Từ “Sinh hoạt văn nghệ” đến “Văn nghệ quân đội” (kỳ 2)

Lại Nguyên Ân

Bước sang năm 1955, "Sinh hoạt văn nghệ" được chuyển cho Cục tuyên huấn (Tổng cục chính trị) quản lý; ban đầu nó được đổi thành một bán nguyệt san (nửa tháng một kỳ); trang tên báo ghi rõ: “Sinh hoạt văn nghệ, tờ báo của phong trào văn nghệ trong quân đội”; mỗi số gồm trên dưới 30 trang tương đương khổ A4. Số mở đầu loạt ấn phẩm này được đánh số 35, hé cho ta dự đoán: trước loạt 24 số "Sinh hoạt văn nghệ" do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân chịu trách nhiệm in và phát hành trong 2 năm 1953-54, đã có 10 số "Sinh hoạt văn nghệ" ra mắt, tuy hiện nay chưa tìm lại được.

"Sinh hoạt văn nghệ" số 35 ra ngày 15/3/1955 có các loại bài chính là: tiểu luận-phê bình: Chuyển hướng viết văn thế nào: Người viết văn chuyển hướng thế nào? Khô và ướt (Trần Dần), Đọc thơ ‘Việt Bắc’ của Tố Hữu (Hoàng Yến), Chủ nghĩa tự nhiên và việc sáng tác nhảy múa của bộ đội (Tử Phác), Mấy ý kiến phê bình truyện ‘Vượt Côn Đảo’ của Phùng Quán (Thúc Đại, Nguyễn Ứng, Lê Quang Khải, Bạch Hải, Thế Châu, Ninh Quỳ), truyện: Giữ lấy hạnh phúc (truyện ngắn, Mai Hanh), ký: Không nghỉ (bút ký, Tú Nam), Nam Bộ anh dũng (tùy bút, Quế Lâm), truyện dịch: Trung úy Cơ-rê-tông (Nguyễn Dậu dịch), thơ: Ở lại quê nhà (Lùng Kim Trân), Con đường mới (Hoàng Mộng), ngoài ra còn có các mục tin tức văn nghệ, ý kiến bạn đọc.

"Sinh hoạt văn nghệ" số 36 ra ngày 01/4/1955 có các loại bài chính là: truyện: Bát cơm quả núi (truyện ngắn, Xuân Vũ), ký: Quê hương chúng ta (bút ký, Vũ Tú Nam), thơ: Mẹ già thôn ổ (Trần Văn Thắm), Mến gửi miền Nam (Kinh Kha), Ơn Đảng bao giờ quên (Phạm Ngọc Cảnh), Những người không bao giờ về nữa (Nguyễn Hoàng Trung), văn dịch: Trên vĩ tuyến 38 (bút ký mặt trận Triều Tiên, của Kha Chin, Doãn Trung dịch), lý luận-phê bình: Đấu tranh cho chủ nghĩa hiện thực (Chu Dương, TQ., Phan Khôi dịch), Chủ nghĩa tự nhiên và việc sáng tác nhảy múa của bộ đội (tiếp theo): Tính chất chiến đấu trong nghệ thuật dân tộc (Tử Phác), Qua phòng triển lãm Quân đội nhân dân VN: Sức mạnh toàn dân (Tạ Hữu Thiện), Bạn đã đọc kỹ “Vượt Côn Đảo” chưa? (Trần Dần), Kinh nghiệm Trung Quốc: Xuống tiểu đội (Nguyễn Dậu trích dịch), ngoài ra còn có các mục tin văn nghệ, ý kiến bạn đọc.

"Sinh hoạt văn nghệ" số 37 ra ngày 15/4/1955 có các loại bài chính là: truyện: Giữ vững lá cờ (truyện, Hồ Phương), Lá quốc kỳ (truyện, Trần Kim Trắc), ký: Ngọn cờ của tổ quốc (Bích Lâm), thơ: Quê hương (Đoàn Anh), Mẹ đã thấy rồi (Trần Can), Lá cờ bên kia sông (thơ, Thu Phong), dịch thuật: Bọn phá hoại và tụi giết người (thơ Maiakovski, Hoàng Trung Thông dịch), Một vị sư trưởng giản dị (truyện, Vương Ngọc Hổ, TQ., Trọng Mai dịch); lý luận phê bình: Vài nét về thi sĩ Mai-a-kốp-ki (Trần Dần), Chủ nghĩa tự nhiên và việc sáng tác nhảy múa của bộ đội (tiếp theo): Sáng tạo theo hình thái tự nhiên của đời sống (Tử Phác), Đấu tranh cho chủ nghĩa hiện thực (Chu Dương, TQ., Phan Khôi dịch, tiếp), Góp ý kiến phê bình tiểu thuyết “Vượt Côn Đảo” của Phùng Quán (Hoàng Tuấn Nhã), ngoài ra còn có các mục tin văn nghệ, ý kiến bạn đọc.

