HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000

(Thời biến đổi gien)

Kỳ 21

Bùi Ngọc Tấn

*

Nhà văn Dương Tất Từ, dường như cả đời sống ở Tiệp Khắc đi tắc xi đến nhà Dương Tường đón chúng tôi. Trước đó tôi chỉ gặp anh một lần trên điện thoại. Từ Hà Nội, anh gọi điện về Hải Phòng nói chuyện với vợ chồng tôi. Chúng tôi đến nhà anh, ăn cơm trưa với vợ chồng anh. Anh đưa bộ Chuyện kể năm 2000 mới mua và bảo tôi ký tặng.

Anh có biết tôi mua ở đâu không. Ngay trước cửa trụ sở báo Nhân Dân. Hôm qua rẻ rồi. Một trăm năm mươi nghìn một bộ. Ba anh em đi, mua ba bộ. Bao nhiêu cũng có. Anh kể chuyện nhà thơ Tiệp Khắc Jaroslaw Seifert đoạt giải Nobel dù Hội Nhà Văn Tiệp không đề cử ông ta mà lại đề cử người khác. Chị Dương Tất Từ mở tủ lấy ra một cục tiền mới tinh, đóng gói vuông vắn, còn nguyên niêm phong ngân hàng, cứng như đá có thể ném vỡ đầu, đưa cho vợ tôi: Một triệu toàn giấy bạc một nghìn đồng để vợ tôi chi tiêu và đi đặt lễ. Khi ra về, bốn chúng tôi đi song song, và lúc vợ chồng tôi chuẩn bị lên xe taxi, chị Long vợ anh Từ nắm chặt tay vợ tôi, dặn dò:

– Chị chăm sóc anh chu đáo nhé. Anh không phải của một mình chị đâu. Còn của chúng em nữa đấy.

Câu nói của chị Long chắc chắn sẽ nằm mãi trong trái tim tôi. Anh Dương Tất Từ luôn nhắc tôi giữ gìn sức khoẻ. Mùa hè mấy năm sau, khi anh chị đi Đồ Sơn nghỉ mát, trẻ trung, tươi rói, nhanh nhẹn như những thiếu niên hướng đạo, cả hai ghé qua nhà tôi “để xem cái buồng anh chị sống có giống như trong sách không”, anh Từ vẫn luôn miệng:

– Nhớ giữ sức khoẻ. Giải Nobel nó không trao cho những người đã chết đâu.

Có thể khóc được vì những ý nghĩ tốt đẹp đến thế của một người đọc dành cho người viết, của người viết với người viết, vừa mới quen nhau, hiểu nhau qua tác phẩm. Quá nhiều điều tốt đẹp đến mức tôi nghĩ rằng ở Việt Nam chưa có một nhà văn nào được như tôi. Có thể có những nhà văn nhà thơ rất nổi tiếng, vô cùng tài năng, rất được mến mộ, nhưng được chia xẻ, đồng cảm và xót thương đến độ như tôi thì chưa có hay có mà tôi không biết? Như một phát hiện. Một ngạc nhiên. Lại như một tất yếu rằng phải như thế. Rằng cái điều chờ đợi mong muốn đã đến, cái điều phải có đã có. Như một bùng nổ. Một phản ứng dây chuyền. Một dịp để bày tỏ thái độ về sự bất công, mất dân chủ, về lòng dũng cảm, về sự cần thiết phải viết khác đi, sống khác đi. Hay đơn giản hơn, đó là ứng xử đối với một con người bị vùi dập, bị tra tấn. Sự chia xẻ đối với một người chịu nhiều oan khuất đắng cay, bị triệt hạ, bị đốn ngã…

Khi vợ chồng tôi đến toà soạn báo Giáo Dục & Thời Đại, tìm gặp Nguyễn Thị Trâm — một bạn đọc tôi đã gặp ở Hải Phòng —, Nguyễn Bùi Vợi và tất cả chủ khách có mặt trong phòng khách ngừng hết mọi chuyện dở dang và quây lấy tôi. Các anh chị nói, hỏi, nghe. Tôi nhớ nhất một cháu gái còn rất trẻ, áo phông ngắn tay chắc là làm tạp vụ, không chịu đi đâu nữa, kéo cái đôn xa lông, ngồi riêng một chỗ, mắt chữ A mồm chữ O, im lặng nghe, không nói một lời, nhìn tôi như một em bé nhìn một người từ trong truyện cổ tích bước ra. Một người khách ngồi đó nói to với tất cả:

– Tôi rất tự hào là người Hải Phòng.

Nguyễn Bùi Vợi hỏi:

– Tôi đố các vị ngồi đây biết Bùi Ngọc Tấn viết Chuyện kể năm 2000 đoạn nào là dũng cảm nhất?

Câu hỏi có vẻ hóc búa, nhưng câu trả lời thật đơn giản. Lại chính của Nguyễn Bùi Vợi:

– Dũng cảm nhất là đoạn hôn cô Phượng đánh máy.

Tất cả công nhận ý kiến ấy là đúng bằng một trận cười. Biết tôi đang ngồi trong phòng khách báo Giáo Dục & Thời Đại, một chị phóng viên báo Phụ Nữ đi ngang, ghé vào ngay. Và khi chúng tôi về nhà Hồng Vân ăn cơm và nghỉ trưa thì chị và Trâm theo đến.

Lại chuyện về tập sách của tôi. Chị nói chị mua hai bộ. Một bộ chị giữ, còn một bộ chị bay vào Đà Nẵng tặng một gia đình quen. Để họ đọc. Họ phải được đọc sách này. Đó là gia đình người em. Gia đình người anh ở Sài Gòn. Họ chia tay nhau năm 1954. Anh vào Nam. Em ở lại Hà Nội. Người em bị bắt và bị tập trung cải tạo. Người ta đã hỏi cung nhiều ngày nhiều tháng nhiều năm, nhưng người em khăng khăng không chịu nhận tội ở lại miền Bắc làm gián điệp, cung cấp tình hình cho người anh, hai người làm thành một cầu liên lạc như nhận định của cơ quan an ninh. Nếu không thì tại sao hai anh em ruột mà một người đi Nam còn một người ở lại?

