CHÂN DUNG 6 – JONATHAN SWIFT
ĐỂ NHỚ JONATHAN SWIFT
[Bậc thầy trào lộng, tiền bối của G.Orwell tác giả của ANIMAL FARM]
——–
Có những xứ sở dị kì
Người không ra người nhưng không thể gọi là trâu là bò là gà là lợn là
ngựa là dê…
Gọi như thế Chúa Trời sẽ trừng phạt
Cũng không thể gọi là Quỷ là Ma
Quỷ Ma không sống cùng ánh sáng
Chúng sống ở âm ti địa ngục chín tầng hoặc chỉ khi nào màn đêm buông
xuống
Trong khi
Những xứ sở dị kì
Người dù không ra người nhưng vẫn phải gọi là người
Chúng có triều đình văn võ bá quan
Chúng có những triết gia và những tư tưởng gia
Chúng có học viện nọ học viện kia và cả một rừng khoa học gia đầy mình
bằng cấp không ít người giảng dạy ở mười trường đại học trước tác
đẳng thân cùng một lúc hướng dẫn rất nhiều thạc sĩ tiến sĩ nhiều đến
mức không nhớ nổi những gì đã hướng dẫn kể cả tên đề tài luận án luận
văn
Chúng có thần dân u u mê mê ranh ma trộm cắp không ai bằng
Chúng có những điều thế gian chưa hề có không thể có
Chúng bất tử trong sự ngu xuẩn
Chúng thông thái một cách ngu ngốc và ngu ngốc một cách thông thái
Chúng bất tử, trời ơi chúng bất tử
Vì thế nguyện vọng lớn lao nhất, hằng thường nhất, thiêng liêng nhất là
được chết mà vẫn không xong
Xứ ấy
Hình hài con người quắt queo vặn vẹo
Khi chúng cười thì có nghĩa là vô cùng nguy hiểm
Khi chúng khóc thì có nghĩa là đang diễn trò
Trò giết người máu lầy mặt đất
Đầy núi rừng trùng điệp xương khô
Khi chúng đọc thơ
Nghĩa là đạn lên nòng
Khi chúng hát đồng ca
Nghĩa là chinh chiến
Khi chúng gọi nhau là comrades/tavarit
Thì có nghĩa là tù đày là trả thù là tận diệt
Xứ ấy
Văn võ bá quan
Tranh nhau hơn thua
Một bông hoa
Một danh xưng
Một lô đất
Một chỗ ngồi
Khi chụp ảnh cùng ông lớn
Một lời khen
Xứ ấy
Bọn văn nhân nghệ sĩ
Véo von ngợi ca các đấng bậc để được vinh danh
Các đấng bậc khinh bỉ một cách trịnh trọng khi gọi chúng là chiến sĩ
Ai từng đọc GULLIVER’S TRAVELS ?
Có cười bể ruột?
Có buồn nẫu ruột?
Có bàng hoàng thảng thốt?
Có thẫn thờ bi ai?
Những gì nhà văn đã viết
Thấy đầy rẫy khắp nơi
Chỗ tôi
Chỗ bạn
Chỗ của chúng ta
Trên mặt đất người đời.
CHÂN DUNG 9 – CHU VĂN AN
————–
CHU VĂN AN
Dâng sớ đòi chém bảy lộng/gian thần
Bị bác
Chu Văn An cởi bỏ mũ áo
Từ bỏ triều đình
Về quê…
Chu choa
Dân ngoảnh mặt quay lưng
Một người làm quan cả họ không được nhờ
Một người làm quan dân làng chẳng được múi cũng chẳng được xơ
Ngoảnh mặt
Quay lưng
Ném đá
Ném cứt
Ném mắm tôm cho bõ hờn bõ tức
Về với dân!
