Thơ dân tộc thiểu số, từ một hướng nhìn động

(Bài viết nên được đọc như là của một người làm thơ
nhìn thơ ca)

Inrasara


Thơ tiếng dân tộc đang mất phương
hướng


Không có thơ không chết ai cả, dòng đời cứ trôi, nhân
loại cứ sống. Có khi sống tốt lành nữa! Nhưng con người thì cần thơ. Kẻ tưởng
không hề cần đến thơ, bất chợt trong giây phút chểnh mảng của khúc đời, trên
môi bật lên vài câu thơ khuất lấp đâu đó nơi vũng mơ hồ của kí ức; hay thèm thể
hiện cái gì đó như thơ, qua phát ngôn có vần điệu. Họ không ngờ mình đang cần sự
giúp đỡ của thơ. Nơi đám đông hay trong cô đơn, góc tối xà lim hay giữa ánh sáng
quảng trường, phố xá tấp nập hay ruộng nương yên ắng, thơ cứ có mặt. Như một nhu
cầu.

Như cái plây dân tộc thiểu số đói rách kia, tưởng không
thể có đất cho thơ sống sót, thế mà họ vẫn đốt lửa, văn nghệ. Mỗi năm, mỗi mùa
vụ, mỗi lễ hội. Có nhảy múa, ca hát và có cả… thơ. Cứ thế người ta làm thơ, như
một thói quen. Năm này sang năm khác, vụ này qua vụ khác, lễ hội này nối lễ hội
khác. Vẫn bổn cũ lặp lại. Rồi bất ngờ làng có kẻ đi xa đâu mười, hai mươi năm
trở về, nhận thấy lạ, chợt la lên: sao cứ giống vụ trước. Chán quá đi thôi! Họ
giật mình nhìn lại: ờ, giống thật. Phải làm khác đi chứ.

Thế là vài kẻ máu phiêu lưu trong cộng đồng kia xăn tay
áo vào cuộc. Từ đó thơ làm lang thang, một lang thang không biết đâu là cùng
tận. Nhu cầu tự làm mới lạ của thơ có mặt, như một thách
thức.

Máu phiêu lưu đẩy thi sĩ đi tìm vùng đất mới, lạ cho
thơ. Mải mê đi tìm và khai phá, quay lại nhìn: không ai sau lưng cả. Ngôn ngữ
quần chúng mất hút! Tiếng nói của thi sĩ không được cộng đồng đón nhận, rơi vào
khoảng trống, thi sĩ chỉ còn biết nói với nhau. Trong một không gian chật chội,
bằng thứ ngôn ngữ đặc dị. Chính là chỗ mà phần đông nhà thơ xu hướng cách tân
hôm nay đang đứng, có lẽ.

Thơ sẽ đi về đâu?

Thơ không đi đến đâu cả, nhưng nó cứ đi, đi về nơi nó
tưởng nó sẽ đến. Nhưng dẫu có đi tới đâu, nó cũng phải trở về, trở về nơi nó
xuất phát: con người, trong ngôi nhà của nó: ngôn ngữ. Lang thang đi tìm hình
dạng ngôi nhà thích hợp cho con người cư trú là bổn phận của thơ. Mọi nơi, mọi
thời, Đông hay Tây, kim hay cổ. Khác điều, tốc độ cuộc sống hôm nay đi nhanh
hơn, nên hình dạng thơ thay đổi nhanh hơn. Cứ mỗi năm, bảy năm làm ta giật mình
cái. Nhưng mặc ta nhăn mày hay hãi sợ, thơ cứ phải thay đổi, nếu nó không muốn…
bệnh! Cùng thế giới, xã hội Việt Nam đang đổi thay. Cùng với thơ thế giới, thơ
Việt cũng đang chuyển động. Nó dõng mãnh (hay ẻo lả) đi về hướng nó cần đến: sự
dịch chuyển không ngưng, không nghỉ.

Việt Nam là đất nước đa văn hóa, văn chương Việt Nam là
nền văn chương đa ngôn ngữ. Nhưng hôm nay văn chương tiếng Thái, Tày, Mông, Êđê,
Cham… đang rất lép so với người anh em Việt. Bởi dẫu sao, thơ tiếng Việt còn
được sáng tác bởi lực lượng hùng hậu (trong đó có cả anh em dân tộc thiểu số),
hùng hậu đến nỗi đã không ít vị kêu làng nó lạm phát! Còn Cham, Êđê… thì hầu như
vắng hoe. Không người đọc, nhà thơ dân tộc thiểu số mất đi đáng kể chất kích
thích sáng tác. Như kẻ đứng trước cử tọa đây đang đọc phát biểu bằng tiếng Việt
hai lần nhận giải thưởng thơ của Hội Nhà văn cũng bằng các sáng tác tiếng Việt,
từ mười năm nay, đã không còn hứng thú trong làm thơ bằng tiếng mẹ đẻ nữa. Vậy
mà kẻ đó lâu nay từng được cho là “người lưu giữ văn hóa dân tộc”!

UNESCO cho biết, mỗi tháng nhân loại mất đi hai ngôn
ngữ. Bốn trăm năm qua, hơn ngàn ngôn ngữ loài người bốc khói. Với một cụm di
tích, một nền văn chương cổ, chúng ta có thể phục chế, sưu tầm, dịch thuật để
người đời sau thưởng lãm, nghiên cứu. Nhưng hỏi nếu ngôn ngữ sống của một dân
tộc mất đi, chúng ta hành xử như thế nào? Bất khả. Ngôn ngữ dân tộc tồn tại và
phát triển chủ yếu qua sáng tác văn chương, nhưng hôm nay có mấy ai/còn ai làm
thơ, viết văn bằng tiếng Cham? tiếng Tày, Thái, Dao,…?

Thử nêu sơ bộ mười khuôn mặt văn nghệ dân tộc thiểu số
hôm nay, xem họ đã và đang làm gì cho thơ tiếng dân tộc và ngôn ngữ dân tộc?
Tiêu chí chọn:

– Những người sáng tác thơ và, thành danh bằng
thơ.

– Nhiều dân tộc khác nhau càng tốt, riêng Tày được chọn
ba do lực lượng người viết đông hơn cả. Ba người thuộc ba thế hệ khác
nhau
(1).

Nông Quốc Chấn
(sinh 1923, dân tộc Tày)

– Thơ tiếng Việt (4 tập): Tiếng ca người Việt Bắc, Dòng Thác, Bài thơ Pác Bó,
Suối và biển.

– Thơ tiếng Tày (6 tập): Việt
Bắc đánh giặc, Dọn về làng, Đi Berlin về, Tiếng lượn cần Việt Bắc, Cần Phja
Bjoóc, Dám kha Pác Bó
.

– Tác phẩm tiếng Việt dich ra tiếng Tày (1 tập): Mười điều kháng chiến.

– Tiểu luận-phê bình: 3
tập.

Y Phương
(sinh 1948, dân tộc Tày)

– 4 tập thơ và một trường ca đều bằng tiếng Việt:
Tiếng hát tháng giêng, Lửa hồng một góc, Lời chúc, Đàn
then, Chín tháng.

Dương Thuấn (sinh
1958, dân tộc Tày)

– Thơ tiếng Việt (8 tập): Cưỡi
ngựa đi săn, Đi tìm bóng núi, Đi ngược mặt trời, Bà lão và chích chòe, Mười bảy
khúc đảo ca
(trường ca), Hát với
sông Năng, Trăng Mã Pí Lèng, Đêm bên sông yên
lặng
.

– Thơ song ngữ (1 tập): Con
côi làm dâu
.

– Thơ tiếng Tày (1 tập): Slíp nhỉ tua
khoăn.

– Truyện ngắn (1 tập): Bài
học mùa hè
.

Pờ Sảo Mìn
(sinh 1946, dân tộc Padí)

– 4 tập toàn thơ sáng tác bằng tiếng Việt: Cây hai ngàn
lá, Bài ca hoang dã, Con trai người Padí, Cung đàn biên
giới.

Lò Ngân Sủn
(sinh 1945, dân tộc Dáy)

– Thơ tiếng Việt (9 tập): Chiều
biên giới, Những người con của núi, Đám cưới, Đường dốc, Dòng sông Mây, Chợ
tình, Lều nương, Tôi là một ngọn gió, Người trên
đá
.

– Thơ song ngữ (1 tập): Đầu nguồn cuối
nước.

– Tập truyện tiếng Việt (2 tập): Chiếc vòng bạc, Hưu tập
thể.

– Sưu tầm, dịch (2 tập): Tục ngữ Dáy, Bước đầu tìm hiểu về dân ca người
Dáy.

– Tiểu luận (3 tập).

Lò Cao Nhum
(sinh 1954, dân tộc Thái)

– Thơ tiếng Việt (5 tập): Giọt sao trở về, Rượu núi, Sàn trăng, Theo lời hát về
nguồn, Mùa hoa chuông.

– Dịch dân ca Thái (1 tập): Lời
hát trong lễ hội Chá chiêng
.

Hơ Vê
(sinh 1947, dân tộc H’rê)

– Thơ tiếng Việt (5 tập): Đóa hoa rừng, Tất cả cho anh, Plây em mùa xuân, Khát
vọng, Con chim Ta lố.

Triệu Kim Văn
(sinh 1945, dân tộc Dao)

– Thơ tiếng Việt (5 tập): Hoa núi, Mùa sa nhân, Lá tìm nhau, Con của núi, Lửa của
mồ côi.

– Bút kí tiếng Việt (1 tập): Tân sơn cựu sơn.

– Nghiên cứu (1 tập – in chung): Bước
đầu tìm hiểu vốn văn nghệ Việt Bắc
.

