Trần Ngọc Cư – Linh tinh về quí tộc

clip_image001Lớn lên ở Huế, tôi thường nghe người ta nói ông nọ, ông kia là người hoàng phái, nghĩa là thuộc dòng dõi với các vị vua triều Nguyễn – những người mà dân chúng gọi là “các mệ” hoặc “các mụ” cho dù họ là đàn ông rõ ràng. Chẳng hạn, “Mệ Vững” là tục danh của vua Bảo Đại. Và vì vào cái thời “vang bóng” đó, màu vàng được coi là màu biểu tượng của nhà vua, nên tôi xin gọi những người hoàng phái này là thành viên của giới quí tộc vàng.

Công bằng mà nói, trong bối cảnh vua quan nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn của thực dân Pháp, với trợ cấp tài chính từ mẫu quốc có giới hạn, giới quí tộc vàng cũng chia sẻ sự khó nghèo của đông đảo phần còn lại trong xã hội, nên ít ai thực tình đâm lòng oán ghét họ – đây là điều khác với giới quí tộc Pháp trước Cách mạng 1789.

Thậm chí quí tộc vàng có thể trở thành những đề tài dí dỏm để mua vui cho đại chúng qua các truyện kể dân gian. Chẳng hạn, có một “mệ” nghiện cau trầu nhưng nghèo khó đến nỗi không có tiền mua, nên bèn lén vào vườn của giới bình dân để trộm cau. Khi bị người nhà hô hoán, từ trên thân cây lắt lẻo mệ lớn giọng đe nẹt: “Tụi bây để từ từ cho mệ xuống nghe chưa, kẻo mệ bị bổ [bị té], thì tụi bây bị chém đầu nghe chưa.” Một mệ khác vào nhà dân lân la trò chuyện, khi ra về tiện tay giấu một cái tách trà vào áo thụng. Bị chủ nhà bắt được, thoạt đầu mệ chối phăng. Nhưng khi người nhà lấy tay đè lên tách trà đang được giấu trên bụng, mệ chỉ còn cách nói cười chả lả: “Hèn chi ta thấy hắn [nó] cồm cộm”.

Tuy vậy, sau nhiều lớp phế hưng, nhiều trò dâu bể, người dân Cố đô Huế vẫn dành nhiều cảm tình sâu lắng cho họ.

Giới quí tộc vàng này thật ra không có gì ghê gớm như phía cộng sản thường mô tả bằng cụm từ “bọn phong kiến phản động”. Sau khi Việt Minh cướp chính quyền, nhà quí tộc vàng số một của Việt Nam, vua Bảo Đại, nhanh chóng tuyên bố “Tôi thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ” và được ông Hồ Chí Minh chỉ định làm cố vấn Chính phủ.

Vì môn lịch sử cũng nhắm vào mục đích tuyên truyền đấu tranh giai cấp, nhiều “sử gia” Miền Bắc trong thời gian đất nước còn chia cắt, hùa theo luận điệu chính thống do Nhà nước chỉ đạo, đã gọi một số vua nhà triều Nguyễn bằng đại danh từ hắn hoặc y, trong cách xưng hô có tính miệt thị, bất chấp thái độ khách quan và phương pháp sử học tối thiểu. Như trong Lịch sử 80 năm chống Pháp, Trần Huy Liệu đã viết một câu còn dính mãi trong đầu tôi: “Tự Đức xây Khiêm Lăng, nơi yên nghỉ nghìn năm của y”1. Trần Huy Liệu được tôn vinh là người khai sáng ngành sử học của chế độ cộng sản Việt Nam.

Và sau chiến thắng 1975, chính quyền cộng sản nhanh chóng đổi tên các cơ sở mang tên vua chúa nhà Nguyễn. Ví dụ điển hình là Trường Trung học Nguyễn Hoàng, cơ sở giáo dục lớn nhất Quảng Trị dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, nhanh chóng bị đổi tên giản dị là Trường Trung học Thị xã Quảng Trị. Một bộ phận của con dân Quảng Trị từng là giáo viên và học sinh của trường này qua mấy thập niên nay ra sức vận động để xin chính quyền phục hồi tên cũ, tức trường Nguyễn Hoàng, nhưng nguyện vọng của họ chỉ rơi vào tai người điếc hay của những người không hề biết đến lịch sử nước nhà là gì.