Mơ hão hỡi Phu tử họ Chu
Đành lòng vào núi ẩn cư
Noi gương Bá Di, Thúc Tề
Chuyện hão
Dưới gầm trời đất nào cũng là đất của vua
Ẩn cư ẩn cư chuyện cũ mốc meo
Mở trường dạy học
Ừ mở trường mở lớp
Kiếm bát cơm mớ rau con tôm con tép
Sống qua ngày
Chắc Chu Văn An cũng biết
Câu truyền ngôn đắng cay
Nhất sĩ nhì nông
Hết gạo chạy rông…
Quân tử ơi bị gậy
Từ quan cáo quan
Chu Văn An
Làm thầy và lại dạy
Quân sư phụ
Chính danh
Trung quân
Thiên mệnh
Bần nhi lạc
Sáng nghe đạo chiều chết cũng đành
Mơ giấc mơ Nghiêu Thuấn
Thịnh trị thì ra
Loạn lạc lại trở về
Bài học quẩn quanh
Sáng suốt?
U mê?
Thầy thất bại gửi niềm tin vào trò
Trò cung kính chắp tay
Quyết theo thầy gương sáng
Ôi Chu Văn An
Quanh quẩn quẩn quanh
Ngài ngồi đó
Oai linh
Mấy trăm năm
Người đời van vái
Sao mà kinh
Sao mà hãi!
Bao thế hệ đã rập đầu
Trước
Người
Thất bại
Và
Hủ bại?
CHÂN DUNG 13 – W.WHITMAN
————–
W.WHITMAN
Cho con gái và con rể….
—–
Miền Viễn Tây đồng hoang bạt ngàn
Núi đá hoa cương nhọn sắc
Hoang mạc cát và xương rồng
Những chàng chăn bò cưỡi ngựa không cần yên
Áo quần bằng vải bông dày
Không cần giặt
Sờn rách tạo thành vẻ đẹp
Ngực trần xăm tất cả những thứ mình yêu thích
Đại bàng bay cao chín tầng mây
Núi đá cao chọc trời
Sông cuồn cuộn chảy.
Trời cho ta tiếng nói
Để nói to lên những chất chứa trong đầu
Để nói to lên những yêu thương trong tim
Tiếng nói kết nối con người
Tiếng nói đánh thức khát khao đang ngủ yên
Tôi nói nghĩa là tôi tồn tại
Tôi cưỡi ngựa trên những thảo nguyên mênh mang
Nghĩa là tôi tồn tại
Tôi nhận tượng Nữ thần Tự do
Tôi lấy Đại bàng giữa trời xanh làm biểu tượng
Tôi có lá cờ trên đó mỗi ngôi sao trắng là biểu tượng một bang
Nghĩa là tôi tồn tại
Trên xứ sở này Chỉ có con người
Người khiếm thị có chữ nổi
Người bại liệt có xe lăn và lối đi riêng
Người khiếm thính thì có máy trợ thính
Người khiếm thanh có ngôn ngữ thể hình
Nói bằng tay, bằng mắt
Những người đồng tính bị xua đuổi khắp nơi nơi
Thì hãy đến đây
Những ai bị khủng bố, hãy đến đây
Những người da màu
Những nhà tư tưởng bị đám đông ném đá
Đến đây
Xứ sở này con người có quyền sở hữu súng
Để đến bước cuối cùng bắn vỡ sọ kẻ bất lương…
W. Whitman
Ông làm thơ về con người
Thơ ông như lá cỏ
Sắc xanh ngời trải rộng dài trên mặt đất
Thơ ông thầm thì như tiếng hát đồng quê
Thơ ông dữ dội như thác nước
Thơ ông lộng lẫy như mặt trời phía Tây….
W. Whitman
Ông không ngại ngần đem thơ ca đến tặng những người thợ bánh mì
Tặng những người quét rác
Tặng nhà chính trị tài ba
Tặng ca sĩ hát rong
Tặng người chăn ngựa
Thơ ông đi khắp thế gian này.
Một người Việt là tôi đọc ông sau hàng trăm năm vẫn thấy
Cỏ mênh mông và rực rỡ ánh mặt trời
Tôi thích W. Whitman
nghĩa là tôi tồn tại
Cho tôi.
ĐỂ NHỚ W.WHITMAN
——
Năm tôi tốt nghiệp đại học,
Xách ba lo lên đường,
Trong tay có cuốn LÁ CỎ,
Của Walt Whitman.