Chu Thùy Liên
(sinh 1966, dân tộc Hà Nhì)

– Thơ tiếng Việt (1tập): Lửa
sàn hoa.

– Trường ca Hà Nhì: Xa
nhà ca
, 1 tập Truyện cổ Hà
Nhì
.

Inrasara
(sinh 1957, dân tộc Cham)

– Thơ tiếng Việt (3 tập): Tháp
nắng, Hành hương em, Lễ tẩy trần tháng Tư
.

– Thơ song ngữ: Sinh nhật cây xương
rồng.

– Tiểu luận: Văn hóa-xã hội Cham, nghiên cứu & đối
thoại.

– Nghiên cứu – sưu tầm – dịch thuật: Văn
học Cham
(3 tập).

– Nghiên cứu ngôn ngữ: Tự học tiếng Cham, Từ điển Cham-Việt dùng trong nhà
trường.

Như vậy, có ba nhà thơ chỉ thuần sáng tác bằng tiếng
Việt: Y Phương, Hơ Vê, Pờ Sảo Mìn. Hai người có tham gia nghiên cứu – dịch
thuật vốn cổ văn học dân tộc, dù thành tích còn khá khiêm tốn: Triệu Kim Văn,
Lò Cao Nhum. Dương Thuấn, dẫu thuộc thế hệ trẻ nhưng đã in một thi phẩm sáng
tác bằng ngữ Tày, một bằng song ngữ Việt – Tày, là điều rất đáng khích lệ. Có
ba nhà thơ vừa sáng tác bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc bên cạnh nghiên cứu văn
học và ngôn ngữ dân tộc, dù mỗi người đặt nặng từng khía cạnh mỗi khác: Nông
Quốc Chấn, Lò Ngân Sủn, Inrasara. Trong đó, đặc biệt nhà thơ quá cố Nông Quốc
Chấn là người đã dịch ngược thơ Việt sang tiếng dân tộc. Ngoài ra, tôi muốn nêu
thêm một tên tuổi quen thuộc: nhà thơ Triệu Lam Châu (sinh 1952, dân tộc Tày),
anh còn dịch truyện Nga sang ngữ Tày nữa!

Qua phân tích, ta thấy đa phần nhà thơ người dân tộc
thiểu số chú ý đến sáng tác bằng tiếng dân tộc, vẫn còn quan tâm đến đào sâu
vào văn chương – ngôn ngữ dân tộc để làm giàu sang tiếng dân tộc đồng thời khai
thác khía cạnh độc đáo trong ngôn ngữ dân tộc, từ đó vận dụng vào sáng tác thơ
bằng tiếng phổ thông. Đây là điều rất cần thiết, có tác động qua lại mang tính
biện chứng trong phát triển thơ song ngữ. Chính nhờ vận dụng lối nói, lối nghĩ
dân tộc vào thơ mà các nhà thơ dân tộc thiểu số đã tạo được vài giọng riêng đóng
góp vào nền thơ Việt thời gian qua.
 

Thế nhưng, như vậy vẫn còn là quá yếu so với yêu cầu
thực tiễn từ phía ngôn ngữ dân tộc và người đọc là bà con dân tộc thiểu số.
Nông Quốc Chấn: sáu tập, Dương Thuấn: hai tập, Inrasara chỉ mới nửa tập! Đấy là
chúng ta chỉ làm cái kê biên đếm đầu sách mà chưa bàn đến chất lượng. Việc
nghiên cứu mang tính chiều sâu về ngôn ngữ – văn chương dân tộc càng yếu hơn
nữa.

Bản thân nhà thơ đã vậy. Các cơ quan báo chí giữ vai
trò và hỗ trợ gì trong phát triển thơ dân tộc thiểu số? Tạp chí Văn
hóa các dân tộc
ra định kì hàng tháng đăng đủ loại từ sáng tác thơ văn, nhạc
họa cho đến sưu tầm – nghiên cứu thuộc mọi dân tộc, vùng miền. Cần thiết, nhưng
không đủ. Phụ san của tờ Văn nghệ
Văn nghệ dân tộc, mỗi kì đăng vài
bài thơ song ngữ, dù rất cố gắng nhưng cũng chưa thấm vào đâu. Chúng ta chưa thử
xem các bài thơ ấy có tác động gì đến suy nghĩ của đồng bào về tiếng và văn
chương dân tộc? Hay chúng chỉ mãi dậm chân ở phong
trào?

Một tạp chí hay đặc san dành riêng cho các dân tộc có
phong trào sáng tác mạnh, chúng ta vẫn chưa đặt vấn đề đó. Hay đồng bào chưa
thực sự có nhu cầu? Không nói đến dân tộc Hoa hay Khmer, họ có cả bề dày truyền
thống văn chương ở phía sau với một lượng rất đông người đọc phía trước; và
thực tế họ cũng đã có các tập san bằng ngữ dân tộc của/cho họ. Ngay tộc Tày, với
số dân khá đông bên cạnh hơn chục nhà thơ (tôi chỉ kể những người viết là hội
viên Hội Nhà văn Việt Nam), cũng không có đặc san cho riêng mình. Tại sao? Hay
Tày không thích đọc thơ bằng tiếng mẹ đẻ?

Đây là xu hướng chung của phát triển: con người luôn
hướng về phía mạnh, phía đông. Chúng ta biết, không ít nhà văn Đông Âu, khi lưu
vong sang phương Tây, đã viết thẳng bằng tiếng Anh hay Pháp. Nửa thế kỉ nay,
tác giả Việt sáng tác bằng tiếng Pháp không phải là chuyện hiếm. Rồi hơn hai
thập niên qua, ít nhất cũng có năm nhà thơ Việt kiều thành danh trên đất Mĩ
bằng chính ngôn ngữ bản địa: Đinh Linh, Mộng Lan, Nguyễn Hoa,
(2)
Việt Nam, không chỉ các nhà thơ dân tộc thiểu số xu hướng sáng tác thuần tiếng
Việt, mà ngay cả người đọc dân tộc thiểu số cũng không hào hứng lắm trong đọc
văn bản bằng tiếng mẹ đẻ nữa. Không có tác phẩm hay để đọc hay chưa đủ lưng vốn
tiếng dân tộc để đọc? Theo tôi: cả hai, có lẽ.

Tày thì như vậy, thế Cham có nhu cầu thì thế
nào?

Tagalau
mỗi năm ra được một số, nhưng đó chỉ là Tuyển tập sáng tác – sưu
tầm –
nghiên cứu, chứ chưa là
tạp chí hay đặc san
(3). Mà
nó là thành quả từ nỗ lực của một vài anh em trí thức Cham bên cạnh hỗ trợ của
bà con dân tộc. Mỗi kì Tagalau đi
được năm, bảy bài thơ bằng tiếng Cham của các tác giả khác nhau, bên cạnh đăng
nguyên tác thi phẩm cổ điển kèm theo bản dịch tiếng Việt; số mới nhất còn trích
in cả một chương cuốn tiểu thuyết hiện đại bằng tiếng mẹ đẻ nữa. Nhưng, như thế
đã đủ chưa?

Trường hợp Cham cũng đủ cho ta một cái nhìn khái quát:
qua sáu số Tagalau, chỉ mới thấy
xuất hiện mười tay viết bằng tiếng mẹ đẻ; trong đó hết sáu người đã ở ngưỡng cổ
lai hi, ba trong độ tuổi từ năm mươi trở lên, chỉ có một Jaya Hamu Tanran có năm
sinh là 1958! Cham có cả một Trung tâm
nghiên cứu văn hóa Cham
trực thuộc Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Ninh Thuận với
năm cán bộ chuyên môn, khá mạnh về lãnh vực sưu tầm – nghiên cứu; có cả Ban biên soạn sách chữ Cham thuộc Sở
Giáo dục Ninh Thuận với bảy biên chế hoạt động hiệu quả; Trung tâm nghiên cứu
Việt Nam-Đông Nam Á của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Tp.Hồ Chí
Minh cũng đã kịp thời biên soạn và xuất bản bộ
Từ điển Cham – Việt, Từ điển Việt –
Cham
(4) dày dặn và bổ ích. Nhưng đó là thứ ngôn ngữ dừng lại ở
cửa “hàn lâm” và trường học chứ chưa thực sự đi vào quần chúng. Ngôn ngữ đó sẽ
sống và phát triển ra sao, nếu chưa có tiếp tay của những người làm sáng tác văn
học? Và, nếu các sáng tác phẩm ấy không được tạo điều kiện phổ
biến?
(5)

Vẫn chưa có lối thoát cho vấn nạn
này.

Còn việc dạy và học tiếng dân tộc, nó có giúp ích được
gì cho sáng tác và tiếp nhận thơ tiếng dân tộc? Ngoài người Hoa, theo tôi được
biết, có bốn dân tộc được Bộ Giáo dục dành cho chương trình dạy tiếng-chữ trong
trường tiểu học là: Khmer, Mông, Bana, và Cham; trong đó Cham được Trung tâm
giáo dục dân tộc thuộc Bộ Giáo dục đánh giá tốt hơn cả trong việc biên soạn
sách bằng ngữ dân tộc, dạy và học tiếng-chữ dân tộc. Số liệu mới nhất của Ban biên soạn sách chữ Cham về công tác
này:

Sau ba lần chỉnh lí, đến hôm nay (niên khóa 2001-2002),
trên 25.000 cuốn được in phục vụ cho các trường ở địa phương. Cụ thể đã có
10.102 học sinh ở 345 lớp của 22 trường tiểu học được cấp miễn phí tài
liệu
(6).
Ngoài ra, từ lớp bốn trở lên các em học sinh trong cộng đồng người Cham còn nắm
bắt thêm tri thức cơ bản của nền văn học dân tộc bằng vài trích đoạn thơ-văn,
thông qua chữ viết.