Xin nói qua giới quí tộc nổi tiếng đương đại. Đặc biệt tại các nước “xã hội chủ nghĩa anh em” như Bắc Triều Tiên, Cuba, Việt Nam và Trung Quốc, một giới quí tộc mới vừa xuất hiện trong vài thập niên gần đây có tính cha truyền con nối trong việc nắm giữ quyền lực và của cải, từ địa phương đến trung ương. Một sự kiện tiêu biểu thường diễn ra trước mắt của người dân Việt Nam là, nếu người cha làm bí thư huyện ủy thì ít ra con cái ông cũng có thể nắm giữ một chức vụ nào đó trong huyện, như thể để thực hiện cho bằng được cái khẩu hiệu, “hi sinh đời bố củng cố đời con” — người cha từng nằm gai nếm mật trong cuộc chiến đấu gọi là để “giành chính quyền về tay nhân dân,” thì bây giờ con cái của họ phải được ngồi ở chiếu trên, nếu không muốn dùng một câu thơ của Nguyễn Du, “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”. Cha truyền con nối là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của các xã hội đội lốt cộng sản hiện nay.

Gần như giới tinh anh cộng sản không hề che giấu sự truyền ngôi trong chế độ độc đảng mang bản chất mafia của mình. Một mỹ từ được áp dụng cho con cái của các lãnh đạo là “những hạt giống đỏ,” để chỉ “con cháu các cụ” (gọi tắt CCCC) mà truyền thông phương Tây và cả một số trang mạng “lề trái” Việt Nam gọi là các thái tử đảng (princelings). Trong thời gian chuẩn bị nhân sự cho việc bầu bán diễn ra tại Đại hội Đảng XII năm 2016, hình ảnh sinh động nhất trên sân khấu quyền lực Việt Nam là sự xuất hiện dập dìu các thái tử đảng, được cài đặt vào các bệ phóng quyền lực.

Xin trích bản liệt kê do nhà nghiên cứu Đinh Tấn Lực đưa ra trong bài “Thương Sãi, Thương Cả Dàn Thái Tử Hạng Hai” đăng trên Dân Luận 2:

Thái tử

Tuổi

Bố thái tử

Chức danh bệ phóng

Huỳnh Thanh Phong

30

Huỳnh Văn Chắc

BCH tỉnh ủy Hậu Giang

Lê Trương Hải Hiếu

34

Lê Thanh Hải

BCH thành ủy HCMC

Nguyễn Bá Cảnh

32

Nguyễn Bá Thanh

BCH thành ủy Đà Nẵng

Nguyễn Minh Triết

25

Nguyễn Tấn Dũng

BCH tỉnh ủy Bình Định

Nguyễn Thanh Nghị

39

Nguyễn Tấn Dũng

Bí thư Kiên Giang

Nguyễn Xuân Anh

39

Nguyễn Văn Chi

Bí thư Đà Nẵng

Bản liệt kê đã chứng minh cụm từ đầu trong câu nói dân gian mô tả ưu tiên thăng tiến xã hội tại Việt Nam hiện nay: “Thứ nhất hậu duệ, thứ nhì tiền tệ, thứ ba quan hệ, thứ tư trí tuệ.” Trật tự này giúp giải thích thảm trạng hàng chục ngàn sinh viên tốt nghiệp đại học không kiếm được việc làm, thậm chí cầm bảng ra đứng đường xin việc. Cơ hội vươn lên của người trí thức hiện nay còn tồi tệ hơn thời phong kiến rất nhiều, nếu dựa vào quan niệm về kẻ sĩ của Nguyễn Công Trứ: “Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt, dân hữu tứ sĩ chi vi tiên“ (trong năm tước quan [công, hầu, bá, tử, nam], kẻ sĩ đều có mặt và trong bốn giai cấp xã hội [sĩ, nông, công, thương] kẻ sĩ đứng đầu). Cơ hội thăng tiến trong các xã hội cộng sản còn lại cũng dành cho huyết hệ (blood ties) ưu tiên cao nhất. Việc truyền ngôi ở Bắc Tiều Tiên cho đến nay đã kéo dài được ba thế hệ, từ Kim Nhật Thành, đến Kim Chính Nhật, và nay là Kim Chính Ân. Quyền lực cao nhất tại Cuba được truyền từ đời anh sang đời em, từ Fidel đến Raúl Castro.