Bài hát của chính tôi,
Bài hát về tôi,
Bài hát do tôi,
Bài hát không nhằm xưng tụng một đấng bậc nào,
Bài hát không nhằm huyền thoại hóa bất kì ai,
Bà hát về tôi, bài hát.
Mẹ tôi sinh ra tôi sau một ngày lên rừng chặt nứa
Thấy người khang khác vẫn kịp đi gánh nước đổ đầy chum,
Vì bố tôi quen đi rừng nhưng lại không quen gánh trên vai đôi thùng gỗ.
Tôi nghe mẹ kể trong đêm bà trở dạ,
Tôi được sinh ra giống như những người anh, người chị trước đó của tôi,
Chỉ hơi khác một chút chân tay dài và tóc quăn đen nhánh.
Nghe bố mẹ kể tôi biết mình lúc bé
Sống bình lặng như một nhánh cỏ,
Nhánh cỏ mật mẹ tôi thường vẫn để vào chiếc túi vải con con,
Hương thơm dịu, góc giường.
Tôi lớn lên, làm người,
Không xu phụ, không khom lưng, không nói lời nịnh bợ,
Và tôi thấy,
Walt Whitman thật tuyệt vời,
Không khiêm tốn giả vờ ông nói
Tôi là Người,
Tôi hát về chính Tôi,
Thân thể căng tràn,
Mắt mở to nhìn thẳng,
Râu tóc bù xù bay theo chiều gió cuốn,
Hàm răng trắng lóa ánh mặt trời.
Tôi hát về tôi,
Làm con, không làm xấu mặt cha mẹ ông bà,
Làm bố không để con ra đường phải cúi mặt,
Làm người sống chân thật,
Ung dung, kiêu hãnh, ngầng cao đầu.
Tôi hát về chính tôi,
Tôi hát về chính tôi!
Cũng có khi yếu mềm và khóc,
Cũng có khi buồn thấy mình bất lực,
Cũng có khi hoang mang trước nhiễu loạn cuộc đời.
Tôi hát về chính tôi,
Tôi hát về chính tôi.
Sau một ngày lao động cật lực,
Tôi hát về chính tôi.
CHÂN DUNG 14 – ĐỖ PHỦ
————–
(Khúc thứ 1)
Người Trung Hoa gọi Ông là Thi thánh, gọi thơ ông là “thi sử”, người Việt
giản dị hơn gọi ông là nhà thơ của dân đen.
Mình đọc thơ Đỗ Phủ từ năm 1979! Thỉnh thoảng có dịp nhớ lại là thấy
những thanh âm rền rĩ – tiếng mưa gió, âm u như từ địa ngục vọng về.
Thơ ông là thơ của thời loạn…
Sao không có nhà thơ Việt xuất hiện thời nay như Đỗ Phủ?
—————————–
Suốt đời ông mong có một minh quân,
Suốt đời ông đọc sách mong mỗi khi lên tiếng;
Bút mực có thần.
Học hành, thi cử, đỗ đạt, làm quan…
Thờ vua và giúp dân đời yên bình ngày Nghiêu tháng Thuấn,
Lối đi ấy thênh thang hay đường cùng ngõ cụt?
Nào ai có hay!
Thời trai trẻ cũng có khi phải khom lưng và uốn cong ngòi bút,
Viết những lời giả trá mong nhận được ân huệ từ bề trên,
Hàng chục bài thơ, nhiều trăm bài thơ rập rờn sáo ngữ,
Đàn bướm ngôn từ sặc sỡ,
Đàn bướm ngôn từ chết khô,
Đàn bướm ngôn từ vô dụng.
Cuộc thế vần xoay loạn lạc nổ bùng,
Trường An mùa xuân hoa đầm đìa nước mắt,
Cỏ mọc đầy che kín mặt thành,
Ngõ Ô Y vắng tanh vắng ngắt,
Cú bay, quạ bay mắt xanh lè xám ngắt,
Khắp Trung Nguyên xương trắng phơi đầy,
Biên thùy máu thành biển đỏ.
Giấc mộng Thuấn – Nghiêu thành mây khói,
Quan hạt vừng Đỗ Phủ hóa dân đen.