"Sinh hoạt văn nghệ" số 38 ra ngày 01/5/1955 có các loại bài chính là: ký: Đội văn công của bộ đội chủ lực Tây Bắc (Trịnh Kính), Đào Văn Khích trên đồi C1 (Tạ Hữu Thiện), Tâm sự đồng chí Phớn (Quế Lâm), Trên đường tập kết (Bích Lâm); thơ ca: Mỹ cút đi! (văn tế, Tạ Hữu Thiện),Tâm sự (Việt Hải), Người chăn heo trong rừng U Minh (Phạm Tường Hạnh), Trở lại Ninh Bình (Lê Vinh Quốc), Chặn tay nó lại (thơ đả kích, Cao Nhị); kịch: Ánh sáng Hà Nội ( Hoàng Tích Linh); phê bình: Cuốn ‘Vượt Côn Đảo’ của Phùng Quán và bài phê bình nó của Trần Dần (SHVN, Nguyễn Hảo, Nguyễn Đức Hách, Nguyễn Như, Khắc Thuận, Bắc Thôn, Đoàn Hợp), Kinh nghiệm Trung Quốc: Lãnh đạo việc sáng tác của chiến sĩ hiện nay như thế nào (Trần Nghi, TQ., Nguyễn Ninh dịch).

"Sinh hoạt văn nghệ" số 39 ra ngày 19/5/1955 có các loại bài chính: ký: Sinh nhật Hồ Chủ tịch tại Điện Biên Phủ (Tạ Hữu Thiện), Tấn kịch Đờ Cát (Bích Lâm), Đón cờ Bác và chuẩn bị cắm cờ trên khu vực 300 ngày (Xuân Thiêm), Tiến quân vào Hồng Gai (Mai Ngữ); thơ: Lá thư miền Nam (Nguyễn Bao), Rước Cụ ra Bắc (Lê Hà), Đón cờ Bác (Tiến Đoàn), Bác Hồ ta đó (thơ, Mai Hanh), Thưa Cha (truyện thơ, Thanh Thủy); truyện tranh: Truyện đồng chí Tộ (tranh Lưu Bạch, ca dao Cao Nhị); bài hát: Ca ngợi Hồ Chủ tịch (nhạc và lời Đỗ Nhuận), truyện dịch: Chiến đồng hồ quý (truyện Liên Xô, Nguyễn Dậu dịch); nghị luận: Bàn về đặc tính dân tộc trong âm nhạc Việt Nam (Đỗ Nhuận), Phê bình “Vượt Côn Đảo” của Phùng Quán (Lê Đạt, Phạm Thụ), Xem kịch “Ánh sáng Hà Nội” của Hoàng Tích Linh (Cao Nhị), Kinh nghiệm Trung Quốc: Quá trình sáng tác và biểu diễn điệu múa ‘Chiến sĩ vui chơi’ (Doãn Trung dịch); ngoài ra còn có thông báo về Cuộc thi văn nghệ của thanh niên thế giới, nhân ĐHLH TNSVTG ở Vác-xô-vi, ý kiến bạn đọc.

"Sinh hoạt văn nghệ" số 40 ra ngày 01/6/1955 có các loại bài chính: văn: Tấm giấy 10 đồng (truyện kể, Quốc Ân), Trở về đất mỏ Hòn Gai (phóng sự, Tạ Hữu Thiện), Cứu lúa (ký, Quế Lâm), Vài nhận xét nhỏ: Bộ đội với thiếu nhi (tạp văn, Thanh Tịnh), Người và bóng: Đồng chí Vitamin (tạp văn, Vũ Tú Nam); thơ: Ô hô đế quốc Mỹ (thơ đả kích, Phạm Thụ), Em bé Hoa kiều nghèo (Phạm Ngọc Tiên), Bắc cầu Bến Hải (thơ, Phạm Chí Nhân), Thưa Cha (truyện thơ, Thanh Thủy, tiếp); nghị luận: Bàn về đặc tính dân tộc trong âm nhạc Việt Nam (Đỗ Nhuận, tiếp), Mấy kinh nghiệm về ca vũ kịch (tóm tắt ý kiến tại cuộc họp những cán bộ phụ trách văn công bộ đội), Tiến tới kết thúc cuộc tranh luận về cuốn “Vượt Côn Đảo” của Phùng Quán: Góp ý kiến phê bình “Vượt Côn Đảo” (Trần Độ), Vai trò lãnh đạo của Đảng trong “Vượt Côn Đảo” (Băng Huyền), Người thực việc thực (Nguyễn Văn Khỏa), Việc thực và tiểu thuyết (Hà Thúc Chỉ); Kinh nghiệm Trung Quốc: Quá trình sáng tác và tu sửa điệu múa ‘Đường hầm’ (Triệu Thuận Nguyên, Doãn Trung dịch)…

