thái lý tưởng của nền Cộng hòa kiểu Plato là một tầm nhìn “toàn trị” về những điều không tưởng. Nhờ “Lý thuyết về các dạng thức” của mình, Plato đã mô tả một xã hội toàn trị như một trạng thái hợp lý, trạng thái mà mọi thứ diễn ra tốt đẹp, giống như một cỗ máy được bôi dầu tốt, nhờ vào cách mọi người tập trung vào công việc được giao phó, mọi thứ đều được trang bị tốt hơn để làm điều đó. Plato đã viết trong tác phẩm Cộng hòa: “Mỗi người đàn ông trong thành phố của chúng ta chỉ nên làm một công việc và đó là công việc mà bản chất của anh ta thích nghi nhất một cách tự nhiên. Nếu ai đó về bản chất là một công nhân thì có thể gia nhập tầng lớp chiến binh; hoặc nếu một chiến binh được gia nhập vào tầng lớp người giám hộ mà không xứng đáng với nó; thì sự thay đổi và âm mưu quỷ quyệt này sẽ đồng nghĩa với sự sụp đổ của thành phố” và “Khi mỗi tầng lớp trong thành phố lo việc riêng của mình thì những tầng lớp kiếm tiền cũng vậy”. Plato diễn giải thêm: “Nhà nước công bằng nếu người cai trị cai trị, công nhân làm việc và nô lệ là nô lệ”.
- Chống lại điều này, Popper lập luận rằng không thể có một “trạng thái” hợp lý duy nhất. Ngay cả khi một thứ như vậy tồn tại, chúng ta sẽ có rất ít cơ hội để thiết lập nó cũng như có rất ít cơ hội để đạt được một mô tả khoa học thực sự duy nhất về cách thức của mọi thứ, và bất kỳ nỗ lực nào nhằm thiết lập một trạng thái như vậy sẽ sớm dẫn đến thất bại.
- Trong tập thứ hai với nhan đề Cao trào tiên tri: Hegel, Marx, Popper lần lượt đề cập đến các triết lý của Georg Hegel và Karl Marx, tập trung vào phê phán cái món nợ mà cả hai triết gia này đã vướng vào khi duy trì một niềm tin quá cứng nhắc vào thuyết tất định lịch sử thuần túy nhân tạo. Popper bác bỏ toàn bộ triết lý của Hegel, ông coi đó là nỗ lực của một người biện hộ với nhiệm vụ nghĩ ra một nền tảng trí tuệ có vẻ như sẽ mang lại sự biện minh hợp lý cho cả quyền lực của những người bảo vệ ông lẫn chiến thuật mà họ chọn sử dụng để duy trì quyền lực này. Trong lập luận của mình, Popper chứng minh rằng Hegel thực sự đã bắt đầu với những nguyên tắc của học thuyết toàn trị và sau đó làm ngược lại để hình thành hệ thống triết học của mình.
- Trong các chương tiếp theo, Popper miêu tả Karl Marx là một triết gia chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của triết học Hegel. Popper bày tỏ sự ngưỡng mộ sâu sắc đối với nền tảng đạo đức và mục tiêu nhân đạo của Marx. Tuy nhiên, trong khi bị thuyết phục hoàn toàn về tính trong sáng của các mục tiêu trong triết lý chính trị của Marx, Popper đã chỉ ra rằng triết học của Marx đã mắc phải hai quan niệm sai lầm nghiêm trọng mà cuối cùng đã mâu thuẫn với chính các mục tiêu nhân đạo mà Marx muốn hướng tới. Đầu tiên nằm ở cách xây dựng tầm nhìn không tưởng của Marx. Marx tiên tri về sự chấm dứt đau khổ của con người, không phải như một mục tiêu mà chúng ta phải phấn đấu mà là một tương lai được đảm bảo từ trước là sẽ chắc chắn tồn tại. chúng ta chỉ có thể lựa chọn cách hành động hoặc là tạo điều kiện thuận lợi cho bước tiến tất yếu của Lịch sử hướng tới nó, hoặc là làm ngược lại, tức là làm chậm tiến độ và trì hoãn việc hoàn thành nó (Marx gọi đó là những người “tiến bộ” và “phản động”). Triết lý của Marx nhằm tạo ra một bầu không khí nhận thức và hành động chính trị nhằm đẩy nhanh quá trình thực hiện một mệnh lệnh lịch sử.