Loạn lạc, chia lìa hất ông về nơi cùng khổ
Thơ ông đẫm lệ nỗi oan khiên thập loại chúng sinh.
Ông viết thơ cho mình,
Ông viết thơ vì mình,
Tận cùng nỗi đau, tận cùng nước mắt, tận cùng máu,
Sống trên quê nhà mà nơm nớp âu lo,
Người sống hệt như búi cỏ,
Bị hất tung lên khô héo phận hèn.
Người chết hóa thành ma, thành quỷ,
Rền rĩ khóc, đêm buồn,
Người sống sót trở về sau loạn như ma hiện giữa ban ngày,
Sức dân tàn kiệt
Giấc mơ Nghiêu Thuấn không thành
Tha hương vời vợi ngàn trùng xa cách
Một chiếc thuyền rách
Một dòng sông mùa đông trắng tuyết
Đỗ Thiếu Lăng ôm hận ra đi
Chỉ có bầy quạ ủ ê buồn đậu trên cây trụi lá…
ĐỖ PHỦ
—–
(Khúc thứ 2)
Suốt thời trai trẻ ông đọc sách
Thiên kinh vạn quyển thuộc nằm lòng
Chữ nghĩa bộn bề phun châu nhả ngọc
Ông ước mong China có minh quân
Xuất thân Nho gia
Đỗ Phủ tin sách thánh hiền
Tin sẽ có ngày Nghiêu tháng Thuấn
Tin trăm họ muôn dân được nhận ơn mưa móc
Tin thi sĩ văn nhân lòng dạ sáng trong
Đem tài chữ nghĩa vì dân
Đem tài chữ nghĩa an dân…
Suốt cả chục năm Đỗ Phủ lặn lội kiếm tìm
Một ai đó như Tín Lăng quân thời trước
Biết bao thơ ca réo rắt
Ngân nga những lời hoa mĩ
Ngợi ca triều đình
Ngợi ca lương thần
Ngợi ca vương hầu khanh tướng
Những mong có dịp tỏ bày lòng trung
Buồn thay
Đỗ Phủ bị ngoảnh mặt, quay lưng…
Những đấng bậc bề trên không thích
Những nô tài nhiều chữ nghĩa
Những nô tài hạ bút như có thần
Những nô tài yêu thương muôn dân trăm họ
Đỗ Phủ
Đấng bậc không cần
Những kì thi liên tiếp bị đánh trượt
Đỗ Phủ dần tỉnh ra
Cũng chưa là muộn…
Trường An hoa lệ
Trường Anh đầy chật người
Trường An ăm ắp giai nhân tài tử
Trường An quá nhiều ngự dụng văn nhân
Trường An không cần Đỗ Phủ…
Ôm nỗi buồn trong lòng
Rầu rĩ
Rối bời
Dân đen chết đói giữa ngày tuyết rơi trắng xóa
Chinh chiến miên man
Dân xiêu tán muôn nơi muôn ngả
Cửa son rượu thịt ê hề
Hoàng cung thâu đêm yến ẩm
Cả nước xưng tụng Dương Quý Phi…
Văn chương nghệ thuật sống quỳ
Văn nhân véo von giọng yến oanh sặc sỡ
Đỗ Phủ không có chỗ
Hóa lạc loài bơ vơ
Trường An mênh mông rộng
Không có chỗ dung thân./.