Sau 3 tháng với 6 số "Sinh hoạt văn nghệ" như trên, tờ báo của phong trào văn nghệ trong quân đội tạm ngừng hơn 3 tháng, đến giữa tháng 10/1955 lại ra mắt với tên gọi mới: VĂN NGHỆ QUÂN ĐỘI.

"Văn nghệ quân đội" số 1 ra ngày 15/10/1955 vẫn được xem như tờ báo. Trang tên ghi rõ đây là “tờ báo của phong trào văn nghệ quân đội” “mỗi tháng ra hai số” (về sự mệnh danh sau tên báo, ít lâu sau sẽ được bổ sung là “tờ báo của phong trào văn nghệ Quân đội nhân dân Việt Nam”). Báo vẫn giữ khổ A4, mỗi số từ 32 đến 36 trang, tính cả 2 trang bìa trước sau.

Dạng thức bán nguyệt san này được duy trì đến 01/6/1956. Đây vẫn là một dạng nội san (chỉ lưu hành trong quân đội, phát hành xuống đến trung đội, tiểu đội), nên hiện tại các sưu tập ấn phẩm này vẫn là hiếm trong các thư viện, kho lưu trữ; vì vậy, thay vì thuyết minh và nhận xét bao quát, tôi vẫn sẽ tiếp tục thuật lại tương đối kỹ nội dung đăng tải trên các số Văn nghệ quân đội loại này.

"Văn nghệ quân đội" (viết tắt: VNQĐ) số 1 (15/10/1955) có các loại bài: văn: Trong tay địch (trích hồi ký, Trần Đăng Ninh), Buổi tiễn chân (truyện, Vũ Nắng), Chuyện miền Nam (chuyện kể, Nguyễn Ngọc); thơ ca: Điểm danh (Lý Đăng Cao), Đêm biên phòng (Nguyễn Ninh), Vợ chồng chim cuốc (ca dao Lùng Kim Trân), Chặn bàn tay chúng lại (Lê Thái Căn), Hạ màn khuyển mã (thơ đả kích, Tạ Hữu Thiện); truyện dịch: Bộ đội ta tiến mãi (Tiêu Ngọc, TQ., Nguyễn Dậu dịch); truyện tranh Mạc Thị Bưởi (Nguyễn Bích vẽ); nghị luận, phê bình: Hướng mọi hoạt động văn nghệ vào việc xây dựng một quân đội hùng mạnh (Lê Chưởng), Tích cực giúp đỡ chiến sĩ văn nghệ đẩy mạnh sáng tác (Lương Ngọc), Học tập các đồng chí nước bạn, đề cao nghệ thuật ca hát của chúng ta (Nguyễn Đức Toàn), Xem kịch ‘Chiếc quân hiệu’ (Hoàng Tích Linh), Tự phê bình về ‘Vượt Côn Đảo’ (Phùng Quán).

VNQĐ số 2 (01/11/1955) có các loại bài: Một chuyến tuần tra ven biển (bút ký, Vũ Cao), Nghĩ tới miền Nam (truyện ngắn, Nguyễn Ngọc Tấn), Chuyện miền Nam: Phá trò “tố Cộng” của Mỹ-Diệm (chuyện kể, Bích Lâm); thơ: Một hai ta bước đều (Dực, đại đội X.), Ngọn cờ lao động (Khả, đại đội X.), Con cũng nghe lời mẹ, cố học trên thao trường (Văn Ninh), Suốt đời theo bước Đảng (Lê Vinh Quốc), Ngăn dòng nước lũ (Tiến Liêu), Sự tích Ngô Đình Diệm (thơ đả kích, Tạ Hữu Thiện); văn dịch: Năm điểm và không điểm (truyện, Điền Nhân Hải, TQ., Doãn Trung dịch), Câu chuyện Bá Linh: Cục cảnh sát (truyện, Ét-đơ Va-bi-lớt, CHDC Đức, Nguyễn Đại Lý dịch qua Trung văn), Căn bệnh của Trương Xuân (truyện, Trương Phong, TQ., Dương Thượng Ứng dịch); tranh truyện: Anh hùng quân đội Lê Văn Thọ phá kho bom Tân Sơn Nhất, Nam Bộ (Phạm Thanh Tâm); nghị luận, phê bình: Nhìn lại phong trào văn nghệ trong tình hình và nhiệm vụ vừa qua (Văn Phác), Đề cao phong cách quân nhân trong âm nhạc dân tộc (Đỗ Nhuận), Học tập các đồng chí nước bạn: Đồng chí Tiêu Dân chỉ huy dàn nhạc (Trọng Loan), Hoạt động văn nghệ của đại đội tôi có tác dụng đắc lực đối với chỉnh huấn chính quy (Phan Huỳnh), Tự phê bình về những tranh vẽ in gần đây (Mai Văn Hiến, thay mặt anh em họa sĩ ở phòng VNQĐ).