- Lời chỉ trích thứ hai của Popper đối với tư tưởng Marxist liên quan đến việc nó tạo ra phụ thuộc không đúng chỗ vào sức mạnh đạo đức của tập thể và dẫn đến việc giảm giá trị của trách nhiệm đạo đức của mỗi cá nhân trong tập thể. Trong khi mà trên thực tế đám đông có xu hướng tạo ra và sau đó nhanh chóng phản ứng lại động lực của chính họ, thì một cá nhân có thể dễ dàng dừng lại để đặt câu hỏi về động cơ và hậu quả của họ. Popper tin rằng vì hai điểm yếu về mặt triết học này, cương lĩnh của chủ nghĩa Mác trở thành đối tượng của những cách giải thích méo mó mang tính cơ hội, vì thế nó dễ dàng bị lạm dụng bởi những kẻ cơ hội, chúng sử dụng để nắm trọn quyền lực được trao từ chính những nô lệ vừa được giải phóng.
- Sợi chỉ đỏ mà Popper xác định là xuyên suốt trong các triết học của Plato, Hegel và Marx là một khái niệm mà ông gọi là “chủ nghĩa lịch sử”. Chủ nghĩa lịch sử dựa trên niềm tin rằng xã hội tuân theo những quy luật tiến bộ tất định và rằng chức năng duy nhất còn lại của nhà khoa học chính trị hoặc nhà khoa học xã hội là phát triển những lời tiên tri đó để đi tới một trạng thái/một sự việc tối hậu, những trạng thái hay sự việc đã được xác định/tiên tri trước đó. Theo lý thuyết này, một khi lịch sử được hiểu đúng, các quy luật có thể được ngoại suy để dự đoán nơi chúng ta sẽ đến và có lẽ sẽ mất bao lâu để đến đó. Tuy nhiên, như Popper đã chỉ ra, bởi vì lịch sử của nhân loại từ trước đến nay hầu như luôn là lịch sử của quyền lực và rất hiếm khi là lịch sử của con người, nên các phương pháp của chủ nghĩa lịch sử cuối cùng hóa ra chỉ có thể cung cấp những công thức cho những hành vi xã hội khá “đồi bại và khác thường”. Một lời nói dối khi thành công sẽ trở thành một lời nói thật. Bởi vì lịch sử luôn được viết bởi kẻ chiến thắng nên luôn tồn tại một sự thật hiển nhiên là mọi kẻ nắm được sức mạnh quân sự đều kết thúc trong thắng lợi. Hơn nữa, và quan trọng là, trong khi quan điểm lịch sử chủ nghĩa đưa ra lời kêu gọi giảm bớt gánh nặng trách nhiệm xã hội của chúng ta với tư cách cá nhân, nó cũng phủ nhận chúng ta, các cá nhân có bất kỳ vai trò có ý nghĩa nào trong việc tạo ra thế giới mà chúng ta phải sống.
- Theo Popper, cả chủ nghĩa không tưởng và chủ nghĩa lịch sử đều có sai sót bởi vì cả hai đều thù địch với cách tiếp cận duy nhất trên thực tế là có thể áp dụng để giải quyết các vấn đề xã hội và chính trị. Trong thế giới thực, bạn phải tiến hành công việc một cách thực tế, thông qua việc kiểm thử và sai. Những sai sót chắc chắn sẽ xuất hiện khi bạn thử giải pháp đầu tiên mà bạn nghĩ ra và sau khi thất bại bạn sẽ buộc phải quay lại vị trí ban đầu. Nói tóm lại, bạn cần phải trở thành loại người mà Popper gọi là “kỹ sư xã hội từng phần”. Nhưng chủ nghĩa không tưởng luôn ngăn cản việc xây dựng xã hội từng phần bằng cách kết án nó là điều phi lý. Còn chủ nghĩa lịch sử thì sẽ hạn chế những lựa chọn chiến lược của bạn. Hoặc bạn chỉ có thể cố gắng tăng tốc để tăng tốc các diễn biến tất yếu của nó, hoặc bạn chỉ có thể cố gắng làm chậm nó lại (tùy theo những chọn lựa như trên mà bạn sẽ được gọi là “cấp tiến” hay “phản động”). Bất cứ điều gì khác hơn, mới mẻ khác biệt so với những gì đã được chủ nghĩa lịch sử “tiên tri” trước sẽ bị những người theo chủ nghĩa lịch sử loại trừ.
- Như Popper đã tự khẳng định, Xã hội mở và những kẻ thù của nó là một tác phẩm “chiến tranh” của ông. Nó được viết trong Thế chiến thứ hai, khi Popper đang tị nạn và làm giảng viên tại Đại học Wellington ở New Zealand. Bằng cách tấn công vào chủ nghĩa không tưởng toàn trị và chủ nghĩa lịch sử, Popper đã tấn công vào cái nền tảng trí tuệ của các chế độ chuyên chế lớn, những chế độ đã giày vò đời sống chính trị châu Âu trong suốt những năm 1920, 30 và 40. (Thuật ngữ “chủ nghĩa toàn trị” được đặt ra vào thời điểm này để mô tả đặc điểm của các chế độ như vậy, chủ yếu là của chế độ của Hitler và Stalin).