Đó là thành tựu không thể chối cãi, tác động tích cực
trong duy trì và phát triển tiếng-chữ dân tộc Cham thời gian qua. Nhưng, sau
cấp tiểu học, các em không được học tiếp, sách đọc thêm cho các em cũng không.
Không có tạp chí cho các em đọc, không cả việc tạo điều kiện cho tài năng văn
chương cơ hội thi thố nữa. Lực lượng độc giả và tác giả tương lai Cham sẽ ra
sao trong tình trạng ấy? Và ngôn ngữ dân tộc? Nó có nối thêm tên vào bảng danh
mục ngôn ngữ nhân loại bốc khói của UNESCO, thời gian
tới?

Tình hình tiếng và thơ dân tộc thiểu số như thế, thi sĩ
đứng ở đâu?

Thi sĩ cư trú đồng thời canh giữ ngôn ngữ dân tộc như
ngôi nhà của tính thể con người. Hôm nay ngôi nhà ngôn ngữ Cham [Tày, Mông,…]
đang dột nát, dột nát đến vô phương cứu vãn. Tôi, với tư cách là kẻ sáng tác,
vừa hối hả lượm nhặt thứ gì còn lượm được ở ngôi nhà cũ, đồng lúc lo chạy qua
ngôi nhà mới trú thân, trong cơn bão của nỗi cô đơn vừa siêu hình vừa xã hội.
Đó là nói hình tượng thế.

Thơ dân tộc thiểu số vừa đi vừa
ngủ

Đó cũng là một lối nói. Nhà thơ người dân tộc thiểu số
sáng tác bằng tiếng Việt, chỉ trong thời gian vài chục năm, đã xuất hiện ồ ạt,
dũng mãnh đi tới, khai phá và, khẳng định mình trên thi đàn cả nước. Từ thế hệ
đầu: Bàn Tài Đoàn, Nông Quốc Chấn, Vương Trung sang thế hệ thứ hai với: Y
Phương, Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo Mìn, rồi thế hệ thứ ba với: Lương Định, Triệu Lam
Châu, Dương Thuấn, Lò Cao Nhum… Ở đây tôi muốn nói lời xin lỗi đến vài tên tuổi
khác bởi dấu “…” này. Nhưng sau đó, hầu như không còn bộ mặt nào mới, khác nổi
trội lện.

Các tiềm năng thơ trẻ dân tộc thiểu số đang ngủ [hay
chưa thức?], cả thế hệ trước cũng có vẻ ngái ngủ. Chúng ta thử đi tìm nguyên
do. Các nguyên do xoay quanh các vấn đề liên quan đến nghề nghiệp, và chỉ nghề
nghiệp.

Xin chú ý vài điểm:

Tạm đặt bên ngoài bài phân tích người viết dù xuất thân
dân tộc thiểu số, nhưng các sáng tác đã không nằm trong vùng không gian văn
hóa/không gian thơ dân tộc thiểu số. Vi Thùy Linh là điển hình. Ở chiều hướng
ngược lại: Đỗ Thị Tấc. Ngoài ra, phân tích không nhắm đến tác giả mà là vấn đề
mà mỗi tác giả có liên can, các dẫn chứng chỉ để làm rõ luận điểm. Tác giả khác
soi vào đó, có thể thấy bóng dáng mình. Bởi mỗi thành tựu hay hạn chế của nhà
thơ này đều có mặt nơi tác giả khác, đậm/nhạt, ít/nhiều, tùy. Ví dụ sự mòn sáo
của đề tài/ngôn từ dính đến hầu hết người làm thơ dân tộc thiểu số hôm nay. Cuối
cùng: không ngại dẫn chứng thơ của chính người phân
tích.

Sáng tác thơ bằng ngôn ngữ-không là tiếng mẹ
đẻ

Sống và suy nghĩ qua và bằng tiếng mẹ đẻ, nhưng khi
sáng tác bằng tiếng của dân tộc khác (ở đây là tiếng Việt), các nhà thơ dân tộc
thiểu số ý thức rõ mình cần nỗ lực rất lớn: vừa học sử dụng ngôn ngữ Việt vừa
tập suy nghĩ qua ngôn ngữ đó. Thế nào đi nữa, ở giai đoạn đầu, chúng ta không
thể rời bỏ dứt khoát lối suy nghĩ – bị quy định bởi/bằng ngôn ngữ – đã ăn sâu
vào máu từ thuở lọt lòng. Viết, chúng ta luôn mang vào thơ mình những lối nói,
lối nghĩ của dân tộc. Cái tưởng như bất lợi này lại là may mắn cho chúng ta.
Chúng ta tạo được một bản sắc độc đáo, đóng góp giọng thơ mới lạ vào nền thơ
tiếng Việt. Nông Quốc Chấn, Y Phương, Lò Ngân Sủn, rồi Dương Thuấn, Mai liễu, Pờ
Sảo Mìn đã làm được những việc như thế, thời gian
qua.

Thế nhưng trong chiều sâu tâm thức, không nhiều thì ít,
ta vẫn mang mặc cảm: ngoảnh mặt tiếng dân tộc; và tự ti: có gì đó chưa thật
nhuần nhuyễn, chưa thật tinh như người
Kinh
! Không chịu dừng lại, ta cặm cụi học tập, nỗ lực vươn tới. Và rồi từ
chính nỗ lực này đã sinh ra rắc rối: bắt chước. Từ hình ảnh, cụm từ làm sẵn, ước
lệ, lối ví von, ngắt câu sao cho như
Kinh
. Hệ quả: chẳng những chúng ta không bằng người Kinh mà ngày càng xa rời
chính giọng thơ của mình.

Cây hai ngàn lá
gập ghềnh qua mười sáu năm tìm tòi khai phá để đi đến Con
trai người Padí
của Pờ Sảo Mìn, là điển hình
chung.

Dân
tôi chỉ có hai ngàn người

Như
cái cây hai ngàn chiếc lá

Lối ví như thế vừa cụ thể vừa chân chất dân tộc, khác
hẳn lối ví trong Con trai người
Padí
đẫm ước lệ, sáo mòn và, không hay:

Con
trai người Padí

Đã đi
là như chạy

Như
mây bay lửa cháy ầm ầm

Lối nói hoặc các cụm từ làm sẵn, cũng thế. Trong lúc ở
“Cây hai ngàn lá” mới lác đác: “Chặn suối, ngăn sông, bắt nước ngược dòng” hay:
“Ta dang tay gặt mùa hạnh phúc ấm no”; thì trong “Con trai người Padí” chúng có
mặt đầy dẫy.

Hình ảnh trong “Cây hai ngàn lá” có cái nét gì đó đặc
trưng: “Tước vỏ cây thêu áo đẹp năm tháng” hay: “Ngô lúa cười reo tận sân trời
đó”. Qua đó, người đọc nhận diện được giọng thơ anh và bản sắc dân tộc anh. Sang
“Con trai người Padí”, khi phát triển thành “Dáng ngang tàng vẻ quẫy đạp trần
gian”, nó lại rất chung chung. Một chung chung chẳng nói được cái gì
cả.

Tính chung chung này càng lộ rõ ở việc nhà thơ chúng ta
đã vội vã khái quát:

Đã
uống không biết say

Chỉ âm
thầm trong quay cuồng bão gió

Còn những “Đã yêu là yêu nhiều yêu mãi”, rồi “Đã lên
yên không bao giờ ngã ngựa” là tài sản chung của nhân loại chớ riêng gì một dân
tộc nào đâu!

Thử so sánh đoạn thơ khác. Chẳng hạn khi Pờ Sảo Mìn
viết:

Chỉ
một giây

Anh
không được gặp em

Anh
không nhìn thấy em

Anh
không còn sống nữa

Trên
trái đất này

Đường
cày đi không thẳn
g(7)

Cả đoạn không gì đặc sắc, nhưng “đường cày đi không
thẳng” đã cứu nó đứng. Nhưng khi:

Chỉ có
một ngày

Anh
không được thấy em

Là một
ngày

      – Ăn không ngon

      – Ngủ không được tròn
giấc

Thì nó thành rất… sáo. Sáo nên
rỗng!

Mười sáu năm, hai thời điểm, từ “Cây hai ngàn lá” sang
“Con trai người Padí”, Pờ Sảo Mìn đã có một bước tiến nhưng đến hai bước lùi.
Bước lùi này thể hiện đậm nổi nhất trong nhịp điệu và giọng thơ. Nếu trong “Cây
hai ngàn lá” anh còn chút lưỡng lự, cái lưỡng lự đáng yêu của kẻ chưa quen thân
trước ngôi nhà xa lạ (là tiếng Việt và thơ tiếng Việt), thì sang “Con trai
người Padí”, thành khách quen rồi, đã thấy anh mạnh dạn hẳn lên. Không còn chút
dấu vết e ấp, ngập ngừng nữa mà là những bước đi ngang tàng đầy tự tin. Vần,
nhịp thơ rất nhuyễn, cái nhuyễn của nhà thơ dân tộc Kinh. “Con trai người
Padí”tạo cho người đọc cảm giác trơn
tuột của ý tưởng, hình ảnh và, cả bài thơ là bởi lẽ
đó

“Cây hai ngàn lá” và “Con trai người Padí” là hai bài
thơ có lẽ nhà thơ Pờ Sảo Mìn rất tâm đắc. Nó mang chở nặng chĩu tâm tình của
anh với dân tộc mình, đó là thứ tình yêu thiêng liêng. Nên, không phải ngẫu
nhiên mà anh đã chọn nó làm tên cho tập thơ
(8). Các học hỏi hay kinh nghiệm nghệ thuật của anh phục
vụ cho nó.