VNQĐ số 3 (15/11/1955) có các loại bài: thơ: Cây soan trên mồ mẹ (Hoàng Yến), Mỗi bước con đi (Hữu Tâm), Âm mưu ba bước của Mỹ Diệm (thơ đả kích, Tạ Hữu Thiện); văn: Chuyện miền Nam: Mưu mô Mỹ-Diệm (chuyện kể, Bích Lâm); kịch hát: Cứ tập như thế (Trần Quý, Doãn Nho); bài hát: Hát mừng anh hùng Núp (nhạc và lời Trần Quý); tranh truyện: AHQĐ Nguyễn Văn Thuần trưởng thành trong chiến đấu (Vũ Lai); thơ văn dịch: Tiêu chuẩn xạ kích (trích truyện, Séc-kin, LX.), Lênin (trích trường ca Maiakovski, Hoàng Trung Thông dịch), Đau khổ và hạnh phúc (truyện, Hướng Minh, TQ., Doãn Trung dịch), Người chiến sĩ quân đội Xô-viết (Jan-đra, Tiệp Khắc, Tạ Quỳnh dịch); nghị luận, phê bình: Vấn đề nội dung sáng tác văn nghệ trong học tập xây dựng chính quy (Văn Phác), Vận động chiến sĩ làm kịch (Huy Dư),…

VNQĐ số 4 (01/12/1955) có các loại bài: văn: Bước vào chỉnh huấn (truyện ngắn, Phạm Trần Ngọc), Chuyện miền Nam (T. Thắng, Bích Lâm); kịch: Buổi tập trên thao trường (sáng tác tập thể, Đại đội 2, đơn vị X.); thơ: Lòng má (Cao Minh Châu), Tin ngoài ấy đã về (Lê Hà), Đồng chí pháo binh (Hữu Tâm), Quân hiệu (Trần Huân), Bài thơ thao trường (Phạm Thanh Tâm), Diệm bày trò triển lãm (thơ đả kích, Tạ Hữu Thiện); bài hát: Phan Đình Giót còn sống mãi (nhạc và lời Doãn Nho); văn dịch: Gặp gỡ (truyện ngắn, Bạch Hoa, TQ., Mạnh Hồ dịch), Người bạn chiến đấu cũ (truyện, Vương Thụ, TQ., Thọ Hồng dịch), Ngày nay (truyện, Lý Hồng, TQ., Doãn Trung dịch); nghị luận: Cần phát động mạnh mẽ phong trào thi đua văn nghệ trong chỉnh huấn (Văn Phác), Đại đội chuẩn bị cho cuộc vận động văn nghệ sắp tới (Huy Dư), Học tập đoàn nghệ thuật Liên Xô: Nghệ thuật nhảy múa của Ba-sơ-kia (Đào Hồng Cẩm),…

VNQĐ số 5 (15/12/1955) có các loại bài: văn: Đêm 19/12/1946 (hồi ký, Đỗ Thiện), Chuyển pháo sang hầm dự bị (trích ‘Voi xung kích’ , Hồ Phương); thơ: Hai lần giải phóng quê em (Minh Giang), Con chó con (Phùng Quán), Má tôi (Nguyễn Đào), Đón tin mừng (Quang Doãn), Đường ngắm (Hồng Thanh), Thực chất quân đội Diệm (thơ đả kích, Tạ Hữu Thiện); kịch hát: Bởi vì đâu? (Xuân Bình, Mạnh Thắng, Trần Quý, Doãn Nho); văn dịch: Tình yêu (truyện, Giang Minh, TQ., Đào Mậu dịch), Mệnh lệnh đầu tiên (truyện, Rê-ang-nit-len-xi, LX., Doãn Trung dịch qua Trung văn); nghị luận: Ba hình thức hát, múa, kịch trong cuộc thi đua văn nghệ hiện nay (Văn Phác), Thái độ của chúng ta học tập các đoàn nghệ thuật bạn (Nguyễn Đức Toàn); ngoài ra còn nhiều bài mục mang tính báo chí khác.