Không tìm kiếm được bằng chứng cụ thể nào, người ta cho anh đi tập trung cải tạo.— Có cái hồ lô này thật tiện. Năng suất cao, công việc cứ chạy băng băng. Suốt hơn mười năm tù, vợ con anh lên tiếp tế cho anh được đúng một lần. Họ quá nghèo. Năm mẹ con chỉ trông vào gánh quà sáng của người mẹ. Cho đến một ngày, anh được nghỉ lao động để gặp cán bộ. Một ông lạ mặt ở trên về. Anh lại được hỏi cung.

– Hãy cho biết phương thức hoạt động của các anh.

Không ngờ vẫn còn phải trả lời những điều a,b,c như vậy khi mình đã tù mõm ra rồi, anh tù không giữ được bình tĩnh, đứng lên xô đổ cái bàn vị cán bộ đặt giấy bút lấy cung, rít lên:

– Chúng mày có mọi phương tiện trong tay mà đến bây giờ vẫn hỏi phương thức hoạt động của tao à?

Anh sẵn sàng đón nhận cái chết. Đằng nào cũng chết. Thà chết ngay còn hơn kéo dài cuộc sống thế này rồi mới chết. Buổi hỏi cung kết thúc ở đó.

Người ta không đả động gì đến anh nữa, mặc dù anh xác định sẽ bị cùm xà lim cùng những hình phạt nặng nề nhất kể cả xử bắn. Ít ngày sau, khi xếp hàng đi làm, anh được gọi ở lại trại. Đã nghĩ đến sự kết thúc thì thật bất ngờ: Anh được tha. Được tự do. Chính sự liều mạng bất cần đời của anh đã cứu anh. Người ta đi đến kết luận: Chỉ người không có tội mới có thể hành động như vậy. Khi giải phóng miền Nam, thằng con lớn của anh vào Sài Gòn xem ông bác ruột làm gì ở trong ấy mà bố mình khổ như vậy. Lại một bất ngờ: Người bác mà anh ta oán trách là cơ sở cách mạng.

– Em phải đi máy bay mang vào Đà Nẵng một bộ. Gia đình người em chuyển vào Đà Nẵng sinh sống. Đó là gia đình em quen. Để người ta đọc.

Tôi nghĩ đến Solzhenitsyn. Chuyện nọ gọi chuyện kia. Hẳn sau khi in chuyện tù đầu tiên Một Ngày Của Ivan Denisovich, Solzhenitsyn đã tiếp rất nhiều tù nhân hoặc nhận được rất nhiều thư của những người tù thời Stalin, thời Xô Viết. Đó là những kho tàng vô giá để ông có thể tiếp tục viết những truyện tù — Quần Đảo Gulag thực chất là tập hợp hồ sơ những vụ án, những vụ hành hạ con người một cách tuỳ tiện, dã man dưới thời Stalin mà Solzhenitsyn có được. Nếu bộ tiểu thuyết của tôi không bị cấm, chắc chắn tôi cũng sẽ nhận được nhiều thư, tiếp nhiều bạn đọc là cựu tù nhân đến chơi nhà. Và tôi cũng có thể tiếp tục cái đề tài dường như vô tận này.

Sau khi Chuyện kể năm 2000 ra đời, chỉ có một người bạn tù đến Hải Phòng thăm tôi. Hôm ấy là Chủ Nhật. Vợ tôi từ hành lang gọi tôi:

– Anh Tấn có khách.

Tôi nhìn ra. Một người đàn ông cao lớn đã có tuổi, ăn mặc giản dị đứng ở khuôn cửa nhìn vào. Tôi bật lên:

– Kiều Duy Vĩnh!

Dù đã gần ba mươi năm không gặp nhau, tôi vẫn nhận ra anh. Dù anh đã mập ra. Đã già đi. Chúng tôi ôm lấy nhau. Vĩnh đẩy tôi ra và ép hai tay vào đùi, kiểu báo cáo cán bộ:

– Báo cáo ông thượng uý giám thị phân trại. Tôi đại uý Kiều Duy Vĩnh có mặt.

Đó là một câu Vĩnh nói với ông giám thị trại Vĩnh Quang, tôi đã bê nguyên xi vào Chuyện kể năm 2000, chỉ thay mỗi chữ Duy bằng chữ Xuân. Chúng tôi cười lớn. Vận hạn đã qua. Vẫn còn sống sót. Dắt tay mở mặt cho nhìn. Hoa nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi ([1]). Chúng ta đã từng là nô lệ, từng là súc vật. Không cười sao được. Tôi pha nước mời anh nhưng anh không để ý đến chén nước. Anh nhìn căn buồng hẹp. Nhìn chúng tôi. Cười. Chậc chậc. Vĩnh xuống từ hôm qua. Nhưng sáng nay mới đến. Vì nếu anh có bị theo dõi thì sáng Chủ Nhật cũng là lúc thuận lợi nhất để Vĩnh đến. Anh nói vậy và đưa cho vợ tôi một mảnh giấy. Chị xem đi. Tôi đến từ sáng sớm. Nhưng bà bán nước ngoài cửa bảo bẩy rưỡi ông bà đi ăn sáng, ngồi đây thế nào cũng gặp. Tôi ngồi viết sẵn bức thư, sợ hai ông bà không nhận ra tôi hay có nhận ra nhưng sợ. Anh lấy lại mảnh giấy vợ tôi đang cầm và đọc to cho chúng tôi nghe: “Tôi là Dự, hôm nay đến thăm anh chị Tuấn, từ ngày ở Vĩnh Quang đến giờ chưa gặp nhau…” Lại cười ha hả. Tôi định giả cách làm người đưa thư của Dự cho anh chị. Vĩnh cười ngất với ý định thú vị ấy. Thú thật tôi không ngờ anh viết được như vậy. Chị ạ. Chị đừng giận. Tôi phải nói với chị là tôi không ngờ anh Tấn viết được như vậy. Trong ấy ông này lù khù lắm. Phải công nhận là anh giấu mình rất giỏi. Không ai có thể ngờ anh viết được một tập truyện dầy như thế, hay như thế. Một hôm cháu Thuần con anh Phổ đến gặp tôi, nói: Người ta viết về bố cháu hay sao ấy chú ạ. Tôi đọc ngay đoạn anh viết về anh Phổ. Nó khóc. Nó đòi mượn. Tôi cho nó mượn ba ngày. Chỉ ba ngày thôi. Nên cả nhà phải tập trung lại ngồi nghe một người đọc thành tiếng. Đọc suốt ngày. Người này khản tiếng thì người khác thay. Những đoạn anh viết về anh Phổ về chị Phổ, cả nhà khóc. Chẳng cứ những đoạn ấy. Nhiều đoạn khác. Tôi đọc, nhiều đoạn tôi cũng khóc. Cái đoạn chị Ngọc lên Hà Nội, đến nhà anh chị Diệu sờ khoá, khoá hai khoá. Chậc chậc. Vĩnh vừa nói vừa đứng lên bước tới chỗ đặt tủ đứng sờ vào cái chìa khoá giắt vào ổ khoá và quay lại nhìn chúng tôi. Chậc chậc.