Ngay tại điểm này, chúng ta đụng đến chữ “tâm” của
người sáng tác. Vấn đề tâm và tài là việc muôn thuở trong lí luận về sáng tạo
nghệ thuật. Nhất là trong văn chương chữ nghĩa. Tâm hay tài cần? Cần tới đâu?
Nếu có tài mà không có tâm thì sáng tác “hay” kia có cần thiết cho dân tộc,
nhân loại? Ngược lại nếu một nhà thơ có tâm mà bất tài thì tác phẩm của anh giá
trị chút nào không?

Đó là chuyện lớn. Ở đây chúng ta giới hạn vấn đề trong
phạm vi hẹp hơn: tình cảm chân thực nào đó được thể hiện bằng hình thức nghệ
thuật.

Nhận định của Nguyễn Đình Thi giúp ta có cái nhìn sáng
rõ: “Thực trong thơ không những là thành thực trong tình cảm hay ý nghĩ. Sự
thành thực ấy đáng trọng, nhưng cũng bao nhiêu người thành thực làm khổ chúng
ta, khi bắt ta đọc thơ tâm tình của họ”
(9).

Pờ Sảo Mìn từ “Cây hai ngàn lá” đến “Con trai người
Padí” vẫn cố định ở tình yêu sâu đậm thuỷ chung như nhất dành cho quê hương dân
tộc, ở chất liệu đề tài; riêng về hình thức thể hiện, anh đã có bước tiến nhất
định: tiến về phía quy ước, quy ước chung của ngôn ngữ và thơ tiếng Việt. Anh
tan vào nó. Tan và mất. Nhưng khác với đa số nhà thơ dân tộc Kinh mà cái sáo
được hình thành từ thói quen thơ đi vào nẻo nghĩ/viết “xuôi tay” (từ của Chế Lan
Viên), lặp lại người khác hay của chính mình mà không tự ý thức; Pờ Sảo Mìn
ngược lại, do ngộ nhận. Là ngộ nhận chung của các nhà thơ dân tộc thiểu số.
Trong khi ngộ nhận của nhà khác là bám trụ vào “bản sắc”, kiên trì giữ giọng dân
tộc bằng lối nói ngô nghê, ngọng ngịu như cái
ngày, ê hê
,… hay đùn cơ man từ “thuần” dân tộc dày đặc vào các trang thơ: thắng cố, thổ cẩm, vòng xoè, apsara, buôn,
phum
; còn ngộ nhận của Pờ Sảo Mìn và vài nhà khác nữa xuất phát từ mặc cảm
không muốn thua sút – trong sử dụng tiếng Việt – các nhà thơ người Kinh. Là điều
hoàn toàn không cần thiết nữa, hôm nay.

Cùng tâm trạng và hoàn cảnh lưu vong, Joseph Brodsky
viết: “Đối với những người trong nghề chúng ta, tình trạng lưu vong trước hết
là một biến cố ngôn ngữ”
(10). Các
nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam, dẫu sáng tác trong tự nguyện, vẫn luôn viết
trong tâm thế khá phức tạp: tình trạng lép vế của tiếng dân tộc và con số độc
giả khiêm tốn là người bà con dân tộc. Do đó, dù yêu tiếng mẹ đến đâu, các nhà
thơ luôn có khuynh hướng tự thể hiện mình trong không gian rộng lớn hơn: tiếng
Việt.

Mặc cảm phạm lỗi có mặt thường trực (đấy là tôi muốn
nói đến các nhà còn mang ý thức phạm tội nơi bề sâu tâm thức). Thi nhân là kẻ
canh giữ ngôi nhà ngôn ngữ dân tộc. Nhưng trong lúc nhà ta đang dột nát, kẻ được
phân công canh giữ lại rời bỏ nó để đi xây dựng ngôi nhà khác! Không vấn đề tinh
thần dân tộc hẹp hòi hay rộng rãi ở đây cả, mà là phận sự canh giữ của lính gác:
trách vụ thiêng liêng của thi sĩ!

Không
ít bạn trách tôi mất giờ cho thơ tiếng
Cham

Có bao
lăm kẻ đọc, rồi sẽ còn ai nhớ?

Nhưng
tôi muốn phí trọn đời mình cho nó

Dù chỉ
còn dăm ba người

                  dù chỉ còn một người

                              hay ngay cả chẳng còn
ai

                                                            (Inrasara, Tháp
nắng
)

Đó là cách nói nặng mặc cảm phạm lỗi của kẻ trong cuộc.
Có ở đó nỗi gồng mình, sự tự động viên đồng lúc với tâm lí khỏa lấp. Tôi giáp
mặt nó, đối thoại với nó, hằng ngày. Nó ám ảnh và hành hạ tôi, không ngưng nghỉ,
ngay khởi điểm công cuộc sáng tác thơ tiếng Việt. Mặc dầu tôi vẫn thường xuyên
viết thơ bằng tiếng mẹ đẻ, nhưng mặc cảm kia vẫn cứ có mặt, đeo dai như đỉa! Bị
giằng xé giữa đi hay ở, giữa sửa sang lại căn nhà đang dột nát hay phiêu lưu vào
vùng đất mới lạ để tung hoành, nhiều lúc tôi đã phải phân thân, đôi khi tự lừa.
Tôi nghĩ, tâm thức ấy không chỉ riêng mình tôi mắc phải.

Ơi
tháp!

Bao
nhiêu năm tha hương

Bề sau
trang thơ tôi vẫn còn lãng đãng

Số
phận người

                                                           (Inrasara, Hành
hương em
)

Lưu vong ngôn ngữ, nhà thơ chúng ta trôi giạt khỏi ngôn
ngữ dân tộc, tình trạng bất an luôn tiềm ẩn ở bề sâu, sẵn sàng nhảy xổ ra chất
vấn chúng ta ở mỗi ngã rẽ cuộc đời. Thật khó tìm có sự an bình cao vời như R.
Tagore, khi ông dùng thoải mái hai thứ tiếng Bengali và tiếng Anh. Ông là triết
nhân được nuôi dưỡng trong môi trường tinh thần triết lí Ấn Độ. Còn chúng ta?
Khốn khổ thay, nhưng cũng vinh quang thay! Nedim Gursel kết luận: “Tôi nghĩ
rằng, lưu vong theo nghĩa rộng, là một trong những định mệnh khả hữu cho nhà văn
thời chúng ta”
(10).

Mặc cảm này, một mặc cảm đương nhiên, không có gì phải
giấu giếm hay xấu hổ cả, có mặt ở hầu hết các nhà thơ dân tộc thiểu số viết
bằng tiếng Việt. Mặc cảm/nỗ lực khiến lục bát của Lương Định đạt đến độ tinh
xảo, nó khiến các bài thơ “tự do” của Y Phương nhuần nhuyễn đến tài hoa, thơ
dân tộc của Lò Ngân Sủn đậm chất dân tộc hơn nữa. Là hay, khi được nhìn từ phía
tích cực; nhưng cái hay đó sẽ hay hơn nếu chúng ta biết từ cấu trúc ngôn ngữ,
lối suy nghĩ, lối nói đặc thù dân tộc để quay nhìn lại đầy ý thức nghệ thuật
chặng đường sáng tác đã qua của chúng ta. Chỉ vậy thôi các nhà thơ dân tộc
thiểu số hôm nay mới dễ dàng nhận mặt cái sáo mòn đã có và luôn phục sẵn ở
những trang thơ sắp tới của mình. Nhận mặt, để
tránh.

Nói như nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc, nếu một kĩ sư
học một kĩ thuật nào đó là để làm theo: rập khuôn, cải tiến và phát triển thì
ngược lại, nhà thơ học là để tránh. Tránh triệt để. Là điều kiện tối cần trong
hành trình sáng tạo.

Vấn đề ngôn ngữ
thơ

Chọn tiếng-không phải mẹ đẻ để sáng tác, các nhà thơ
dân tộc thiểu số đụng phải một vấn đề hóc búa: bản thân ngôn ngữ. Bởi nghệ thuật
thơ chủ yếu là nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Chúng ta buộc phải suy tư qua sơ đồ
làm sẵn của một lối nghĩ khác lạ: tiếng Việt. Một lối mòn hay đại lộ thênh thang
mở ra trước mắt ta. Thiếu ý thức sử dụng ngôn từ, ta rơi ngay vào vực thẳm đào
sẵn (đại lộ chính là vực thẳm)! Đây là hệ quả tất yếu sinh ra từ vấn đề vừa
nêu.

Thử lần theo bước nhà thơ Lương Định để tìm ra vực thẳm
này.

Đi vào thơ Lương Định tôi có cảm giác như bước vào bảo
tàng, bảo tàng chữ. Của hai thế kỉ và vài thế hệ. Xen kẽ và không thứ lớp. Anh
dẫn chúng ta từ cuối thế kỉ XIX, với:
Chí đời trai, lạc bước phong trần, câu thơ nghĩa khí,
nợ tang bồng, rượu thề, duyên trời xe, vụng tu thân chuốc lụy phiền, kẻ giang
hồ, tri âm, tri kỉ, bạn tâm giao, oan khiên, nỗi oan nghiệp chướng, phẫn chí,
một kiếp nhân sinh, thế cô lập nghiệp, tay trắng, đãi bôi, má hồng, phận hồng
nhan, trời xanh, câu thơ lời thề, hảo hán, giải oan, một khối
oan…

Bước sang “hiện vật” của đầu thế kỉ XX được trưng bày,
với:
Câu
thơ Sám – Hối, duyên tiền định, Cõi – Mộng – Du, lỗi hẹn, chót đa mang, bơ vơ
đất khách, bến xưa, xuân thì, một trời mộng ước, lỡ một thời con gái, trăng nằm
sóng soải, bầm vầng trăng rỏ máu, rung nhẹ cung
đàn…

Đến tận gian hàng chữ của miền Nam những năm 60 rớt
lại:

đơn, trắc trở, day dứt, bon chen phố thị, tiếc nuối, Cõi Thiền, tỉnh say, đời
cay nghiệt, con sáo xổ lồng, sang ngang phận bẽ bàng, xót xa, Cát Bụi thời gian,
phôi phai, hao gầy, vò võ nỗi niềm, tê tái nỗi buồn, ván đã đóng
thuyền…

Bao nhiêu là hiện vật của mấy thế hệ chen chúc trong ba
nhà trưng bày
(11). Tôi cảm thấy bị lạc. Lạc và ngợp. Vui vẻ mà ngợp
trong hai căn phòng nhỏ bé này. Bởi các hiện vật kia được Lương Định bày biện
rất nhiệt tình và thành thật một cách cảm
động.