Bước sang năm 1956, dạng thức bán nguyệt san của "Văn nghệ quân đội" tiếp tục được duy trì từ đầu năm cho đến 01/6/1956.

VNQĐ số 6 (01/01/1956) có các loại bài: văn: Lòng tôi đã sáng (truyện, Vinh Tú), Tâm sự quả lựu đạn tre (truyện, Phạm Văn Đặng), thơ ca: Ngồi tô khẩu hiệu (Xuân Bình), Tin anh biết (Khắc Thấu), Nhằm cho trúng (Hồng Thanh), Có tôi đây đứng gác (Xuân Ngọc), Bọn Diệm lại thay bố (thơ đả kích, Tạ Hữu Thiện), Dần dần từng bước (hát chèo lời mới, Cao Kim Điền); bài hát: Trên đường ra xạ trường (sáng tác tập thể, Văn công 308); văn dịch: Chiến sĩ và tướng quân (truyện, Nguyễn Đại Lý dịch từ Trung văn); nghị luận: Các nghệ sĩ Liên Xô, những người bạn tốt, người thầy tận tâm của chúng tôi (Doãn Nho), Các đồng chí đã truyền thêm cho chúng ta tinh thần lạc quan cách mạng (Xuân Hòa), Học tập kinh nghiệm Trung Quốc: Đề cao việc tự tu nghệ thuật (Trọng Loan), Học tập kinh nghiệm nước bạn: Gặp đồng chí Ngụy Nguy, nhà văn trong bộ đội Trung Quốc (Vũ Tú Nam), Qua đêm kịch liên hoan của trung đoàn X. (Hải Hồ), Văn công xuống đại đội (Trương Công Lê),…

VNQĐ số 7 (15/01/1956) có các loại bài: văn: Làm giáo án (truyện, Phan Huỳnh), Trên thao trường (ký, Xuân Ngọc), Quà của Bác (ký, Nguyễn Ngọc Thảo); kịch: Chiếc vòng ngụy trang (chiến sĩ E.X. sáng tác, văn công F. nâng cao và cải biên); thơ ca: Tâm sự vợ chồng cò (C6 đại đoàn X.), Diệm bày trò sinh nhật (thơ đả kích, Tạ Hữu Thiện), Gương anh muôn thuở không mờ (Hoài Phương); nhạc: Lá cờ của Bác (lời và nhạc Văn Kha); thơ văn dịch: Bạn chiến đấu (thơ Triệu Hạc Lai, Triều Tiên, Doãn Thành Long, Đào Vũ dịch), Câu chuyện một cái sẹo (truyện, Phạm Tú Văn, TQ., Doãn Trung dịch); nghị luận: Cần nhấn mạnh thêm một số vấn đề sau khi phát động phong trào văn nghệ (Văn Phác), Học tập đoàn nghệ thuật Trung Quốc: Tất cả để phục vụ quần chúng (Xuân Hòa),…

VNQĐ số 8 (06/02/1956) (số tết Bính Thân) có các loại bài: văn: Tết giữa thủ đô khói lửa (hồi ức, Đỗ Chí), Tết về trên Háng Châu Phua (hồi ký, Thúc Long), Tết hòa bình ở Điện Biên Phủ (hồi ức, Lý Đăng Cao), Tết ở hầm Điện Biên (hồi ức, Kim Ngọc, nữ văn công TCCT), Tết kéo pháo (Khải ghi hồi ức Hoàng Văn Thắng), Vượt đường 10 (truyện, Vinh Tú), Một năm qua (truyện, Nguyễn Trọng Oánh), Câu chuyện Tết của đồng chí Tân (truyện, Nguyễn Ngọc); thơ: Chúc tết các chú (Mỹ Hạnh, HSMN, 14 tuổi), Còn đây tờ giao ước (Minh Viên), Đốt lon Tây thay lon Mỹ (thơ đả kích, Lê Kim), Thư nhà (Thanh Tòng, C79), Nồi lửa ấm đêm 30 Tết (Lưu Trùng Dương, bộ đội LK5); bài hát: Yêu mùa xuân hòa bình (nhạc và lời Hoàng Việt); văn dịch:Tết ở hỏa tuyến (ký, Ngụy Nguy, TQ., Doãn Trung dịch); nghị luận: Góp ý kiến về sơ kết phong trào văn nghệ trong dịp Tết (Thế Thông), Tình cảm của bộ đội qua một số thơ ca gần đây (Xuân Thiêm),…