ĐỖ PHỦ
(Khúc thứ 3)
—-
Trường An lâm nạn can qua
Kinh thành đầy cỏ dại
Ngõ Ô Y giàu sang chim én đậu nóc nhà
Quan hóa thành tượng gỗ
Đèo Mã Ngôi, Dương Quý Phi làm vật tế thần
Trung Nguyên tan hoang
Xác người đầy đường
Thôn xóm không vương sợi khói
Đỗ Phủ trở lại dân đen
Đầu trần chân đất
Như bụi cỏ bật gốc…
Giấc mơ Nghiêu Thuấn tan bọt nước
Thời loạn mạng sống may còn
Ngày trở về giữa trưa nắng vàng
Thân quyến tưởng hồn ma hiển hiện
Phiêu bạt cánh bèo mặt nước
Lưu lạc cánh chim quê người
Gia tài một con thuyền rách
Cố hường thăm thẳm xa vời
Cố hương không ngày trở lại
Cố hương thương nhớ khôn nguôi…
Ôi giấc mơ Đường Ngu Nghiêu Thuấn
Cuối đời
Thu vào con thuyền rách
Cột chặt một nơi, bất động, tha hương thiếu vắng tình người
Người côi cút, côi cút cả cánh chim trời
Ngọn núi bơ vơ đá xám
Sông cuồn cuộn sóng
Mùa thu lạnh tê
Mùa đông tuyết trắng
Đỗ Phủ chết trong niềm cay đắng
Trầm uất triền miên phận người…
Nghìn năm đã qua nỗi buồn đau còn đó
Văn nhân
Văn nhân
Nào những ai toan tính kiếp nô tài?
CHÂN DUNG 15 – LÍ BẠCH
————–
VỚI LÍ BẠCH
———
Ông sinh ra trong một gia đình thương nhân giàu có,
Chẳng có tội tình gì,
Quê hương ông xa Trường An vạn dặm đường,
Càng hay.
Không phải uốn mình theo lễ,
Không phải tự trấn an bằng sáo ngữ “an bần lạc đạo”,
Khỏi phải nghe cho rườm tai những lời đạo chích – thánh nhân.
Múa kiếm, làm thơ và uống rượu,
Cho phỉ chí làm trai cho bõ công trời sinh.
Uống rượu một mình dưới trăng và ngêu ngao hát..
Có thêm bạn bè thì cởi áo cừu, đem ngựa quý mà đổi lấy rượu ngon.
Tiền bạc, chức tước là vật bên ngoài chỉ làm tấm thân cồng kềnh thêm
nặng,
Chết đi rồi ai lưu lại danh thơm?
Chỉ thấy chật đầy những trang sử hôn quân, ngu trung, bất nhân, bất
nghĩa,
Chỉ thấy chật đầy những trang sử xương trắng phơi đầy đồng nội,
Chỉ thấy chật đầy nước mắt dân đen.
Làm trai cũng muốn đem tài giúp nước,
Nhưng phượng hoàng thi chung lũ vịt gà, Lí Bạch không thèm.
Trời sinh ra ông có tài, ông sẽ sống có ích,
Cần chi một tấm biển đề danh!
Lâm triều, ông nhận ngay ra thân phận,
Nhà thơ ngự dụng làm sang cho Đường Minh Hoàng,
Biết bao kẻ lấy thế làm vinh còn ông chỉ thấy nhục.
Quán rượu nghèoTràng An ông tìm đến hàng ngày.
Nỗi nhục nhã liệu có rửa trôi bằng rượu đắng?
Thân phận tôi đòi càng thấm thía khi say!
Những mũ cao áo dài ông khinh bỉ,
Cả em trai họ Dương ông cũng đem ra làm trò hề,
Cả vua nữa ông cũng coi là trẻ ranh không sợ,
Làm thơ tình gửi tặng Quý Phi.
Giữa Trường An lunh linh hoa lệ,
Ông nhận ra giông bão phía trời xa,
Sấm sét nổ kinh đô thành đống gạch,
Cỏ mọc đầy lang sói ùa ra.
Học theo người xưa “quy khứ lai từ…”
Không về được với Đào Nguyên thì ta về với rừng với núi,
Nghe thông reo suối hát nhìn ngắm mây bay,
Ngắm trăng khuya một mình và nghe chim hót,
Bận tâm làm gì,
Cuộc thế phù du.
Thuyền trôi trên sông, trăng sáng bốn bề,
Lòng sông xanh thẳm,
Trời cao mây bay,
Gió hiu hiu thổi,
Uống rượu và hát,
Trời cho ta tài,
Cho ta trí,
Cho ta làm người.
Nào thêm một chén ta mời ta,
Thêm chén nữa ta mời trăng sáng,
Giã từ cuộc thế phù du.
Đ.T