Tôi hỏi Kiều Duy Vĩnh ăn sáng chưa. Anh bảo chưa. Anh không ăn sáng. Nhưng cũng không cho vợ tôi đi mua về cho tôi. Cứ để anh ấy đói một tí. Trong ấy suốt ngày đói còn chịu được cơ mà. Cười. Chị ngồi đây. Cho tôi được nhìn chị một lúc đã. Chị phải ăn mặc diện vào. Nhà tôi diện lắm. Nhưng mà tôi trông anh Tấn hình như hơi gầy đi, yếu đi. Ở trong ấy anh Tấn khoẻ, đầu to, tóc cứng bù lên cơ. Những người tóc cứng là rất khoẻ. Anh phải có chế độ ăn uống nghỉ ngơi làm việc. Uống bia tốt lắm. Không uống nhiều. Không uống say đến xỉn. Hại sức khoẻ. Sáng ra anh làm một hai quả trứng vịt lộn, vại bia. Trưa một vại nữa. Tốt lắm. Đừng ăn trứng gà. Trứng gà tăng cô-let-te-rôn. Anh ăn đều như thế, khác ngay. Tay Vĩnh đây này, anh xem. Còn cứng lắm. Trên bẩy mươi còn thế này. Chị nữa. Chị phải khoẻ. Diện vào. Cũng phải nói thật với anh chị là vợ chồng tôi vẫn ngủ chung, ôm nhau ngủ. Điều hoà âm dương. Cái triết học này của thằng Tầu là ghê. Âm dương không tách biệt. Trong âm có dương. Trong dương có âm.

Trong tù, tôi với Vĩnh chỉ là hai người cùng toán. Thỉnh thoảng cũng chuyện trò chung chung. Có ai tin ai. Có ai dám nói những gì sâu kín đâu. Thỉnh thoảng có tối tôi mò sang chỗ anh, thấy anh đang ngồi im lặng như một bức tượng. Anh đang thiền. Tôi lại về chỗ mình. Suốt thời gian tù cùng nhau, tôi chỉ được một lần nghe Vĩnh kể cái đận anh tù ở Cổng Giời đợt tập trung trước. Rét lắm. Xe đi cả đêm toàn leo dốc, người cứ ngả về phía sau. Anh em tưởng lên đến mây xanh rồi. Sang đến Trung Quốc rồi. Ở Cổng Giời chỉ có một món sột sệt cải thiện là nghệ. Ở Cổng Giời chỉ có một kiểu ngủ là nằm chổng mông, phủ phục, lấy đít, lấy hậu môn sưởi cho bàn chân gót chân, lấy hơi thở từ mồm từ mũi sưởi cho hai bàn tay. Đã tuyệt thực. Nhưng không ai thèm để ý. Một số chết đói. Thế là cạch.

– Anh Phổ chết rồi. Thương anh Phổ quá. Nếu anh Phổ còn sống đọc truyện này cũng mát lòng mát dạ. Con Thuần, mà chả cứ gì con Thuần, nhiều người gặp tôi đều hỏi: Mấy giờ rồi, theo giờ GMT? Vui lắm. Sáng ra khách ngồi quán cà phê toàn nói về tập sách của anh. Chậc chậc.

Vĩnh kể về những ngày kiếm sống gian lao của anh khi anh được ra tù, đến cái cơ đận làm bên Gia Lâm, đi bộ về qua cầu Long Biên, xếp hàng mua bia hơi mậu dịch đến lượt anh thì hết bia mà trong túi chỉ còn đủ tiền mua một vại bia mậu dịch, không thể uống bia chui. Mệt. Khát khô họng. Buồn chán. Thất vọng. Anh quyết định nhẩy xuống sông Cái tự tử, uống no nước cho hết khát rồi chết. Đang vịn lan can, ngắm nhìn dòng nước trôi trước khi lao xuống, thì một chiếc xe com măng ca phanh kít sát chân anh. Một người bạn từ trên xe nhẩy xuống, không hay biết gì về nỗi lòng anh, cứ tưởng anh đang ngắm sông ngắm nước, người bạn ấy ấn vào tay anh mấy đồng bạc, một túi ni lông có chục quả trứng, vài lạng thịt, tươi cười hẹn anh ngày gặp mà không biết mình vừa cứu một mạng người. Nhận chút quà của bạn, Vĩnh nghĩ cuộc đời vẫn còn người tốt, vẫn còn đáng sống.

Sau khi tập sách của tôi được in, Vĩnh xuống Hải Phòng thăm vợ chồng tôi bốn năm lần. Lần nào cũng đến và đi như một cơn gió. Rất nhanh. Chuyện một hồi. Và đi. Lần cuối năm Canh Thìn, gần tết Tân Tỵ cũng vậy.

Không báo trước. Ập vào nhà. Chuyện. Lại có một cái phong bì. Một cái phong bì mầu hồng. Thân gửi chị Tấn. “Của bà ấy nhà tôi.”

Trong phong bì là thư. Và tiền. Một triệu đồng. Thư của chị Phụng. Vợ Kiều Duy Vĩnh.

Hà Nội ngày 12-1-2001.

Chị Tấn thân mến.