VNQĐ. s. 9 (01/03/1956): có các bài chính: Lấy thân chắn nước (ký, Nguyễn Trọng Oánh), Giếng nước ngọt (ký, Phan Huỳnh), Câu chuyện khẩu súng trường (ký, Phạm Mạn), Miếng vải cũ (ký, Đỗ Ngọc), Mùa xuân tập kết ở Ba Tơ (ký, V.X.); thơ ca: Trò hề tuyển cử (thơ đả kích, K 56), Đêm nay đi tuần (Trần Ngọc), Ra công chống hạn (tập Kiều, Lùng Kim Trân), Kể chuyện đồng chí Ất (hát nói, Giáp Lá Cà), Em bé chăn trâu (Đặng Đức Thiềng), Lửa thiêu văn tự (Thanh Tịnh); thơ văn dịch: Bài ca người chiến sĩ (thơ Sergei Mikhalkov, LX., Lê Kim dịch); Đại đội trưởng và chiến sĩ mới (truyện, Hà Bản Phát, TQ., Doãn Trung dịch); bài hát: Mùa xuân đón Bác (nhạc và lời Hồng Nhu); thời sự văn nghệ: Xung quanh phong trào văn nghệ đơn vị (Anh Tâm, Huy Dư, v.v…), Đoàn văn công Tổng cục chính trị xuống phục vụ đơn vị (Văn Phác, Đức Toàn), Nhận tặng phẩm văn nghệ của Giải phóng quân Trung Quốc (Xuân Thiêm), Điểm lại các truyện ngắn trong thời gian qua (Khải),…

VNQĐ. s. 10 (15/03/1956) có các bài chính: kinh nghiệm, phê bình: Vài nhận xét sau đợt liên hoan sơ kết tết: Đừng làm trở ngại cho chỉnh huấn, hại phong trào và oan cho chiến sĩ (Văn Phác), Vài mẩu chuyện sinh hoạt văn nghệ đại đội (Ngọc, Huy Giư), Xem đoàn văn công Tổng cục biểu diễn (Nguyễn Chân), Mấy ý kiến nhận xét về thơ ca bộ đội gần đây (Xuân Thiêm), Trao đổi kinh nghiệm (Thế Thông, Văn Sinh, Trịnh Thế Cường); thơ: Ơn Đảng (Hồng Thi, C.3), Lá cờ của Bác (Hoài Phương, C.15), Bưởi Nam cam Bắc (Thanh Nhã), Tôi gác trên cửa biển (Trần Ngọc), Tiếng hát đào sông (Minh Đạo), Đả đảo trại tập trung giết người của Ngô Đình Diệm (thơ đả kích, Lê Kim); bài hát: Một hai ta bước (nhạc và lời Tống Lê Vân); ký: Người trung đội trưởng tốt (Phạm Văn Đặng), Về đơn vị (Đào Hồng Cẩm), Người tiểu đội trưởng nuôi quân (Hồ Văn Duyệt), Thư về Nam (Hà Mậu Nhai); truyện: Tin tưởng pháo (Vinh Tú), Nắm đất (truyện, Boris Polevoi, LX., Bùi Nguyên Hiến, Nguyễn Ngọc dịch)…

VNQĐ. s. 11 (01/04/1956) có các bài chính: nghị luận, phê bình, kinh nghiệm: Đẩy mạnh phong trào văn nghệ đơn vị tiến lên những bước mới (Thế Thông, Trường Kha, Trọng, Ngọc Minh), 7 tác phẩm cuả bộ đội đã được giải thưởng văn học Hội Văn nghệ VN 1954-55 (VNQĐ), Quên sao được những ngày phục vụ bội đội miền Nam (Nguyễn Thanh, Khắc Tuế), Trao đổi kinh nghiệm (Hoài Châu, Văn Sinh, Trương Công Lê), Mấy ý kiến về bộ đội ca hát (Vĩnh An); thơ: Chiếc khăn (Xuân Vũ), Trở lại Chiềng Ve (Cầm Giang), Đi nhận ruộng (Phác Văn), Mưa (Minh Tập), Vịnh Ngô Đình Diệm (thơ đả kích, Nguyễn Linh), Đa-lét có cái mặt mo (thơ đả kích, Lê Kim); truyện: Được 5 điểm (Vinh Tú); mẩu chuyện: Chuyện miền Nam (Đặng Văn Khánh), Bông hoa trắng nở (Tiến Dân); ký sự: Cao xạ pháo xuất trận (Lý Đăng Cao),…