- Xã hội mở và những kẻ thù của nó ra mắt độc giả vào giữa những năm 1960, điều này khá bất thường, bởi vì triết học chính trị lúc đó thường được xem là một chủ đề đã hết sức lỗi thời. Trớ trêu thay, quan niệm này phần lớn được tạo ra bởi những ảnh hưởng của Wittgenstein, một người Vienna di cư khác, đồng hương của Popper, nhà triết học khét tiếng bởi một thái độ thù địch với đạo đức (bao gồm cả triết học chính trị). Tận tâm noi theo tấm gương của Wittgenstein, các nhà triết học Anglo-Saxon khi đó chủ yếu dành mọi nỗ lực để phân tích các vấn đề về nhận thức luận, siêu hình học và triết học tinh thần, nhằm chứng minh rằng mọi vấn nạn trên thế giới này đều bắt nguồn từ sự nhầm lẫn về chức năng của ngôn ngữ thông thường. Với giới triết học chuyên nghiệp thì dường như “triết học chính trị đã chết”. Nhưng đối với một sinh viên đã mệt mỏi với mọi thứ triết luận đi sâu vào việc phân tích ngôn ngữ, những cuốn sách như Xã hội mở và những kẻ thù của nó hay Sự khốn cùng của chủ nghĩa lịch sử của Popper đã mang đến một sự thay đổi mới mẻ.
- Tất nhiên, lúc cuốn sách ra đời, đó cũng là thời kỳ cao trào của “Chiến tranh Lạnh” khi mà thế giới như bị chia cắt, về mặt chính trị, thành các quốc gia-dân tộc, và các quốc gia này lần lượt bị chia rẽ làm hai thái cực: những quốc gia “tương đối toàn trị” và những quốc gia đã “tương đối tự do”. Khi đó bức tường Berlin vẫn còn nguyên, “Bức màn sắt” giữa Đông và Tây cũng vậy. Hơn nữa, ngay cả những nước như Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha – hiện là thành viên chính thức của EU – thời kỳ đó cũng đang bị những kẻ độc tài cai trị và đàn áp, chế độ toàn trị của những nước này được củng cố bởi một hệ thống tín ngưỡng tôn giáo hùng mạnh. Sự phân chia xã hội của Popper thành “mở” và “đóng” đã được thực tế chứng minh một cách hết sức thuyết phục.
- Trong phần kết của tập thứ hai, Popper đã viết: “Thay vì ra vẻ là nhà tiên tri, chúng ta phải trở thành người kiến tạo nên số phận của mình. Chúng ta phải học cách làm mọi việc tốt nhất có thể và chú ý đến những sai lầm của mình. Và khi chúng ta từ bỏ ý tưởng rằng lịch sử quyền lực sẽ phán xét chúng ta, khi chúng ta đã thôi lo lắng xem lịch sử có minh oan cho mình hay không thì có lẽ một ngày nào đó chúng ta sẽ làm chủ được chính vận mệnh của mình.”
- Karl Popper tin rằng môi trường chính trị thuận lợi nhất để chúng ta trở thành người quyết định vận mệnh của mình là môi trường chính trị cởi mở; một xã hội được hỗ trợ bởi một khuôn khổ các nguyên tắc dân chủ được đảm bảo. Trong số những nguyên tắc này, nó bao gồm việc đối xử bình đẳng với mọi công dân trước pháp luật, không phân biệt giai cấp xã hội hay phương tiện tài chính; quyền bầu cử phổ thông và quyền tham gia các cuộc bầu cử dân chủ với sự chắc chắn rằng lá phiếu của một người sau khi đi bầu sẽ được tính là lá phiếu bầu cử; báo chí tự do và có sự tham gia cũng như quyền của cá nhân được giữ và bày tỏ những ý kiến bất đồng về các chính sách của các cơ quan quản lý mà không có nguy cơ bị coi là kẻ thù của nhà nước; và cuối cùng là một điều lệ bằng văn bản, được tất cả xã hội coi là bất khả xâm phạm, để đảm bảo tính bền vững và thực hiện các quyền nói trên.
P/S: Hiện tại, đã có nhiều bản dịch tiếng Việt khác nhau của bộ sách hai tập Xã hội mở và những kẻ thù của nó (The Open Society and Its Enemies) của Karl Popper. Có mặt sớm nhất là bản dịch của nhóm nghiên cứu của GS Nguyễn Hồng Phong, còn nổi tiếng nhất và phổ biến nhất là bản dịch của TS Nguyễn Quang A. Do nhiều lý do khác nhau nên hiện vẫn chưa có sách giấy xuất bản chính thức nhưng các bạn đọc nếu muốn có thể dễ dàng để tìm đọc bản sách điện tử trên mạng.