Tôi là vợ anh Kiều Duy Vĩnh, một người đồng cảnh với chị trong đời thường. Đọc những trang viết về chị trong Chuyện kể năm 2000, tôi vô cùng xúc động vì mẹ con tôi chỉ có đủ tiền mua 2 lạng thuốc lá sợi, cuộn xong đem bán, lại mua 2 lạng khác để làm tiếp. Mẹ con dành dụm các thứ để lên tiếp tế cho chồng, bao nhiêu vất vả đường xá xa xôi. Lên đến trại lại nghe tin sét đánh ngang tai: Anh ấy cải tạo không tốt, không cho nhận quà. Đồng cảnh đồng cảm kể sao cho xiết chị ơi!! Thư không nói được hết lời, nhân dịp Tết, Xuân đến, vợ chồng tôi lòng thành biếu chị một chút quà mọn để ăn Tết. Xin chị nhận cho tấm lòng của chúng tôi. Chúc anh chị và gia đình ăn Tết thật vui. Nay kính thư. Phụng.

Tôi xuống thăm anh chị và làm giao thông liên lạc cho bà ấy. Vĩnh nói sau khi chúng tôi đọc xong thư. Bây giờ hoàn thành nhiệm vụ rồi. Tôi xin phép đi đây. Vợ tôi đem mấy lon bia ra mời anh cùng uống liên hoan, nhưng anh bảo anh vừa uống bia rồi. Chúng tôi giữ anh lại ăn cơm, anh nói có việc phải về ngay. Tôi tiễn anh ra cổng. Anh thì thầm: Lên Hà Nội phải đến tôi nhé. Anh đến rồi. Nhưng còn chị. Nhà tôi mong gặp chị lắm. Thằng nhớn nhà tôi nói để anh mừng. Nó vừa trúng một “quả” đất. Một “quả đất” vỡ mặt! Tôi nắm chặt tay anh, mừng cho anh. Tôi biết Hà Nội lại đang lên cơn sốt đất.

Kiều Duy Vĩnh, con người sôi nổi tưởng chừng không gì đánh gục được ấy đã mất rồi!

Lần gặp Vĩnh cuối cùng là đầu năm 2002. Vẫn xuống từ sớm. Vẫn chưa ăn sáng. Và vẫn không cần ăn sáng. Cứ ngồi đây chuyện đã. Anh chị khoẻ không? Tôi trông anh chị khoẻ đấy. Phải khoẻ. Chị lên Hà Nội chơi đi. Anh chị ở nhà tôi. Bao nhiêu ngày cũng được. Một buồng riêng dành cho anh chị. Riêng hết. Toa lét cũng riêng. Anh chị một đầu nhà. Vợ chồng tôi một đầu nhà. Chỉ có bốn chúng ta thôi.

Vĩnh lục túi áo bông. Chà! Một chiếc áo bông Mỹ chỉ trông cũng ấm. Lấy ra 200 đô la đưa cho vợ tôi. Hai tờ giấy 100. Tôi giơ tay ngăn lại:

– Gượm đã. Cái gì thế này. Giải thích mục đích ý nghĩa đã.

Vĩnh cười:

– Vĩnh vừa đi Mỹ về!

Chúng tôi tròn xoe mắt:

– Người ta cho anh đi à?

– Căng lắm. Xin mãi không được. Phải đích thân tướng Phạm Chuyên giải quyết. Trước khi đi Vĩnh phải làm cam đoan.

– ?

– Tôi làm cam đoan. Cam đoan không ở lại Mỹ. Đi Mỹ rồi lại về Việt Nam. Nhưng người ta bảo không phải cam đoan thế. Bác phải làm cam đoan khi sang Mỹ không viết bài, không trả lời phỏng vấn, không họp báo, không gặp những người phản động. Tôi viết lại cam đoan theo nội dung trên nộp cho sở Công An và hỏi thêm: Thế tôi gặp Nguyễn Cao Kỳ được không? Trước tôi và Nguyễn Cao Kỳ cùng học. Họ bảo được.

Chúng tôi cười ầm vì câu trả lời lạ lùng ấy.

Vĩnh tiếp:

– Tôi ở Mỹ ba tháng. Đi tất cả các bang. Không mất xu nào. Ai cũng quý vì quen anh lại được anh đưa vào tác phẩm. Bên ấy bao nhiêu người hâm mộ anh. Họ cứ hỏi tôi về anh về chị về các cháu. Tôi cũng thơm lây. Tiệc tùng lu bù. Trong một bữa tiệc, một người tôi không biết tên, bước tới chỗ tôi ngồi, đưa cho tôi 200 đô “nhờ anh mang về cho nhà văn Bùi Ngọc Tấn.”

í

Cuối tháng 3 năm 2000 có tin tôi bị tước quyền đại biểu đi dự đại hội nhà văn lần thứ 6. Đây là lần đầu tiên tôi được đi dự đại hội nhà văn. Tôi là đại biểu được bầu. Không chỉ đại biểu của Hải Phòng. Mà còn là đại biểu của các tỉnh thuộc Bắc Bộ. Trong đại hội nhà văn các tỉnh thuộc Bắc Bộ ở Việt Trì, trừ các nhà văn Hải Phòng, tôi chỉ quen một người, bắt tay được một người: Nhà văn Lý Biên Cương ở Quảng Ninh, người tôi đã gặp một lần. Thế nhưng may mắn sao, tôi vẫn trúng cử đại biểu. Tôi nghĩ: Tôi không chỉ là đại biểu của Hải Phòng nên không thể có chuyện tước quyền đại biểu của tôi ở Hải Phòng. Tôi sẽ cứ lên đại hội. Không cho tôi vào hội trường thì tôi ngồi ngoài cửa đấu tranh để được vào, để bị đuổi khỏi phòng họp một cách có nguyên tắc, có tổ chức, nghĩa là phải có báo cáo của ban kiểm tra tư cách đại biểu và biểu quyết của đại hội.

Tôi thấy mình cần làm ngay một bản tuyên bố về quyển tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000. Bản tuyên bố ban đầu hơi bị dài dòng, ít chất khẳng định, cuối cùng đã được viết như sau:

Bộ tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 của tôi khởi thảo từ giữa năm 1990, mở đầu thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, được xuất bản tháng 2 năm 2000, nghĩa là mười năm sau.