Có thể nói, Lương Định là nhà thơ dân tộc thiểu số cố ý
làm thơ giống người Kinh nhất! Khi
tuyên ngôn:

                        Cha không thích những bài ca xưa

                        Nghe họa mi hót mãi cũng
nhàm
              

Tôi không hiểu Lương Định có ý thức đầy đủ sức nặng ý
nghĩa của nó không. Bởi, thơ muốn không xưa cũ (chưa nói là hiện đại hay hậu
hiện đại), nó phải thể nghiệm thể mới, lối viết mới, nhịp điệu mới, ngôn từ
mới. Riêng yêu cầu về hình thức thôi, chúng ta chưa thấy Lương Định có thử
nghiệm. Ba mươi chín bài trong tập thơ thứ hai của anh: Núi
và hòn đá lẻ
, thể thơ 5, 7 và 8 chữ chiếm đến mười hai bài, mười một bài lục
bát và mười sáu bài có câu ngắn/dài. Nghĩa là thể thơ cũ chiếm thế áp đảo. Ngay
mười sáu bài có cấu trúc câu ngắn/dài này, chúng cứ vần vè êm
tai.

Vần và thể cũ không phải là không thể hiện đại, nếu nhà
thơ có lối viết, ngôn từ, nhịp điệu hiện đại. Nhất là nhịp điệu (rhythm). Bởi,
nói như Charles Hartman: “Nhịp điệu đóng góp toàn bộ ý nghĩa của bài thơ, và
phép làm thơ là chuyển nó trở thành ý nghĩa”
(12).

Đọc lục bát “Chia” của Nguyễn Trọng
Tạo
(13):

                        Chia
cho em một đời tôi

                        một cay
đắng

                                                một niềm
vui

                                                                        một
buồn

                        tôi còn cái xác không
hồn

                        cái chai không rượu tôi còn vỏ
chai…


Chúng ta nói nó hiện đại. Bởi nó mới ở xếp đặt ngôn từ
(“một cay đắng”…), bất ngờ ở lối nói (câu cuối), và trên hết là nhịp điệu (bằng
ngắt câu và vắt dòng). Nhịp điệu này làm trào vọt năng lực thể hiện tinh thần
được tạo nên qua tiến trình sáng tạo của nhà thơ. Còn ở lục bát “Rượu tha hương”
(anh tương đối thành công ở thể cổ điển này) của Lương Định, thì rõ ràng nó
không mới.

                        Tha
hương giữa chốn quê nhà

                        Nửa đời nhìn lại, ngỡ là chiêm
bao

                        Láng giềng đâu bạn tâm
giao?

                        Thế cô lập nghiệp lao đao nẻo
đời…

                        Tha hương rượu uống mềm
môi

                        Ruột gan đau đáu nói, cười vu

                        Núi non – cõi nhớ – mịt
mờ

                        Bẽ bàng phận kẻ giang hồ rượu
suông.

Không nói đến nhịp điệu hay tứ thơ sáo mòn, chỉ cần bẽ bàng, thế cô lập nghiệp, mềm môi
thôi cũng đủ “làm cũ” bài thơ rồi. Các từ này ở ngoài/ nằm đằng sau tầm mong đợi
(horizon of expectations) của người đọc thời hiện đại. Với con người thưởng
ngoạn văn chương hôm nay, chí trai, nợ
tang bồng, câu thơ nghĩa khí
đã mất hết sức nặng ý nghĩa như nó vốn có ở thế
kỉ XIX. Một ít chúng đang rất lạc lõng, ngơ ngác trên đường phố hiện đại Sài
Gòn. Còn hầu hết chúng đã chết và được nhập kho từ vựng Việt hôm
qua.

Dù, nhà thơ là kẻ ý thức sâu sắc nhất hành động sử dụng
ngôn ngữ của mình, không ai dại dột đòi hỏi họ cắt đứt một lần cho tiệt đuôi tàn
quân chữ cũ rơi rớt lại. Không lấy ví dụ đâu xa, ngay bản thân tôi cũng phạm húy
khá nhiều ở tập thơ đầu tay: Tháp
nắng
. Trong các bài thơ được viết từ cuối thập niên bảy mươi đầu thập niên
tám mươi, người đọc tinh ý dễ dàng nhận mặt những: nắng
quái, sầu viễn miên, tàn tạ, buồn hồ hải, miên trường, quan san, phiến, tao
phùng, hoài nhớ…
được sinh hạ từ đâu ở thế kỉ
này.

Vài rủi ro nghề nghiệp, người đọc bỏ qua được. Nhưng
nếu chúng trở thành các dụng ngữ chủ yếu của một nhà thơ thì – hỏng! Tôi không
tin lắm một tài năng thơ nào đó một ngày kia có thể tắm gội, làm mới vốn chữ
thời thượng (cũ) trong bảo tàng chữ chúng ta vừa nêu ở trên. May lắm, bằng khéo
léo xếp đặt, vài hiện vật trong chúng nhấp nháy lên đôi chút. Còn thì, hiệu quả
thơ chắc chắn sẽ rất kém.

Nhưng trong thời đại ngày nay, làm sao có thể sáng tạo
ra cái mới? Nêu câu hỏi này, chúng ta hiểu được vì sao, bên cạnh sự châm biếm
(irony), phỏng nhại (pastiche) là một thủ pháp nghệ thuật chủ yếu của các nhà
hậu hiện đại.

Về phong cách tác phẩm  

Văn chương tiếng Việt cổ điển – ngoài đại bộ phận ca
dao và vài cá nhân độc sáng ở một vài tác phẩm độc đáo – đa phần là các sáng
tác mang nặng ước lệ vay mượn. Từ ngôn từ, điển tích, cốt truyện cho đến thể
thơ, cách nhìn, cách thể hiện. Chỉ khi các tài năng thơ lớn như Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương xuất hiện, các ước lệ vay mượn (từ Trung Quốc) mới
được dần dần từ bỏ, sau đó bị phong trào Thơ Mới cắt đuôi gần hết. Rồi Thơ Mới
lại tạo ra một ước lệ khác. Và…

Sáng tác bằng tiếng Việt, các nhà thơ dân tộc thiểu số
dễ có nguy cơ rơi vào các ước lệ cũ kĩ kia. Đã không ít người sập bẫy. Thế nhưng
chúng ta, bởi bản năng sáng tạo cấu thành qua văn học dân gian của dân tộc, biết
chắt lọc từ đó nguồn suối tinh khiết, đã hiến tặng cho thơ tiếng Việt những
giọng thơ độc đáo, khác lạ!

Người đẹp
của Lò Ngân Sủn hoàn toàn khác mọi người đẹp trên thế giới mà ta thường thấy.
Mới, lạ và rất… đẹp.

            Người
đẹp trông như tuyết

            Chạm vào lại thấy
nóng

            Người đẹp trông như
lửa

            Sờ
vào lại thấy mát

            Người không khát – nhìn thấy người
đẹp cũng khát

            Người không đói – nhìn thấy người
đẹp cũng đói

            Người muốn chết – gặp người đẹp lại
không muốn chết nữa
.(14)

Ngoại trừ “tuyết” ở câu đầu (mà tôi cứ nơm nớp nhà thơ
dân tộc này sẽ vấp ngã), còn lại là cách nhìn khác, với lối xử lí tình huống
nghệ thuật khác. Toàn triệt. Từ đó có ví von khác, sử dụng ngôn từ khác. Khác
và bất ngờ.

            Hai
ta yêu nhau giữa lều nương

            lều nương không phên
vách

            ta cởi áo làm phên
vách.
   


            Hai ta yêu nhau giữa lều
ruộng

            lều ruộng không chăn
chiếu

            ta cởi áo làm chăn
chiếu

Thử đọc thêm bài thơ ngắn của Y
Phương:

            Mùa
hoa

Mùa
đàn bà

Mặt đỏ
phừng

Thừa
sức vác ông chồng

Chạy
phăm phăm lên núi.
 


Mùa
hoa

Mùa
đàn ông

Mệt
như chiếc áo rũ

Vừa
vịn rào vừa đi vừa ngủ
.(15)

Cảnh vật, sự kiện hay ý tưởng cũ luôn được cái nhìn của
Lò Ngân Sủn, Y Phương tắm gội, làm mới như là lần đầu tiên nó được nhìn thấy,
nói đến. Bằng thứ ngôn ngữ giản đơn đến tinh ròng. Cách nhìn tươi non, lối nói
thuần phác này được nhà thơ Lò Ngân Sủn và,… tiếp nhận từ ca dao, dân ca các dân
tộc. Theo tôi còn hơn thế, bản năng thơ đã tiếp sức cho họ. Bởi ngay cả khi “đi
tỉnh” và ở thành đến mươi năm, Lò Ngân Sủn, Y Phương vẫn giữ được cái nhìn thơ
trẻ cũ.