VNQĐ. s. 12 (15. 04. 1956) có các bài chính: nghị luận, phê bình, kinh nghiệm: Xung quang phong trào văn nghệ đơn vị (Thế Thông, Dương Vân, Anh Vinh, Lê Nguyên), Học tập nhà văn Xô-viết Boris Polevoi (Trần Cư), Tôi viết ‘Đất nước đứng lên’ (Nguyên Ngọc), Ở tiền tuyến (thư cải cách ruộng đất, Vũ Tú Nam); thơ: Hôm nay (Nguyễn Ngọc Tấn), Tăng gia cải thiện (Văn Thiệu), Lớn lên (Hồ Khải Đại), Kể chuyện đồng chí Phung (Chu Mai Niệm), Hong tơ, Ngó theo, Ngoéo tay (ca dao Nguyễn Hiêm), Tế ‘quốc hội’ của Tổng Diệm (thơ đả kích, Lê Kim), Ăn may hay khổ luyện (vè, Trương Công Lê); bài hát: Hồng quân Liên Xô (nhạc Liên Xô, lời Vũ Bình dịch theo báo Trung Quốc); văn: Biên giới tổ quốc (ký, Lê Đào), Cái lu (truyện ngắn, Trần Kim Trắc), Đất nước đứng lên (trích tiểu thuyết, Nguyên Ngọc);

VNQĐ. s. 13 (01. 05. 1956) có các bài chính: kinh nghiệm: Xung quanh phong trào văn nghệ đơn vị (Hy, Sơn Đoàn, Lê Huy Thục, Văn Căn, Vũ Chương, Phạm Ngọc Cảnh), Tôi học viết (Trần Kim Trắc), Xem phim ‘Cây tre Việt Nam’ (P.V.), Trao đổi kinh nghiệm (Nguyễn Hữu Nghĩa), Văn công học tập lẫn nhau (Khai Minh), Đẩy mạnh việc hướng dẫn khai thác và áp dụng vốn cũ dân tộc (Ngô Huỳnh); thơ: Đến mùa bông nở (Nguyễn Trọng Oánh), Mười lăm năm sau (Vũ Tú Nam), Chiến sĩ bắn tăng (Xuân Cang), Việt Nam phải thống nhất (Thanh Tịnh), Em bé và người mẹ (Hải Hồ), Nhận thư anh (Cầm Giang), Khỉ Diệm kể công (thơ đả kích, Lê Kim); bài hát: Pháo binh trên thao trường (nhạc và lời Nguyễn Trọng); văn: Thắng luôn hai trận (truyện, Vinh Tú), Cái xe đẩy (ký, Trần Công Nghị), Chị Thỏn (gương chiến đấu, Mai Ngữ), Chiếc huy hiệu chiến sĩ Điện Biên Phủ (truyện, Đại Đồng), Làng Đực (ký, Bình Minh), Bảo vệ Mạc Tư Khoa (ký, B. Polevoi, LX., Phạm Đức dịch),…

VNQĐ. s. 14 (15. 05. 1956) có các bài mục chính: phê bình, kinh nghiệm: Xung quanh phong trào văn nghệ đơn vị (Thanh Sơn, Vương Hữu Trường, Xuân Sách, Xuân Hồng, Tô Hải), Tiến tới tổng kết phong trào thi đua văn nghệ phục vụ chỉnh huấn (Văn Phác), Quân đội chúng ta được 13 giải thưởng trong cuộc thi văn học và ca nhạc 1954-1955 (P.V.), Trưởng thành với quần chúng (Đỗ Nhuận), Tôi học làm thơ (Hồ Khải Đại), Trao đổi kinh nghiệm (Văn Thạch, Lê Thống, Hoàng Hữu Đức, Lê Thái, Đoàn Văn Sâm); thơ: Kết hợp hay vào nhé (Trần Ngọc), Hai con sông (Nguyễn Hiêm), Gửi mẹ (Hồ Khải Đại), Có ghẻ né ruồi (vè, Trúc Lâm), Chú ơi nhận lấy nhé (thơ Cung Qua, HS Trung Quốc, Doãn Trung phỏng dịch); bài hát: Tát nước đêm trăng (nhạc Đắc Nhẫn, phổ lời Minh Châu), Hò đắp đường thống nhất (nhạc Tạ Phước, lời Tô Vũ); văn: Anh hùng công binh Lê Viết Thoảng, moi ruột đồi A 1 (truyện, Tạ Hữu Yên), Người tiểu đội trưởng pháo binh (truyện, Xuân Sách), Chúng tôi được gặp Bác (ký, Ngọc Châu), Chuyện CCRĐ đợt 5: Chị thẩm phán (ký, Hồ Phương), Cụ già trong núi (truyện, Phế Nhiên, TQ., Doãn Trung dịch),…