Vào thời điểm lễ tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người tù nổi tiếng Cù Huy Hà Vũ còn đẩy khái niệm “quí tộc” thêm một nấc – “quí tộc quân sự”. Họ Cù ca ngợi cái gọi là những phẩm chất cao đẹp của vị tướng thất sủng này, và không quên nhấn mạnh sự nghiêm chỉnh biểu hiện trong bộ lễ phục luôn luôn thẳng nếp của ông ta: “Ở Việt Nam không thiếu những vị tướng đánh trận giỏi, họ cũng thân tình, hòa nhã, bình dân với mọi người nhưng cuộc sống xuề xòa đôi lúc không còn nhận ra đâu là ông tướng mà là một ông nông dân hay người bình thường nào đó. Điều ấy cũng tốt để tạo ra quan hệ đầm ấm giữa tướng lĩnh và chiến sĩ, giữa những người có trọng trách trong xã hội và người dân thường; thế nhưng đại tướng lúc nào cũng uy nghi, tôi cho rằng đó là một ‘quí tộc quân sự’.3

Lý do điểm qua một vài khái niệm như trên là vì tôi muốn dạo đầu cho ý niệm quí tộc sau đây, một định nghĩa mà tôi cho là vừa sáng tạo vừa hiện đại, do nhà văn E.M. Forster đề xuất4:

Tuy thế, tôi vẫn tin tưởng vào giới quí tộc – nếu đây là một từ chính xác, và nếu một nhà dân chủ cũng có thể áp dụng từ này. Không phải là giới quí tộc có quyền lực, dựa vào phẩm hàm và thanh thế, mà là một giới quí tộc gồm những tâm hồn mẫn cảm, những người biết nghĩ đến người khác, và những kẻ can trường khi gặp khó khăn. Thành viên của giới quí tộc này phải được tìm thấy trong mọi quốc gia và mọi giai cấp, và xuyên suốt mọi thời đại, và giữa họ có một sự cảm thông bí mật khi họ gặp nhau. Họ tiêu biểu cho truyền thống đích thực của nhân loại, đó là cái giống ly kỳ của chúng ta luôn luôn thắng được sự độc ác và sự hỗn mang. Hàng ngàn người quí tộc thuộc loại này chết âm thầm trong bóng tối, trong khi chỉ một vài người có tên tuổi vẻ vang. Họ mẫn cảm đối với người khác cũng như đối với bản thân, họ nghĩ đến người khác nhưng không ồn ào, sự can trường của họ không phải là tính kiêu căng tự đắc, mà là khả năng chịu đựng nghịch cảnh. Và dù có bị chế nhạo đi nữa, họ vẫn hóm hỉnh vui cười.

Hi vọng mọi giới quí tộc đương đại, dù vàng, dù đỏ, dù ka-ki, đều chấp nhận khái niệm trên như là phẩm chất cốt lõi của mình. Có thể không?

Trần Ngọc Cư

Bài viết xuất hiện lần đầu trên pro&contra năm 2013. Được cập nhật vào tháng Mười năm 2015.

_________________________________________________________________

1Trần Huy Liệu. Lịch Sử 80 Nam Chống Pháp. Hà Nội: Ban Nghiên cứu Văn Sử Địa, 1958.

2https://www.danluan.org/tin-tuc/20151018/dinh-tan-luc-thuong-sai-thuong-ca-dan-thai-tu-dang-hang-hai.

3RFA, 05-10-2013

4E. M. Forster, What I Believe (1938), in trong tập tiểu luận Two Cheers for Democracy (1951).

Nguồn: http://khoahocnet.com/2015/11/02/tran-ngoc-cu-linh-tinh-ve-qui-toc/

Comments are closed.