Nói thế không phải là phố thị đã không làm “hư” các
anh. Nhất là giữa môi trường báo chí tạp pí lù. Báo nào cũng đăng thơ, từ báo
tài chính đến chuyên san văn chương, từ báo cấp huyện đến tạp chí cấp Trung
ương.
Hãy
nghĩ đến các vụ thơ ăn theo báo tết, được khối nhà thơ ta cảm tác từ mùa hè năm
ngoái! Bất kể chất lượng ra sao, ưu tiên đi bài luôn dành cho thơ của nhà
thơ-quan thơ hay nhà thơ-nhà báo cánh hẩu
.
Thị trường chữ nghĩa ấy, kẻ sáng tác cơ hội hay nhà thơ yếu bóng vía không sa
ngã mới là chuyện lạ! Ở đó, không ít lần “thơ đồng phục dân tộc” đầy dễ dãi của
Dương Thuấn, Lò Ngân Sủn chen chân, có mặt.

Chỉ có hành động về nguồn như là về nguồn hay thái độ
chuyên nghiệp mới khả năng cứu vớt linh hồn [và thơ ca] chúng
ta.

Có thể ví văn học Việt Nam như thân cây có năm rễ. Rễ
chồi đâm sâu vào lòng đất, bao gồm toàn bộ sáng tác dân gian của các dân tộc.
Bốn rễ phụ bò ra bốn hướng rút tỉa tinh chất từ những vùng đất lạ. Nhánh vươn
ra phía Bắc nhận ảnh hưởng của văn học Trung Quốc (văn chương bác học của người
Việt từ đầu thế kỉ XX trở về trước), nhánh vói qua phía Tây hút dưỡng chất từ
văn học phương Tây (một bộ phận lớn của văn chương Việt Nam tiền chiến), nhánh
bò lan vào nhiều khu đất mầu mỡ của sáng tác thành văn của các dân tộc, các
nhánh còn lại đâm xuống phương Nam nhận nhựa sống từ văn học Ấn  Độ xa xôi (mà văn chương cổ điển Champa là đại
diện).

Cây văn học Việt Nam hôm qua được cắm trên nền đất phì
nhiêu mà nếu chịu cày xới và Cham bón thì nó sẽ cho hoa quả ngọt ngào không
thua kém nền văn học đất nước nào bất kì. Nhưng mãi đến hôm nay, vài mảnh đất
chưa được làm tơi xốp nên vẫn còn nhánh rễ còi cọc và đang có nguy cơ bị thui
chột trong lòng đất đen.

Nhất là văn học dân gian của các dân tộc thiểu
số.

Ai là kẻ có Đỗ Thị Tấc nhà thơ nữ dân tộc Kinh sinh
sống vùng dân tộc, cũng đã biết tới bút pháp dân gian ấy. Thơ Đỗ Thị Tấc rất ít
bài có vần, bù lại: điệp. Luôn luôn điệp. Điệp âm, điệp từ, điệp cụm từ, điệp
liền, điệp cách dòng, cả điệp trong một câu…Thơ ca dân gian chủ yếu được tiếp
nhận qua truyền khẩu, nên muốn dễ thuộc lòng, ngôn từ phải giản đơn dễ hiểu,
nhịp thơ đều đặn dễ ngấm, và… điệp. Thử đọc một đoạn ca dao
Cham:

      Kabaw hwa lingal gan
ar

      O yaum di tian ahauw
kabaw

      Kabaw hwa lingal gan crauh

      O yaum sa bauh ahauw
kabaw.

      Trâu kéo cày qua
bờ

      Chẳng buồn lòng “họ” trâu dừng
lại

      Trâu kéo cày qua
suối

      Chẳng buồn nói một tiếng “họ”
trâu
.(16)

Hai đoạn thơ, nhưng chỉ có ba từ khác
nhau!

Nhìn ra bên ngoài, Pháp chẳng hạn, một nhà thơ đại
chúng của Pháp nửa đầu thế kỉ XX là Jacques Prévert. Thơ ông được nhiều nhạc sĩ
phổ nhạc và truyền bá rộng rãi. Bài“Déjeuner du matin”
(Điểm tâm sáng)
(17)
một ví dụ. Ông liệt kê tuần tự các thao tác hầu như khá nhảm, và tầm thường đến
nhàm chán: “Hắn bỏ cà phê / Vào tách / Hắn rót sữa / Vào tách cà phê / Hắn bỏ
đường / Vào cà phê sữa / …Hắn đốt điếu thuốc / Hắn thổi ra những khoanh tròn /
Không nói với tôi / Không nhìn tôi /… Và hắn đội mũ / Đi / Dưới cơn mưa /…”.
Nhưng chính đoạn cuối đã biến các liệt kê ấy thành thơ, một bài thơ hay: “Không
một lời / Không nhìn tôi / Và tôi / Hai tay bưng lấy đầu / Và tôi khóc”. J.
Prévert  đẩy người đọc đối mặt với
cái vô tình đến trơ lì của cảm quan con người hiện đại, với xung quanh và nhất
là, với tha nhân.

Nó khác hẳn thi pháp của thơ hiện đại. Raymond Carver
với “Fear” (Sợ), cũng dùng thủ pháp liệt kê tương tự, nhưng mỗi câu thơ với một
thi ảnh lạ biệt đã tạo cho người đọc các cảm xúc khác nhau. Mỗi câu có thể đứng
tách khỏi các câu khác mà rất ít bị ảnh hưởng đến giá trị của
mình:

Sợ
thấy xe cảnh sát rẽ vào ngõ nhà mình

Sự
thiếp ngủ trong đêm

Sợ
không ngủ được

Sợ quá
khứ trỗi dậy

Sự
hiện tại biến mất

Sợ
điện thoại réo lúc nửa đêm

[…] Sợ phải nhận
xác một người bạn

 Sợ
hết tiền

Sợ dư
dả, dù chẳng ai tin…

Sợ
những vẻ mặt trầm cảm

Sợ đến
muộn và sợ đến sớm hơn mọi người

Sợ nét
chữ các con trên bao thư

Sợ
chúng sẽ chết trước mình, và mình sẽ thấy có lỗi
(18)

Ở bài “Trầu say”, chúng ta bắt gặp hai dạng điệp, điệp
liền dòng (từ và cụm từ):

      Mẹ không gặt con trên cánh đồng tình
yêu

      Mẹ không gặt con trên cánh đồng hoan
lạc

      Mẹ không gặt con trên cánh đồng
Người…


      Bỏ lại hàng cau

      Bỏ lại giàn trầu

      Bỏ lại bình vôi…(19)


Điệp cách dòng

      Lời ru bay lên

      Ngọn tre làng cong ngàn dấu
hỏi

      Lời ru run lên

      Nghê đá đình làng nhe răng không
nói

      Lời ru ra cánh
đồng

      Lúa ngậm đòng hết thì con
gái…

Tôi nghĩ, với lối điệp như thế, người ít chữ nghe qua
vài lần là đủ thuộc. Có khi hứng lên, Đỗ Thị Tấc điệp luôn từng cặp
một:

      Mài đá giữa nhà làm
bàn

      Mài đá trước sân phơi
hạt

      Cây lúa, cây rau vươn lên từ nách
đá

      Cây ngô, cây kê mọc lên từ kẽ chân của
đá

      Những tiếng cựa quậy làm nên sự
sống

      Những tiếng động của sự
chết…

Đặc điểm thứ hai của thi pháp dân gian là lối sử dụng
ngôn từ giản đơn, những hình ảnh cụ thể gần gũi với sinh hoạt hàng ngày. Ở đây
nữa, Đỗ Thị Tấc khá đạt chuẩn. Đến nỗi chúng ta nghĩ đó là nói chứ không thơ gì
cả, vậy mà nó cứ thơ:

      Sữa người trắng

                              Sữa đá
trong…


      Về đi em

      Cho đầu anh gối
tóc

      Cho tay anh gối
đầu

      Mình như ngọc đôi chẳng rời
nhau

Lạ quá: sao giống hệt cái tứ/từ của một bài ca dao Cham
thế? Dù đã trích dẫn hơi nhiều, nhưng tôi không thể không dẫn
thêm:

      Về đi em cho đùi
gác

      Hai tay em ấp, em xức dầu
thơ

      Tóc anh bù rối như
rơm

      Tay em vuốt sẽ mượt hơn lượt là(16)          

Thi pháp dân gian-dân tộc-Đỗ Thị Tấc gần với lối nghĩ
dân dã là thế.

Một điểm nữa cần nêu là, trong lúc thơ hiện đại, bởi
cấu trúc đứt quãng, phân mảnh, đồng hiện, nên trong mỗi bài/tập, người đọc có
thể đọc bất kì đâu nếu thích, không cần theo trật tự từ đầu đến cuối “câu
chuyện” thì, thơ sáng tác theo thi pháp dân gian, ở đây là Lò Ngân Sủn, Đỗ Thị
Tấc ngược lại. Nó đòi hỏi lối đọc tuyến tính, theo dõi trên xuống; kịch tính dồn
dần về đoạn dưới để bùng vỡ nơi đoạn/câu cuối cùng.

Tư tưởng gặp nhau, cấu trúc ngôn ngữ thơ giống nhau,
phong cách sáng tạo trùng lặp không là chuyện hiếm giữa các dân tộc, các tác
gia, các thế hệ ít/không có quan hệ lịch sử gì với nhau. Chẳng ngạc nhiên, khi
Lò Ngân Sủn của dân tộc Dáy – Việt Nam dễ tìm gặp giọng thơ đồng thanh đồng khí
với J. Prévert tận nước Pháp xa xôi. Nhà thơ dân dã nổi tiếng ở nửa đầu thế kỉ
XX có một mảng sáng tác bằng thứ bút pháp tôi tạm gọi là “bút pháp liệt kê”. Ở
đây tôi không có ý so sánh Lò Ngân Sủn, Đỗ Thị Tấc với J. Prévert, càng không
muốn chọn bài chưa hay của anh đặt bên cạnh một sáng tác đạt chuẩn cao của nhà
thơ Pháp tài hoa, cũng như nội dung đề tài lớn/nhỏ của hai bài thơ ngẫu nhiên
bắt gặp để phân định cao/thấp.
 

