Văn hóa là định mệnh chính trị – trường hợp Việt Nam

Nguyễn Hữu Liêm

Khi nhà Nho làm cách mạng

Khó để mà phủ nhận rằng Hồ Chí Minh (HCM) là một nhà cách mạng lớn của lịch sử Việt Nam cận đại. Câu hỏi mà nhiều người đã nêu lên là, tại sao HCM chọn chủ nghĩa Cộng sản? Câu trả lời ngắn gọn có thể tóm tắt như vầy:  Vì ông đã mất hết kiên nhẫn với Sử tính nước nhà.

Đó là điều mà chủ nghĩa Cộng sản, qua học thuyết Marx-Lenin, đã đi vào ý thức của HCM một cách thích hợp, đúng với bản sắc ý chí đại thể mà HCM đang nung nấu.  Có phải Marx đã từng viết rằng cách mạng vô sản là con đường duy nhất để “rút ngắn cơn chuyển bụng của lịch sử” đó chăng.

Ta nên biết rằng, HCM từ gốc gác là một nhà Nho cổ truyền, như bao nhiêu trí thức ở miền Trung thời ấy. Từ một văn hóa chính trị và xã hội – khi quan hệ đến ý chí cá thể – mà trong đó, mệnh lệnh cao cả nhất cho kẻ sĩ Nho học là hãy kiên nhẫn.  Chữ Nhẫn trở thành chân lý và luân thường cho cái ta Việt Nam thời đó.  Nó là một nội dung đạo lý nhân danh trí tuệ siêu việt để cho cá nhân khi nhìn vào thế cuộc trần gian không phải bị khổ đau và nôn nóng vì cái Thời nó chưa đến. HCM muốn phủ định chân lý của chữ Nhẫn – và ông đã gặp được Marx trong một hệ ý thức phủ định giá trị chữ Nhẫn toàn triệt. 

Ta hãy nhìn lại lịch sử Việt để thấy rằng tốc độ di chuyển của các triều đại đi theo quá trình địa chất – geological time – vốn rất chậm.  Đã cần đến 10 thế kỷ, tới khi Ngô Quyền thành hình quốc gia Đại Cồ Việt năm 935, thì nước Việt mới hoàn tất tiến trình khai sinh. Theo đó là nhà Lý kéo dài đến 216 năm, Trần 171 năm, Lê 110 năm, và Nguyễn gần 150 năm. Duy chỉ nội chiến giữa Mạc và Trịnh, Trịnh Nguyễn cũng đã kéo dài gần thế kỷ. Không ai nhìn vào một lịch sử với tốc độ của con rùa như thế mà không mất kiên nhẫn cả.

Bây giờ nhìn lại triều đại HCM, sau khi thống nhất đất nước từ 1975, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ mới cầm quyền chưa tới 50 năm. Dư lực của tinh thần độc lập quốc gia và niềm hãnh diện chiến thắng của chế độ này vẫn còn tương đối khá mạnh. Đó là chưa nói đến truyền thống kỷ luật sắt đá, kỹ năng tổ chức, tuyên truyền, với một nề nếp phong hóa thẩm quyền đẳng cấp của Đảng. Hơn nữa, sau khi đi theo con đường Đổi mới và cải cách kinh tế, chế độ HCM đã thành công lớn trong việc hội nhập vào kinh tế thế giới, mở cánh cửa cơ hội vật chất, nâng cao đời sống cho đại đa số nhân dân. Quá trình thành đạt kinh tế và phát triển này đã tạo nên một nền tảng biện minh chính trị mới, khá vững chắc cho sự tồn tại của chế độ.

Rất có thể rằng chế độ HCM sẽ còn tồn tại cho đến hết thế kỷ 21 này. Tại sao?

Tấc đất máu xương đến tấc đất tấc vàng

Năm 1965, Chế Lan Viên, trong bài thơ “Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng?” viết, “Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời. Cửa vẫn đóng và Đời im ỉm khóa. Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời. Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ.” Đọc Chế Lan Viên – nhà thơ biểu trưng của chế độ HCM – như thế để thấy cái hồn của thời đại nằm trong con người Việt Nam ở tiền bán thế kỷ Hai mươi là như thế nào. Hình ảnh đói nghèo trong rơm rạ với nỗi nhục mất nước dưới ách Thực dân Pháp đã đưa con người Việt Nam thưở ấy trở thành những thang thuốc nổ chỉ chờ ngòi lửa châm vào.

HCM và các đồng chí của ông đã nhìn thấy tình trạng hết thời của khung thức chính trị quốc gia cũ. Ở giai thời đó, “the ancien régime” của nhà Nguyễn đã mất hết giá trị biện minh cho quốc gia và dân tộc. Việt Nam đã đi vào một khủng hoảng lịch sử lớn lao.  HCM bước vào khoảng trống lịch sử đó, nắm lấy cơ hội, châm lửa vào lò thuốc súng cách mạng đang chờ. Phần còn lại là lịch sử Việt Nam cận đại.

