2000 thuật ngữ Tâm lý học (kỳ 37)

Hoàng Hưng

371. Delay conditioning: (sự) Điều kiện hoá trì hoãn

Một kiểu điều kiện hoá trong đó kích thích có điều kiện được đưa ra lặp đi lặp lại sau những thời kì ngày càng dài, cho đến khi cuối cùng có một sự trì hoãn rất lâu giữa việc khởi ra một kích thích có điều kiện và sự xảy ra kích thích không điều kiện. Nhà sinh lí học Nga Ivan Petrovitch Pavlov (1849-1936) khám phá thấy động vật không chỉ có năng lực kịp thời nối liền quãng cách giữa hai loại kích thích mà cuối cùng còn có năng lực trì hoãn việc đáp ứng có điều kiện cho đến ngay trước khi có kích thích không điều kiện.

372. Delayed ejaculation: (sự) Hoãn phóng tinh

Một trục trặc về vận hành sinh dục ở đàn ông, đặc trưng là tình trạng trì hoãn phóng tinh rõ rệt hoặc phóng tinh không thường xuyên một cách rõ rệt, hoặc không thể phóng tinh sau kì kích thích trong chu kì đáp ứng tính dục của nam, gây nên trầm cảm bệnh lí khá rõ trong ít nhất 6 tháng. Việc trì hoãn phóng tinh nhất thời là phổ biến: theo nghiên cứu của Mĩ, 25% nam giới báo cáo là không luôn luôn phóng tinh khi giao hợp. Cũng gọi là orgasmic impotence (bất lực cực khoái) hay impotence (bất lực).

373. Delusion disorder: Rối loạn hoang tưởng

Một chứng loạn tâm có đặc trưng là một hay nhiều ảo tưởng, như bị rình rập, đầu độc, được yêu từ xa, bị người tình lừa dối, hay có dị dạng về thân thể. Chỉ có thể chẩn đoán được nếu các triệu chứng kéo dài ít nhất một tháng và người mắc chưa từng có những tiêu chí của bệnh tâm thần phân liệt.

374. Delirium: (sự) Mê loạn

Một rối loạn nhận thức thần kinh dính líu đến sự mờ ảo ý thức và khiếm khuyết về nhận thức, bao gồm những triệu chứng như mất trí nhớ, mất phương hướng, xáo trộn ngôn ngữ, thay đổi về tri nhận, và thường là xáo trộn về giấc ngủ (mất ngủ hay ác mộng), rối loạn phát triển nhanh (thường theo giờ hoặc ngày) và không thể giải thích bằng chứng dementia (mất trí), nhưng có bằng chứng đi kèm cho thấy nó có nguyên nhân từ một điều kiện y tế tổng quát, ngộ độc hay do cai nghiện, do thuốc men…

375. Delusional misidentification: Hoang tưởng nhận dạng

Hoang tưởng về nhận dạng của một hay những người khác.

376. Delusional of control: Hoang tưởng bị kiểm soát

Hoang tưởng rằng hành động hay tư tưởng của mình bị kiểm soát từ bên ngoài.

377. Delusional of reference: Hoang tưởng qui chiếu

Hoang tưởng là có những người, những việc, những vật xung quanh có một ý nghĩa đặc biệt (thường là rủi ro), như là tin rằng mọi người đang nói đến hay đang âm mưu sau lưng mình.

378. Dementia: (chứng) Mất trí

Một sự suy giảm tổng quát, rộng khắp của các chức năng nhận thức (như trí nhớ, ngôn ngữ, và vận hành), do nhiều nguyên nhân. Sự mất các năng lực trí tuệ nghiêm trọng đến mức cản trở công việc hằng ngày và công việc xã hội và nghề nghiệp. Các chứng mất trí được phân loại theo nguyên nhân, có thể là bệnh Alzheimer, bệnh mạch máu não, bệnh Parkinson, bệnh Hungtinton, do biến chứng HIV, nghiện rượu, nghiện ma tuý… Tuổi mắc bệnh tuỳ theo nguyên nhân nhưng thường sau 65 tuổi. Tuy nhiên, không nên nhầm với chứng kém trí nhớ do tuổi tác (ít tác động xấu đến vận hành công việc hằng ngày).

379. Demonic possession: (hiện tượng) Ma ám

Sự xâm chiếm cơ thể (được cho là) do hồn ma ác hay quỷ dữ kiểm soát tâm trí và linh hồn, sinh ra loạn tâm, ốm đau, và hành vi tội ác. Nhiều hình thức bệnh về thể xác và tâm lí trước đây được quy cho sự ma ám, nhất là các bệnh động kinh, tâm thần phân liệt… Cách chữa trị truyền thống chứng này là nghi thức trừ tà (exorcism).

380. Denial: (sự) Chối bỏ

[trong Phân tâm học]: Một cơ chế phòng vệ dính líu đến việc chối bỏ hay không thừa nhận một cách ý thức những suy nghĩ, tình cảm, ham muốn hay các khía cạnh của thực tế mà có thể gây đau đớn hay không thể chấp nhận, như khi một người có bệnh ở giai đoạn cuối từ chối nhận biết cái chết tiềm ẩn của mình. Sigmund Freud (1856-1939) đưa thuật từ này vào phân tâm học vào năm 1923 trong một bài viết trên tờ “The Infantile Genital Organization” (Tổ chức sinh thực khí trẻ em) trong đó ông bàn hiện tượng này liên quan đến những trẻ chối bỏ việc con gái không có dương vật mặc dù chúng có thể nhìn thấy đúng như thế. Ông phát triển khái niệm này vào năm 1938/40 trong sách An Outline of Psycho-Analysis (Một đề cương Phân tích tâm lí). Cũng gọi là disavoual.

Comments are closed.