VNQĐ. s. 15 (01. 06. 1956) có các bài mục chính: nghị luận, kinh nghiệm: Tiến tới Đại hội văn nghệ toàn quốc 1956 (Hội Văn nghệ VN), Xung quanh phong trào văn nghệ đơn vị (Quốc Thể, Hoài Châu, Trần Quốc Khánh, Phan Xuân Hoàng), Kỷ niệm ngày thiếu nhi quốc tế 1/6: Tương lai các cháu nằm trong tay chúng ta (Trần Cư), Trao đổi kinh nghiệm (Kiều Xuân Thạch, Quang Tấn, Minh, Đức, Hải Hồ), Tích cực chuẩn bị họp mặt bạn đọc báo ‘Văn nghệ quân đội’ (Tòa soạn VNQĐ); thơ: Bố trí địa lôi (Đỗ Tấn Túc), Đồng chí Ánh, chiến sĩ công trường Lò Gạch (Vũ Hải), Huy hiệu Bác Hồ (Lưu Giang), Tôi muốn mời đến tổ quốc tôi (Phùng Quán), Bọn Diệm ‘khuyến khích sự thai nghén’ (thơ đả kích, Tạ Hữu Thiện); văn: Đường cụ Hồ, truyện đ/c Vừu, anh hùng quân đội (Xuân Thiêm), Thăm lại chiến trường Điện Biên Phủ (ký, Phạm Thanh Tâm), Sau buổi tập (truyện, Vinh Tú), Chuyện miền Nam (chuyện kể, Nguyễn Ngọc), Trận tấn công vào Skirmanovo (trích truyện dài ‘Cây bạch hoa’, M. Bubenov, LX., Dương Minh Đẩu dịch),…

Sau số 15 kể trên, bán nguyệt san "Văn nghệ quân đội" ngừng xuất bản cho đến hết năm 1956.

Đầu tháng 1 năm 1957, tạp chí "Văn nghệ quân đội" ra mắt, thay thế cho tờ báo "Văn nghệ quân đội". Đây là tạp chí ra hàng tháng, độ dày từ khoảng 76 trang đến trên 100 trang, khuôn khổ từ khổ tương đương A4, có lúc rút xuống khổ 13x19cm; nội dung thường gồm 2 phần: phần đăng sáng tác thơ văn (của các cây bút trong ngoài quân đội), nhạc (đôi khi có thêm ảnh nghệ thuật, phụ bản tranh in màu hoặc đen trắng), và phần lý luận, phê bình, kinh nghiệm sáng tác, tin tức văn nghệ.

Từ tháng 5/1957, từ chỗ là một ấn phẩm chỉ lưu hành trong quân đội, tạp chí "Văn nghệ quân đội" bắt đầu được phát hành rộng rãi cả trong lẫn ngoài quân đội.

Cũng bắt đầu từ số này, địa chỉ “Hòm thư 61 Cửa Đông, Hà Nội” được thay bằng địa chỉ “nhà số 4 Lý Nam Đế, Hà Nội”, [3] và quan trọng hơn, một ban biên tập của tạp chí Văn nghệ quân đội lần đầu tiên được công bố trên bìa sau của số tạp chí này, bao gồm những tên tuổi mà hầu hết rồi sẽ trở nên quen thuộc với bạn đọc: Vũ Cao, Lưu Trùng Dương, Minh Giang, Từ Bích Hoàng, Mai Văn Hiến, Nguyễn Khải, Hữu Mai, Vũ Tú Nam, Nguyên Ngọc, Hà Mậu Nhai, Đỗ Nhuận, Nguyễn Trọng Oánh, Hồ Phương, Phùng Quán, Vũ Sắc, Nguyễn Ngọc Tấn, Ngô Thông, Xuân Thiêm, Tạ Hữu Thiện, Thanh Tịnh, Phác Văn, cùng với vị trí chủ nhiệm đầu tiên của tạp chí là Văn Phác.

Sưu tập tạp chí "Văn nghệ quân đội" từ tháng 1/1957 hiện có tại hầu hết các trung tâm lưu trữ, nên tại đây không cần phải lược thuật nội dung; vả lại tôi được biết tòa soạn "Văn nghệ quân đội" cũng đã tiến hành làm tổng mục lục các mảng bài đăng tạp chí từ 1957 đến 2007, làm tài liệu cho những ai có quan tâm.

Như vậy, chặng đường từ các cuốn Sinh hoạt văn nghệ lưu hành trong các đơn vị bộ đội hồi những năm kháng chiến, đến dạng thức định hình của tờ tạp chí Văn nghệ quân đội phát hành trong công chúng toàn dân, đã hoàn tất vào tháng 5/1957.

Tháng 7/2010

L.N.A

CHÚ THÍCH

[3] Nhà số 4 Lý Nam Đế do kiến trúc sư Arthur Kruze (Pháp) thiết kế; và được xây dựng vào những năm 1930-40

Nguồn: FB Lại Nguyên Ân

Comments are closed.