Cái tôi muốn nhấn mạnh chính là phong
cách.

Đây là thứ thi pháp thuần dân gian: dàn trải và đẩy
đưa. Lò Ngân Sủn và,… tiếp nhận và thổi hồn vào nó để làm thành phong cách của
riêng mình. Nổi trội và không thể lẫn.

Nhưng tại sao mãi bám cứng vào nó? Một, hai tập thì
được, lạm dụng – nó dễ gây cho người đọc rằng tác giả đang “triển khai một khuôn
sáo rỗng” trên nền tảng “thế giới quan bằng phẳng, nông cạn và giả
mạo”
(20).
Trong khi tinh thần mới của thơ hiện đại đòi hỏi nhận thức mới về thực tại. Độ
dồn nén của cảm xúc, sức bùng vỡ của tư tưởng, hàm ngôn và cô đọng của ngôn từ
khiến thơ có khoảng vượt táo bạo khỏi không-thời gian, đưa hình ảnh, ý tưởng khá
xa lạ đồng hiện hay vụt sáng bất ngờ trên từng câu thơ, hai câu thơ cạnh nhau,
một khổ thơ chứ không còn chịu tuân thủ trật tự thứ lớp rù
rì.

Và ngay cả khi anh đã bắt gặp cái giọng lạ biệt đến đâu
đi nữa, tại sao không dám chối bỏ nó? Trong lúc yêu cầu của thơ hiện đại là nhà
thơ phải học biết từ chối đi mãi con đường mòn. Của người khác và của chính
mình. Như là một thách thức không ngơi nghỉ của ý chí sáng tạo: luôn vượt bỏ
mình.

Vấn đề mĩ học truyền
thống

Vậy đó, chúng ta đã lặn sâu vào dòng sông văn học dân
tộc để lẩy ra tinh túy của nó, biết học tập tiếng Việt để làm thơ như
người Kinh
, và bằng tài hoa cùng lao động nghệ thuật của mình, chúng ta đã
cống hiến bao tác phẩm hay, đẹp vào nền văn học đa dân tộc Việt Nam. Nhưng chúng
ta vẫn cứ ở lại đó, an tọa và… hơi thỏa mãn. Chúng ta chưa thử dấn bước mạo hiểm
hơn, khai phá các vùng thẩm mĩ mới hay, lặn sâu hơn nữa vào cuộc sống hiện đại,
cuộc sống thực đang xảy ra xung quanh ta.

Tâm lí chung hay khuynh hướng vuốt ve kỉ niệm, tô hồng
quá khứ, định kiến cái đã qua là đẹp, tốt. “Thời trước làm quan cũng thế a!”
(Nguyễn Khuyến). Bên cạnh, xem những gì thuộc về đồng quê là thơ, mộng. Thời Thơ
Mới, qua đổi mới cho đến những năm đầu thiên niên kỉ thứ ba Công nguyên. Tâm hồn
chúng ta được nuôi nấng bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến rồi Xuân Diệu,
Nguyễn Bính, “Hôm qua em đi tỉnh về / Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”. Cả
sáng tác của các nhà thơ thế kỉ XXI cũng dính đầy “chất thơ” của các bậc tiền
bối. Dường như mỗi phát sáng là một phát sáng may mắn, mỗi sáng tạo chỉ là những
tai nạn hay rủi ro. Một va quẹt ngẫu nhiên, có thể nói
thế.

Tôi, anh không khác.

Thơ
tôi viết giữa chan hòa ánh điện

vọng
hương vườn ngai ngái ánh trăng in
(21).

Người làm thơ bị mắc kẹt giữa hai làn sáng tối: ánh
điện và ánh trăng. Đang giữa ánh điện rực sáng muôn vẻ muôn màu, không phải là
không đẹp, không thích mắt, nhưng chỉ có ánh trăng mới tràn đầy thi tính, mới
nên thơ. (“không còn ánh trăng ngà
cho thi sĩ làm thơ” – thơ Nguyễn Trọng Tạo).
Tà áo dài thì nên thơ, còn
váy ngắn: không. Cũng thế: tóc dài/tóc ngắn, thanh bạch bần hàn/giàu sang phong
phú, yên tĩnh/sôi động, cảm xúc/lí trí. Thơ thì phải “nên thơ”, thế thôi. Nghĩa
là nó muốn thoát khỏi sự can thiệp của lí trí, của học tập trui luyện mang tính
kĩ thuật. Nó chối bỏ sự nặng nhọc của khổ luyện (phong thái thi nhân xuất khẩu
thành thơ gây hứng thú cho chúng ta hơn hình ảnh họ cặm cụi “nhị cú tam niên
đắc”), tránh xa việc đặt vấn đề tư tưởng hay xã hội hóc búa, thậm chí nó cũng
thiếu mặn mà trong tìm tòi cách thể hiện mình mới, lạ
hơn.

Đó là thói quen thơ của chúng ta, hình thành thuở chúng
ta còn ngồi ghế trung học; thói quen bị khuôn định bằng truyền thống không sẵn
sàng cho động thái tác thi chuyên nghiệp. Thơ là thế, như thế mới gọi là thơ,
mới nên thơ.

Mà chỉ có Việt Nam thôi đâu! Thử xem Roland Barthes
nhìn thi ca Tây phương: “Vào các thời cổ điển, “có chất thơ” không hề hàm ý một
tầm rộng, một chiều dày đặc biệt nào, một tình cảm, một mối liên kết, một thế
giới riêng tư nào cả, mà chỉ là chuyển điệu một kĩ thuật ngôn từ, kĩ thuật “biểu
đạt” theo những quy tắc đẹp đẽ hơn, (…) phát ra một lời nói được xã hội hóa do
tính quy ước hiển nhiên của nó”
(22). Thế
nhưng ở ngoài kia, tính quy ước hiển nhiên ấy bị các nhà thơ hiện đại Tây phương
vượt bỏ từ lâu rồi.

Còn Việt Nam hôm nay, dù đã làm người phố thị vài chục
năm, tâm hồn chúng ta cũng đã phố thị rồi nhưng, thi tứ chúng ta cứ vướng bận
không khí miền quê; các nhà thơ vô tư mang không khí ấy vào thơ, không vấn đề
gì cả! Có thể nói, phần đông nhà thơ Việt đương đại như thế, cả già lẫn trẻ, dân
tộc số đông lẫn dân tộc thiểu số. Thử đọc qua bài thơ “Người ấy” của Vương
Trọng.

Ràng
buộc cuối cùng với làng

Ngôi
nhà và mảnh vườn

Cần
chi nhờ người trông nom

Bán
quách đi, ta là dân thành phố.
 


Người
ấy bước đi hăm hở

Phía
trước là công ti

Là hợp
đồng, tiệc tùng

Ai cần
chi

Một
mái nhà gianh

Một
mảnh vườn tre gai và dứa dại…
 


Hơn
hai chục năm sau trở lại

Tóc
bạc gió thổi

Người
ấy đứng chôn chân trước ngõ nhà xưa (…)
 


Không
có quyền bước qua cánh đồng

Người
ấy đứng lẩm bẩm:

– Ta
vô tình đã bán mất quê hương!
(23)

Sự hướng vọng miền quê, “trốn lo âu tìm lại cánh đồng”
của Nguyễn Quang Thiều là để giải quyết vấn đề triết lí, phục vụ hệ mĩ học mới
qua thi pháp mới. Còn ở đây, một tâm thế bảo thủ mang tính xã hội (xin lưu ý:
tôi đang bàn về bài thơ của Vương Trọng qua đối sánh với thơ dân tộc thiểu số,
chứ không phải về tư tưởng/con người Vương Trọng): xem vườn tre, mái nhà gianh,
mảnh vườn là bản sắc, thậm chí nâng cấp chúng thành “quê
hương”
(24).
Bảo thủ, ta đóng cửa lại trước thay đổi. Ở Việt Nam, người nông thôn rời bỏ cái
cuốc cái cày, đã và đang tràn vào thành phố, góp phần làm thay đổi bộ mặt đất
nước; trên thế giới, sự phát triển ồ ạt của mạng thông tin toàn cầu biến thế
giới thành một làng: làng toàn cầu. Đóng cửa, ta đẩy tư duy dấn thêm một bước
rất lệch lạc: từ bỏ mảnh vườn, ao nhà là “bán quê hương”! Làm như thế giới mãi
đứng yên một chỗ. Làm như xã hội Việt Nam chưa hề nhúc nhích, hơn hai thập kỉ
qua.