Đó là tất cả những gì chính tôi đã sống, đã trải qua, đã chiêm nghiệm và thôi thúc tôi viết trên trang giấy, là sự thật mà năm tháng làm rơi rụng đi rất nhiều, nhưng vẫn còn đọng lại trong tim, tinh chất không thể nào quên. Tôi viết với tất cả tâm huyết, trách nhiệm công dân, trách nhiệm nhà văn và chưa một lần hay chỉ một thoáng nghi ngờ mình là người không yêu nước.

Bộ sách ngay khi ra đời đã được sự chào đón nồng nhiệt của đông đảo bạn đọc thuộc mọi lứa tuổi, mọi cương vị trên mọi miền đất nước dù chưa chính thức phát hành, dù mới dừng lại ở sách tặng sách biếu, sách mua thêm tại nhà. Người viết đã được chia xẻ và sống trong hạnh phúc lớn lao mà cả đời hắn chưa bao giờ được hưởng.

Nhưng cũng có nhiều người chê nó, phê phán nó nặng nề. Những ý kiến khác nhau, trái ngược nhau về một tác phẩm văn học là chuyện bình thường. Tôi chân thành cám ơn tất cả các vị, các bạn. Chỉ xin phép nói thêm: Tác giả đích thực của quyển tiểu thuyết đó không phải là tôi. Bùi Ngọc Tấn chỉ là người làm văn bản và ký tên vào văn bản. Tác giả đích thực của Chuyện kể năm 2000 là một thời đã qua ba bốn mươi năm rồi, là những người sống trong thời ấy, nghĩa là có cả tôi.

Tôi làm văn bản một cách trung thực.

Tôi làm văn bản chỉ với một ý nghĩ: Những chuyện tương tự mà tới nay, năm 2000, nhìn lại thật đau lòng và mong muốn đừng bao giờ để xẩy ra như vậy nữa.

Thời gian sẽ nói lời phán xét cuối cùng.

Bùi Ngọc Tấn

Đã xác định thái độ đối với tư cách đại biểu của mình thì có điện thoại từ Hà Nội gọi về. Đình Kính. Đình Kính có nhiều việc phải đi Hà Nội. Anh phải nai lưng ra viết để kiếm sống. Kính là một trong số ít nhà văn xây được nhà bằng ngòi bút. Và cũng vì vậy mà quyển tiểu thuyết của đời anh cứ lùi lại, lùi lại mãi. Kính quen rất nhiều người trên Hà Nội. Lớp nhà văn thời “Nam Bắc phân tranh” như anh đang chiếm lĩnh những vị trí chủ chốt trong quản lý văn học. Kính nói qua điện thoại: Ngày mai chủ nhật, Hữu Thỉnh sẽ về Hải Phòng cùng với em. Thỉnh về chỉ để gặp anh thôi. Mang theo ý kiến của Bộ Chính Trị. Hình như biết tôi hoang mang khi nghe đến đấy, Kính tiếp ngay: Ý kiến của Bộ Chính Trị tốt thôi. Không có gì mới hẳn. Nhưng tốt cho anh. Trưa mai Hữu Thỉnh sẽ ăn trưa bên nhà em. Anh sang ăn luôn. Em gọi điện cho nhà em rồi.

Lấp la lấp lửng. Kín kín hở hở. Chẳng biết đâu mà đoán. Mà cũng chẳng có gì phải suy nghĩ cho mệt người. Đi họp thì đi. Không đi thì thôi. Nhưng phải đúng nguyên tắc. Và không thể cứ bảo mình cái gì là mình làm như thế. Kính nhấn mạnh hai lần “ý kiến của Bộ Chính Trị, tốt thôi. Chẳng có gì tốt với mình đâu. Nếu có là ngoài ý muốn của những người ban phước, người ta bị buộc phải làm ra vẻ tốt với mình. Dù sao bây giờ chẳng như thời Trần Đông bắt mình nữa.

Khoảng 10 giờ sáng hôm sau Kính, Thỉnh và cả ông bạn đồng tuế Vân Long nữa về nhà tôi. Ô tô đi từ Hà Nội về thẳng nhà tôi mà không qua nhà Kính mặc dù nhà Kính ngay bên kia đường. Thỉnh bảo: Nhà anh ở đây à? Và quan sát căn buồng hẹp của tôi. Tôi nhìn Vân Long, bất ngờ vì sự xuất hiện của anh. Từ khi in sách lôi thôi đến giờ mới gặp anh. Nếu có người bạn nào ăn ở có tình thì người ấy là Vân Long. Trước đây, hồi thập kỷ 60 chúng tôi chỉ biết nhau sơ sơ. Anh về Hải Phòng được ít ngày thì tôi bị bắt. Thế nhưng sau này mỗi khi lên Hà Nội, gặp anh ở phố Bà Triệu thân yêu của tôi, bao giờ anh cũng giữ tôi lại trò chuyện. Tập Một Thời Để Mất của tôi, tập sách đầu tiên trình diện trở lại, được anh viết bài giới thiệu trên báo Lao Động, anh còn gửi cả bản chính bài viết để tôi biết những đoạn nào bị biên tập cắt. Tôi bảo Vân Long:

– Chưa kịp tặng anh sách, đã bị tịch thu rồi.

Vân Long cười:

– Có rồi. Hội này mỗi người mua mấy bộ. Hôm nay biết anh Hữu Thỉnh về thăm anh, nhẩy xe đi nhờ. Xuống thăm anh và thăm anh Trần Quốc Minh. Chị đi vắng à? Tiếc quá.

Hữu Thỉnh cũng bảo: Em rất muốn được gặp chị. Tôi nói: Nhà tôi biết các anh về, muốn gặp lắm nhưng phải đi lễ hội Phủ Giầy. Vừa đi sớm nay. Hôm nay hội mở. Nhà tôi đi lễ từ hồi còn “bóng tối” cơ, chứ không phải thành phong trào như bây giờ.