Ngày hôm nay, nếu có một khủng hoảng nào có thể xẩy ra thì nó sẽ là một sự biến động mang bản chất kinh tế – hơn là chính trị. Cả nước đang đổ xô đi làm giàu – và buôn đất. Ngày xưa, trong cuộc chiến Bắc-Nam vừa qua, cả hai bên đều đem xương máu để đổi lấy từng tấc đất. Nay cũng chừng tấc đất đó, hậu duệ của các chiến sĩ từng hy sinh đó, nay họ đang đổi tấc đất ra tấc vàng.

Từ Bảo Lộc đến Lao Bảo, từ Điện Biên đến Mũi Né, cơn sốt bất động sản đang làm cho cả một thế hệ đem hoàn toàn năng lực hiện hữu vào cuộc chơi đổi chác đất ruộng. Những nông dân vùng sâu, mới hôm qua là áo vải sờn vai, tay làm, hàm nhai, nay nhờ bán đất mà trở thành tỷ phú, tậu xe hơi, xây nhà lầu, đi du lịch nước ngoài, gởi con du học. Cách mạng ư? Không.  Chế độ HCM đã cho họ một câu trả lời mà các “pho tượng chùa Tây Phương” vốn từng thất bại.

Trí thức thành thị bất mãn

Cách mạng chỉ có thể xẩy ra khi phần đông dân chúng bị chế độ đẩy vào đường cùng. Nhân dân tham gia vào cuộc nổi loạn khi họ không còn gì để mất. Nay phần đông dân chúng có nhiều cái để mất – dù so với các quốc gia tiên tiến thì những gì họ có thật là khiêm tốn.

Hãy nhìn vào lịch sử. Riêng dưới triều Nguyễn, từ 1820 đến 1860, theo sử gia Lê Thành Khôi, thì đã hơn một triệu người chết vì dịch bệnh. Riêng thời Minh Mạng, đã có hơn 400 vụ nổi dậy bởi hầu hết các thành phần xã hội, từ nông dân đến thương gia, cùng với nạn quan quân tham quyền, thối nát tận cùng. Một giai thời đầy khủng hoảng như thế mà không có một cuộc cách mạng nào thành công – cho đến khi HCM xuất hiện gần 100 năm sau.

Trở về hiện tại. Hình như đa số nhân dân Việt Nam đang hài lòng với đời sống đang có – ít nhất là trên bình diện kinh tế, vật chất, so với các thập niên trước.  Ai cũng thở ra hú hồn vì thấy đời sống đã dễ thở hơn nhiều. Những bức xúc, bất mãn hầu hết đều ở giới trí thức, thành thị và có nguồn gốc từ tư tưởng chính trị trừu tượng – hơn là sự phẫn chí trong tuyệt vọng bởi hoàn cảnh sống cá nhân.

Ngay chính hầu hết những nhà bất đồng chính kiến, những người hoạt động dân chủ, nhân quyền trong nước đều có đời sống kinh tế cá nhân tương đối ổn định.  Hãy nhìn vào giới trí thức, văn nghệ sĩ, báo chí ở các đô thị. Họ là nơi tập trung của bất mãn chính trị nhiều nhất. Nhưng họ vẫn thưởng thức lối sống ăn nhậu, du lịch giao lưu gần như liên tục. Trong các bàn tiệc, và nay là các diễn đàn mạng xã hội, họ thể hiện chính kiến bất mãn như là một bài ca giải tỏa bức xúc – hơn là một thể dạng lập ngôn thôi thúc hành động, dấn thân. Tức là – theo Chế Lan Viên – đối với họ thì cửa sống nay đã mở và “đời không còn im ỉm khóa.”

Hải ngoại im lắng

Ở các thập niên 1980-2000, ở các cộng đồng người Việt hải ngoại đã rộ lên các phong trào cách mạng, kháng chiến chống chế độ Cộng sản Việt Nam. Nhưng nay thì ngọn lửa đấu tranh chống Cộng đã gần như tắt hẳn. Giới chức còn lại của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) nay hầu hết đã ở tuổi xế chiều và dần đi vào quên lãng. Nhưng trên hết, khuyết điểm của các phong trào chống cộng hải ngoại nằm ở nơi bản sắc thuần phủ định. Họ thiếu đoàn kết – và ngay cả trên bình diện lòng người, họ cũng không có được một bản hùng ca cho thời đại mới; mà trái lại, họ chỉ lặp lại những khuôn thức, ngôn ngữ đã cũ mòn từ miền Nam trước 1975.