Thỉnh lấy từ trong túi ra chai vang Pháp đưa cho tôi. Chưa hết. Anh còn rút từ trong túi áo ra một cái phong bì. Tôi tròn mắt:

– Gì thế này? Tiền à? Mình có viết bài cho báo Văn Nghệ đâu mà có nhuận bút?

Thỉnh cười: Của em. Biếu anh.

Không chậm một giây, Vân Long cũng rút ra một chiếc phong bì:

– Biết tin tôi hôm nay về chơi với anh Tấn, một bạn đọc yêu cầu giấu tên gửi tôi món quà này để góp phần với anh chị nuôi các cháu ăn học.

Anh đưa phong bì cho tôi và cười:

– Cảm động là ở chỗ ấy. Anh ấy đọc và cứ nghĩ rằng các cháu vẫn còn bé như trong sách. Nào biết đâu các cháu đã trưởng thành và đang đi làm nuôi bố mẹ.

Đình Kính giọng nghiêm trang, rõ ra một chi hội trưởng chi hội nhà văn Việt Nam tại Hải Phòng đang làm công việc, tuyên bố lý do:

– Anh Hữu Thỉnh hôm nay về thăm anh với tư cách phó tổng thư ký, bí thư đảng đoàn Hội Nhà Văn, được sự uỷ nhiệm của các đồng chí trong Bộ Chính Trị…

Nhìn vẻ mặt phấn khởi của Kính, tôi cũng lờ mờ hiểu được những điều các anh sẽ nói sẽ là những điều tốt lành, cũng như bữa ăn trưa nay, Kính dặn chị Vân làm mời chúng tôi là để liên hoan mừng cho những điều tốt lành ấy. Hữu Thỉnh nói với tôi:

– Anh đã hoàn thành nhiệm vụ của đời anh rồi. Người ta nói này nói khác. Em nói anh Tấn anh ấy viết quyển này để giải toả những ẩn ức trong người anh ấy. Anh ấy viết từ năm 1990 chứ đâu anh ấy biết năm 2000 là năm Nhân Quyền để anh ấy gửi đi xuất bản.

Thỉnh nói Thỉnh đã gặp các uỷ viên Bộ Chính Trị Nguyễn Phú Trọng, Phạm Thế Duyệt, Lê Xuân Tùng, phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm… báo cáo ý định về Hải Phòng thăm tác giả. Các anh ấy hoan nghênh và nói: Anh về thăm anh Tấn đi. Đấy là một việc tốt ([2]). Hữu Thỉnh lại bảo các anh ấy đều đọc của anh rồi. Tôi hỏi:

– Thế anh Lê Xuân Tùng có ý kiến gì không?

Lê Xuân Tùng là uỷ viên Bộ Chính Trị phụ trách toàn bộ khối tuyên truyền khoa giáo, văn hoá tư tưởng. Ý kiến của Lê Xuân Tùng là rất quan trọng đối với tập sách, rất quan trọng đối với tôi. Thỉnh bảo:

– Ông Lê Xuân Tùng không nói gì nhưng bà Lê Xuân Tùng thì khen lắm.

Cả bốn chúng tôi đều cười. Thật mát ruột cho tôi. Tôi nghĩ tập sách của tôi đủ sức thuyết phục cả ông Lê Xuân Tùng nữa. Chắc chắn ông Tùng thấy hay nên không bác lời khen của bà vợ, ông thấy hay nhưng không dám nói như bà Tùng. Ở cương vị uỷ viên Bộ Chính Trị, ông Lê Xuân Tùng làm sao có được tự do, làm sao dám nói những điều mình nghĩ trong đầu như bà vợ. Cuộc sống này thật buồn cười.

Càng có vị trí cao càng mất tự do, càng phải giả dối, càng không dám sống thật, nói thật ([3]). Thỉnh bảo:

– Không có chuyện xét lại tư cách đại biểu của anh đâu. Hôm nay em chính thức nói với anh rằng: Anh là đại biểu được bầu của Bắc Bộ. Anh đi đại hội. Đàng hoàng. Nhưng em chỉ xin anh đừng phát biểu gì. Anh cứ ngồi uống bia cho em.

Tôi nói:

– Thỉnh có biết mong ước lớn nhất của mình khi đi đại hội là gì không? Là được gặp lại một số bạn cũ mà nếu không có đại hội thì không thể nào gặp được. Có lẽ đến chết cũng không gặp được nhau. Như anh Vũ Lê Mai, anh Nguyễn Gia Nùng, anh Nguyễn Quang Sáng…

Thỉnh vui vẻ:

– Anh Nguyễn Gia Nùng ở Nha Trang. Trúng đại biểu rồi. Trúng với số phiếu cao. Anh Sáng cũng có số phiếu rất cao…

– Già sắp chết rồi. Gặp lại nhau một tí. Thế thôi. Mình chẳng có gì để phát biểu. Mình sẽ ngồi im như Thỉnh dặn. Nhưng nếu có ai đụng đến mình thì mình phải trả lời.

Tôi vẫn nghĩ có thể có người sẽ nói đụng đến tôi, kinh doanh tôi để kiếm tí tín nhiệm, tí quyền tí lợi. Nhưng Hữu Thỉnh lắc đầu:

– Không ai đụng đến anh đâu. Chỉ có các anh em trẻ. Họ nói đến anh để họ nói đến vấn đề khác thôi. Có ai phỏng vấn anh thì anh cũng đừng trả lời.

– Chỉ uống bia và gặp lại bạn cũ. Thỉnh cứ yên tâm. Không tham luận, không phát biểu ý kiến, không trả lời phỏng vấn. Cả trong nước, ngoài nước. Nói cái gì? Những điều cần nói, mình nói trong sách rồi.

Hữu Thỉnh gật gật:

– Anh cứ thế cho em nhờ. Em bảo với các anh ấy là anh Tấn rất khiêm tốn, hiền lành ít nói. Năm nọ cái giấy mời của Nghị Viện Châu Âu, đề nghị anh ấy ở lại anh ấy đồng ý thôi.

Phải. Năm ấy gặp Hữu Thỉnh về chuyện giấy mời của Parlement International des Ecrivains, Thỉnh bảo: Giấy mời của anh, Bộ Chính Trị có họp. Ban Chấp Hành — Hội Nhà Văn — chúng em không có nghị quyết gì. Chỉ có lời khuyên anh đừng đi. Anh đi, khi về sẽ chịu một áp lực rất lớn đấy. Tôi biết chẳng bao giờ mình được đi một khi Thỉnh nói như vậy. Chỉ riêng chuyện họ không cấp hộ chiếu cũng đủ làm mình bó tay rồi. Tôi đã trả lời: Anh nói thế, tôi hiểu. Đi làm sao được khi các ông ấy không cho đi. Với lại đời tôi có những việc quan trọng hơn một chuyến đi.

Chuyện một lúc, chúng tôi kéo nhau sang nhà Đình Kính ăn cơm. Chị Vân đã chuẩn bị đâu vào đấy một bữa rượu theo đúng tinh thần “chỉ đạo” mà sếp Kính phôn từ Hà Nội. Một bữa ăn ngon và thật vui, một bữa liên hoan mừng thắng lợi, đúng như tôi đoán. Trên đường sang nhà Kính, tôi đã kịp bóc hai cái phong bì. Phong bì của Hữu Thỉnh là một trăm nghìn, bằng những phong bì mừng hỉ sang trọng hồi đó. Đây cũng là một thứ anh mừng hỉ cho tôi. Phong bì Vân Long đưa nhiều đến bất ngờ: Một triệu đồng. Tôi cố gặng Vân Long về người bạn đọc giấu tên. Và anh đã nói ra: Anh Lê Thấu, tổng biên tập báo Sức Khoẻ Và Đời Sống, nguyên phó tổng biên tập báo Nhân Dân Chủ Nhật. Để tránh hiểu lầm, tôi xin phép được nói thêm một chút. Anh Lê Thấu muốn giấu tên khi cho tiền tôi không phải vì anh sợ. Anh không muốn nói tên chỉ vì anh thấy không cần thiết phải cho tôi biết tên. Ít ngày sau khi tôi đến thăm anh ở toà soạn, anh reo lên và ôm lấy tôi. Tôi rất nhớ buổi sáng hôm ấy, một buổi sáng đầu hè. Đặng Xuân Hoà hẹn vẽ chân dung tôi vào lúc mười giờ ở nhà Dương Tường. Trong khi chờ Hoà tới, tôi tranh thủ xe ôm đến anh. Cũng là lần đầu tiên tôi bước vào một toà soạn báo thời hiện đại. Rất chật. Bàn nọ sát bàn kia. Máy vi tính xan xát. Tổng biên tập ngồi ở một góc phòng, cách những dẫy bàn khác một lối đi hẹp. Tôi bước đến bàn anh theo hướng dẫn của một ai đó. Thấy tôi đến, một người khách đứng lên, nhường ghế và nhường cả tổng biên tập cho tôi.

Lê Thấu nhìn tôi:

– Mời anh ngồi. Anh… có việc gì ạ?

Tôi xưng tên. Anh reo lên:

– Anh Bùi Ngọc Tấn!

Tất cả mọi người trong toà soạn nhất loạt quay lại nhìn tôi. Một nữ phóng viên tới lấy ấm chén pha nước ngay. Lê Thấu đưa bao thuốc ba số cho tôi:

– Anh vẫn hút thuốc đấy chứ. Anh quấn thuốc lá và hút thuốc phế phẩm mà.

Thì ra cô Thủy đang pha nước đây là đồng hương với tôi. Em làm phóng viên ở đây. Em người Hải Phòng. Trước em làm ở kho thuốc Văn Minh. Thời gian ông Độ giết vợ bị bắt giam xà lim với anh, em đang làm ở đấy. Độ trong truyện được gọi là Đỗ. Bạn đọc dễ dàng nhận ra nguyên mẫu. Cả toà soạn ngừng công việc quây lại chỗ chúng tôi. Một người cao lớn vừa bước tới vừa nói oang oang — mà sau này tôi mới biết là Bùi Bình Thi:

– Hôm nọ công an Hoàn Kiếm hỏi tôi về tập sách của anh. Tôi bảo cấm là ngu. Tập sách chân thật thế có cấm cũng không được, đánh cũng không được. Lờ đi là tốt nhất. Cấm là ngu! Tôi mà là lãnh đạo tôi mời anh lên trò chuyện vui vẻ. Hoặc về Hải Phòng làm việc thì đến thăm anh. Thăm tận nhà. Cấp nhà mới cho anh. Thế mới cao tay chứ. Cả đồn nghe mình nói cứ ngớ ra.

Cô Lan, một thiếu phụ mảnh dẻ, trưởng phòng văn nghệ của báo, ngồi bàn gần đó, kéo ngăn kéo rút ra hai tập sách bìa bọc giấy báo, lật cho tôi xem:

– Em cứ bọc bìa vào thế này này. Đi đâu cũng mang theo. Đọc. Chẳng ai biết mình đọc cái gì. Bộ này em mượn của vợ Đặng Xuân Hoà đây.

Hoàng Kỳ, con trai nhà thơ Hoàng Cầm thì bảo:

– Em chưa đọc. Bố em đang đọc. Bố em bảo lão Tấn đi tù khổ hơn mình.

Lê Thấu định tổ chức bữa ăn trưa giữa chúng tôi ngay hôm ấy nhưng tôi nói tôi đã hẹn Đặng Xuân Hoà. Anh tiễn tôi ra tận đường, chỗ người lái xe ôm vẫn chờ tôi cạnh gốc cây:

– Anh về nói với chị là tôi rất muốn gặp chị. Chị thật tuyệt vời. Người Hà Nội gốc là thế đấy. Anh nói với chị là tôi cũng người Hà Nội gốc. Lần sau anh bảo chị lên cùng với anh và anh chị phải ăn trưa với chúng tôi.

Rồi lại:

– Có gì anh gửi lên cho tôi. Tôi in. Nhuận bút ở đây có khi hơn báo Văn Nghệ đấy.