Nay thì thế hệ mới người Việt hải ngoại phần lớn không màng đến chuyện Việt Nam. Doanh gia nước ngoài bắt đầu về nước, tham gia cơ hội kinh tế của một quốc gia đang phát triển. Thế hệ già muốn về quê hương cũ để nghỉ hưu. Niềm căm hận nay không còn như xưa khi mà vết thương còn đang rỉ máu. Cái gì của miền Nam trước 1975 đang trở thành những khối hoài niệm và huyền thoại – hơn là một biểu trưng cho lý tưởng quốc gia. Cái hay của chế độ HCM là không những họ đã chiến thắng  quân sự năm 1975 một cách ngoạn mục – mà gần đây còn chinh phục được phần nào tư duy của người Việt hải ngoại.  VNCH lần nữa đã đầu hàng vô điều kiện.

Đối lập trung thành và Làn sóng đáy cho Cách mạng Việt Nam

Sau vụ án xử “Nhóm nghiên cứu Chấn” của Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung… năm 2010, cho đến nay, ở Việt Nam chưa thấy xuất hiện hay nhen nhúm một tổ chức chính trị cách mạng nào mang tính tổ chức. Phần lớn những vụ bắt bớ, xử án là đối với những cá nhân bất mãn với chế độ bằng những hoạt động đơn lẻ, thiếu hệ thống, không tổ chức, không có cương lĩnh hay tuyên ngôn chính trị cách mạng rõ rệt. Phần lớn các tù nhân chính trị và lương tâm chỉ là những tảng băng nhỏ – nhưng tầng tảng băng ngầm hình như không có.

Nói theo ngôn ngữ của Lý Đông A thì “Làn sóng đáy” của một cuộc cách mạng mới cho Việt Nam hoàn toàn chưa được kết tụ.  Các giới bất mãn chính trị vẫn là những hình thái “đối lập trung thành” với chế độ – và hầu hết bao gồm các nhân vật uy tín từ trong thể chế đó. Họ chỉ muốn cải cách, điều chỉnh, sửa sai khung thức chế độ và đường lối vận hành quốc gia, chứ không mang tham vọng cách mạng toàn diện.

Tức là giới đối lập trung thành chưa kiến lập một khung thức chính trị mới – a new political paradigm – nhằm thay thế hệ thức cũ của thể chế hiện nay. Phần lớn, giới này vẫn còn mang món nợ nơi chế độ – vì từ đó mà họ xuất thân và được thành danh. Một số lớn vẫn tồn tại chính trị, không bị bắt giam, truy tố là vì họ vẫn là những đứa con trung thành – nhưng bất mãn – của chế độ. Giới chính trị bất mãn này đóng vai như một tấm gương soi cho thể chế chính trị hiện tại, một phần nguồn mạch lương tâm cho nhân dân. Họ chỉ muốn hoàn chỉnh hóa, hoàn tất hóa để đưa cuộc cách mạng Cộng sản đến một kết luận tốt đẹp cho tiền đồ quốc gia.  Họ là cái đuôi yếu ớt cho cuộc cách mạng cũ – mà nay đang trở thành một “ancien régime” khác, như triều đại nhà Nguyễn mà HCM đã từng phủ định.

Văn hóa như là định mệnh lịch sử mới

Cho một cuộc cách mạng xẩy ra, mỗi thời quán lịch sử phải xuất hiện những con người như Washington, như Lenin, như HCM. Họ là những thiên tài chính trị, là hiện thân của tinh thần thời đại. Họ là những thần lửa Prometheus trong huyền thoại Hy lạp, dám lấy lửa Trời về đốt cháy thế gian và thắp sáng dân quần.

Từ góc độ huyền thoại đó, một lãnh tụ cách mạng mới phải là một nhân vật văn hóa lớn. Vì nấc thang văn hóa là hiện thân của trình độ tiến hóa cho mỗi quốc gia. Và văn hóa là định mệnh tàn nhẫn cho lịch sử chính trị.

HCM – dù tốt đẹp hay tai họa – là biểu trưng của tầng mức văn hóa Việt cho thế kỷ 20. Ông là hiện thân của cái tốt nhất và xấu nhất của một dũng sĩ cách mạng mang tâm chất nhà Nho. Dù ông đã từng chê Truyện Kiều, phủ nhận giáo điều Nho giáo, khai mở văn hóa cách mạng triệt để cho dân Việt, ông vẫn  là một nhà Nho cổ điển, mang nặng tinh thần phong kiến cổ đại – dù đã được rửa tội bằng ý chí và ngôn ngữ cách mạng mới lạ. Thực ra, ông là một tông đồ khai lập một tôn giáo mới cho Việt Nam. Vì thế nên HCM vẫn còn nằm trên thánh giá cho sử lý Việt. HCM chưa thể bước xuống mặt đất từ định mệnh đó cho đến khi con người và văn hóa Việt Nam đã chuyển hóa.

Cách mạng ư! Trước hết, ta phải tự hỏi: Con người Việt Nam đã được chuyển hóa chưa? Sẽ có một cuộc cách mạng toàn diện hay không – nhằm thay thế “the ancien régime” hiện nay cho Việt Nam – hoàn toàn tùy thuộc vào câu trả lời cho vấn nạn này.

NHL

Comments are closed.