Nghe lời anh tôi gửi lên bài viết về Lê Bầu. Anh in ngay. Anh còn cử Vân Long đến nhà Lê Bầu lấy ảnh tôi chụp với Bầu ở Đồ Sơn trong lần đi trại sáng tác của nhà xuất bản Quân Đội hai tháng trước khi Chuyện kể năm 2000 ra đời. Sau khi báo phát hành, trong một cuộc họp của ngành báo chí, Hữu Thọ, trưởng Ban Tư Tưởng Văn Hoá Trung Ương Đảng nói:

– Anh Lê Thấu đâu rồi. Báo Sức Khoẻ & Đời Sống dạo này cũng văn nghệ gớm nhỉ. Đăng bài của ông Bùi Ngọc Tấn viết về ông Lê Bầu.

Anh Lê Thấu đã tươi cười đáp lại ông uỷ viên trung ương đảng:

– Báo cáo anh. Báo Nhân Dân, báo đảng cũng còn đăng văn nghệ nữa là báo chúng tôi.

In cho tôi trong lúc tên tôi chưa thể xuất hiện là một hành động dũng cảm. Hơn nữa lại là bài viết về Lê Bầu, cái ông Lê Bàn trong tiểu thuyết của tôi, quyển tiểu thuyết mà Hữu Thọ và Nguyễn Khoa Điềm đã cấm — hoặc vâng lệnh ai đó cấm, — Lê Thấu là một ông tổng biên tập tuyệt vời! Không những thế, anh còn tặng chúng tôi báo Sức Khoẻ & Đời Sống cả năm giời. Trong nhà tôi thỉnh thoảng lại vang lên câu nói:

– Bác Lê Thấu bảo ăn nhiều món rán, món nướng không tốt đâu. Dễ bị ung thư lắm đấy.

– Chuối dạo này thấy bán đầy đường. Sao nhà mình không mua chuối. Bác Lê Thấu bảo chuối còn có rất nhiều vi-ta-min C.

– Bác Lê Thấu bảo đi đâu cũng nên mang theo mấy gói chè gừng…

Gặp Hữu Thỉnh, Vân Long hôm trước, hôm sau tôi nhận được thư Vũ Bão. Vẫn một thứ văn điện tín — bắt chước Hemingway chăng? — viết bằng máy chữ trên giấy điện báo thó được ở đâu đó. Bức thư chứng tỏ các bạn tôi ở Hà Nội cũng rất nhậy tin:

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vẫn là đại biểu chính thức của đại hội toàn quốc Hội Nhà Văn Việt Nam sẽ khai mạc vào ngày 15-4-2000 stop tình hình ấy không thể đảo ngược stop xin nâng cốc chúc mừng thắng lợi của chúng ta stop hẹn gặp nhau tại đại hội stop.

Cùng với thư Vũ Bão là một bản phỏng vấn của báo Văn Nghệ phỏng vấn “một số nhà văn đáng chú ý lần đầu tham dự đại hội nhà văn” được gửi tới tôi. Ba câu hỏi trong đó có câu: Theo đồng chí, để văn học nước ta có nhiều tác phẩm lớn hơn nữa trong tương lai gần, xứng đáng với tầm vóc đất nước và dân tộc, ngoài sự cố gắng hết mình của các nhà văn, cần phải thêm những yêu cầu gì khác?

Tôi trả lời rất thẳng thắn câu hỏi này với ý chính là phải có tự do dân chủ, một điều kiện không thể thiếu. Bài trả lời phỏng vấn không được in, đúng như dự đoán của tôi. Tôi viết nó cũng chỉ với muc đích thử test. Thế thôi. Nhưng tôi lại nhận được một bài thơ của Nguyễn Thành Phong, người phỏng vấn tôi, viết tặng tôi, gửi qua đường bưu điện:

Không bao giờ cũ

Kính tặng anh Bùi Ngọc Tấn

Bất công đã giáng xuống đời anh

như đất lấp lên cây

những ngày dài thiếu nắng

Tụt tới đáy của đắng cay buồn nản

khát vọng lại đâm chồi

đợi vươn lên ánh sáng

Những người tốt thường hay bị bắn lén

nhưng khó chết vì

những viên đạn không dám ngắm thẳng

người tốt có thể ngã vì bàn tay một kẻ ác

nhưng dễ dàng đứng lên

bởi bao bàn tay của những người tốt khác…

Đã gần tuổi bẩy mươi

anh vẫn cầm bút viết

viết để cảnh báo những ai sắp trở thành kẻ ác

viết để ngợi ca lòng tốt của con người

chủ đề này chẳng có gì mới mẻ

nhưng mãi mãi không bao giờ cũ cả…

— Nguyễn Thành Phong

Nhiều báo đã đăng bài thơ này của Nguyễn Thành Phong. Tôi rất thích câu Đã gần tuổi bẩy mươi / anh vẫn cầm bút viết / viết để cảnh báo những ai sắp trở thành kẻ ác. Cuộc sống này là môi trường nuôi dưỡng cái ác nên chắc chắn có rất nhiều người đang trở thành kẻ ác và sắp trở thành kẻ ác.

B.N.T.

([1]) Kiều – Nguyễn Du.

(2)Theo Đình Kinh thì Thỉnh nói vậy cho nhẹ nhàng câu chuyện thôi, chứ Hữu Thỉnh về là nhân danh Bí thư Đảng đoàn được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ gặp tôi. Cũng như mùa thu năm 2000, gặp nhau trong buổi giao lưu giữa Hội Nhà văn Hà Nội và Hội Văn nghệ Hải Phòng, Bằng Việt bảo tôi: Chuyện xét lại tư cách đại biểu của anh là có thật. Chúng tôi phải nói với các ông ấy là chớ làm như vậy. Cứ để anh đi đại hội. Việc đó chỉ thể hiện sự rộng rãi trong chính sách, trong đối xử, chỉ có tốt cho đảng thôi chứ không sao cả.

(3) Hữu Thỉnh nói với tôi rằng nhiều người nhờ Thỉnh mua Chuyện kể năm 2000 trong đó có Lê Huy Ngọ, Nguyễn Sinh Hùng, còn Nguyễn Duy nói với tôi Võ Văn Kiệt mượn Duy bộ Chuyện kể năm 2000 và không trả lại. Nói chuyện này không phải để có thêm vinh dự mà là sự vô trách nhiệm của lãnh đạo đối với nghệ thuật.

(Xem tiếp kỳ sau)


Comments are closed.