Có thể đó là suy nghĩ thật của một nhà thơ thuộc thế hệ
đi trước, sinh ra và lớn lên ở miền quê, cuộc sống nông thôn Việt Nam làm nên
tâm thức họ, quy định tâm hồn họ, đóng khung thi tứ họ, không thể thay đổi. Tâm
lí hoài niệm quá khứ không là chuyện lạ; càng không lạ khi qua đó, hình thành
dòng thơ hoài niệm, đôi khi – xuất phát từ mặc cảm – nó chỉ là một hoài niệm giả
tạo. Chúng ta không trách, bởi không thể đòi hỏi hơn. Bà Huyện Thanh Quan, rồi
cả [một phần] Nguyễn Du nữa chẳng đã từng được xem là đại biểu cho dòng thơ hoài
niệm là gì? Nhưng, hôm nay, khi văn minh hiện đại đã xé môi trường nông thôn nát
ra từng mảnh; nhà máy, nhà hàng, trường tư thục, tòa soạn báo chí mọc lên khắp
nơi như thứ vòi rồng cuốn hút thanh niên nông thôn rớt vào vòng xoáy của nó. Họ
tự nguyện hay bị đẩy vào môi trường khác hẳn môi trường ông cha họ từng sống,
tiếp nhận nền văn hóa khác xa nền văn hóa truyền thống, học tập, làm việc và
ăn-chơi khác, đối mặt với những vấn đề khác với những gì ông cha họ từng đối
mặt; từ đó lối nghĩ, lối sống của lớp người mới cũng khác hẳn. Trong lớp người
mới kia, không ít kẻ theo nghề cầm bút. Chúng ta hòa nhập vào dòng chảy đời sống
thị thành, vui vẻ thụ hưởng các thành tựu nó mang lại cùng lúc chịu đựng khổ ải
mới nó vừa đẻ ra. Không vấn đề gì cả. Thế  nhưng, khi làm thơ, các thi sĩ thuộc thế hệ mới ấy vẫn cứ cánh đồng, lưỡi
cày với mùi rơm rạ mà ru nhau. Thế mới lạ!

Tại sao?

Đây là câu hỏi nền tảng mang tính mĩ học của thơ hôm
nay. Giữa bề bộn, sôi động của cuộc sống hiện đại, thơ chúng ta mãi vướng kẹt ở
quê. “Lời nói được xã hội hóa do tính quy ước hiển nhiên” quy định lối suy nghĩ
của chúng ta, điều kiện hóa lối viết và lối thưởng thức thơ của chúng ta. Và,
như tự đánh lừa, bởi không hiếm thi sĩ hiểu/thấy đằng trước, đằng sau và xung
quanh rằng, đất nước đang thay đổi, thế giới đang thay đổi và, thi ca đang
chuyển động nhanh và mạnh, nhưng ta cứ tiếp tục để cho bị vướng kẹt. Vuốt ve sự
vướng kẹt! Chỉ khi ý thức sâu thẳm, nỗ lực vượt thoát không ngưng nghỉ, nhà thơ
hôm nay mới hi vọng đưa thơ đi chệch khỏi đường ray hệ thẩm mĩ cũ kĩ.

Nói câu hỏi nằm khép mình trong bài “Viết trước lúc xa
quê
”(25)
của Mai Liễu là câu hỏi lạc thời: “Ta đâu biết em tìm gì trên phố?” là như
thế.

Tinh thần (hay tư duy) của nó vẫn còn vướng kẹt. Ở quê.
Đó là một thành kiến khác mà chúng ta – nhà thơ hôm nay, không loại trừ tôi –
vẫn còn chưa dứt ra được. Có lẽ chúng ta, nói như Nguyễn Duy, chưa dám vứt bỏ
cái đẹp rất nên thơ như dáng đòn gánh tạo hình vào trời chiều quê
hương!

Đẹp lắm bóng thiếu nữ Cham ngồi dưới ánh đèn dầu đưa
thoi từng sợi tơ dệt tấm thổ cẩm. Nhưng người dân Caklaing đang cần rất nhiều
thợ dệt lành nghề, nhà tạo mẫu giỏi, kẻ nghiên cứu cải tiến khung dệt, và trên
hết – con người có khả năng tổ chức để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng
suất lao động hầu đưa thổ cẩm ra ngoài thị trường lớn hơn, từ đó thu nhập của
bà con cao hơn, đời sống đỡ khốn khó hơn.

Đẹp lắm dáng cô gái Bana gùi củi lội qua suối, vừa đi
vừa hát nhẹ dù lưng áo đang ướt đẫm mồ hôi; sáng mai gùi củi kia sẽ được mang
xuống chợ đổi lấy chục ngàn đồng bạc. Nhưng nét đẹp ấy cần phải mất đi càng sớm
càng tốt!

Đẹp lắm tiếng “khèn”, lời “then” trong những đêm lễ hội
dân gian ở vùng rừng núi dân tộc miền Tây Bắc. Nhưng sẽ đẹp hơn nhiều, nếu tiềm
năng văn nghệ kia được tổ chức, bồi dưỡng, nâng cao (miễn đừng phản bản sắc hay
giả bản sắc) để nó có thể mang niềm vui, vẻ đẹp nghệ thuật đến nhiều làng hơn
nữa, biểu diễn trên nhiều sân khấu của các thành phố lớn hơn nữa, và – tại sao
không? – chen vai thích cánh cùng hội, đoàn văn nghệ các nước trên thế
giới.

Vân vân….

Lối nhìn nhà quê bằng con mắt duy mĩ là thế. Trong lúc
nông thôn hôm nay đang chịu một biến động lớn làm rung chuyển và thay đổi tất
cả khía cạnh xã hội, nếp sống lẫn tâm thức con người. Nó đòi hỏi chúng ta có
cái nhìn “động”.

Từng đoàn cô gái quê bị bật khỏi làng mạc từng ôm ấp
họ, bị quăng ném vào thành phố. Cái gì đang chờ đợi họ ở ngoài kia? Vẫn còn
những lớp học ba ca, lớp học chạy lũ như là cái gai làm nhức nhối. Không thiếu
gia đình đồng bào còn cháo thay cơm. Mà dân tộc thiểu số luôn ở thế đáng “quan
tâm hơn nữa”.

Nhà thơ gắn bó sinh mệnh mình với nhân dân không chấp
nhận nghèo, cực, khổ muôn đời đeo dính đời sống bà con thân thuộc. Ví chúng ta
chưa đẩy lui được chúng thì cũng không nên đồng lõa với chúng. Đồng lõa bằng
quan niệm sáng tác – dù ý thức hay không – xuất phát từ mĩ học nông nghiệp đã
quá lạc thời.

Các mảnh vụn của thành quả sáng tác từ quan điểm thiếu
khuyết ấy lâu nay đã văng tràn vào thế giới giấc mơ của chúng ta. Của Lò Ngân
Sủn hay Dương Thuấn. Của Y Phương, Pờ Sảo Mìn hay Inrasara. Và cả giấc mơ của
Mai Liễu.

                       

            Giấc mơ lạc vào lâu đài cổ
tích

            … mang giấc mơ thời trai trẻ

            Lang thang đi
tìm

            Dáng
núi

            Nghìn xưa(25).

Đâu phải chỉ có mỗi Mai Liễu! Cái thâm tình của Y
Phương với tên làng của anh:

            Ơi
cái làng của mẹ sinh con

            Có ngôi nhà xây bằng đá
hộc

            Có con đường trâu bò vàng đen đi
kìn kịt

            Có niềm vui lúa chín tràn
trề…
                

                                                (Tên
làng
, 1993)

Nó thủy chung, sâu đậm và không thể chia cắt. Nó linh
thánh đến vượt khỏi phán xét của con mắt phàm trần. Ở Pờ Sảo Mìn, nó là “Cây
hai nghìn lá”. Còn Dương Thuấn “Đi tìm bóng núi” sẽ gặp “Con của núi” mang tên
Lò Ngân Sủn để nhấm nháp “Rượu núi” đặc sản quê hương cùng Lò Cao Nhum. Riêng
“Đứa con của đất” Inrasara mãi “Bập bềnh giữa ngữ ngôn hoang
đãng”
(26),
đắm hồn trong cõi miền nào đã vời xa.

Đó là những tình cảm xúc động và đẹp, những hoài niệm
đẹp. Đẹp thiêng liêng.

Nhưng ở đây tôi đang nói về sáng tác văn
chương.

Bài thơ “Nỗi buồn ứng trước” trong Sinh
nhật cây xương rồng
được sáng tác năm 1996, thời điểm tôi là dân Sài Gòn hơn
năm năm rồi. Thân xác tôi đã ăn cơm nhà thành phố, nhưng tâm hồn tôi vẫn còn
thèm đi vác tù và chốn quê.

Trong khi ngay mùa hè 1981, tôi từng tuyên ngôn khá to
tát:

Ơi
người thi sĩ có màu mắt rất đen và mái tóc rất
đen

Mãi
ngủ gục êm đềm dưới mốc bụi của hành lang thư
viện

Cẩn
trọng bơi trong dòng hiện sinh

Mắc
cạn bên này bờ – cuộc chiến.
 


Bao
giờ?

Chúng
ta trút gánh nặng xuống – lên đường

Con
đường băng qua buổi chiều những thời đại

                                                                                    (Inrasara, Tháp
nắng
)

Những tưởng người viết nó sẽ làm một bứt phá ghê gớm
lắm. Nhưng không. Khí quyển văn học đương thời, cả cái nhát gan của chàng tuổi
trẻ sắp làm người lớn, và nhất là thứ mĩ học nông nghiệp thâm căn trong tiềm
thức khiến kẻ ấy không dám từ bỏ một lần cho tất cả, không thể lột
xác.

Đây không phải là khuynh hướng hay cá tính sáng tạo mà
chính quan niệm sáng tác quy định sinh mệnh văn chương chúng ta. Lắm lúc – bằng
nhậy cảm của thi sĩ – chúng ta chợt thấy các trang sách của mình sao mà diệu
vợi, “xa rời quần chúng” quá, sao mà chúng đuối khi muốn bám “thực tế” quá,
nhưng chúng ta đã không đủ dũng mãnh bứt phá ra. Hơn thế, chúng ta tự thỏa mãn,
đồng lõa xem cái vướng kẹt như là bản sắc.

Nhưng thế nào là bản sắc? Bản sắc có phải quay nhìn lui
về quá khứ hay đi giật lùi về nguồn? Còn phải đi tới đâu mới gặp nguồn như là
nguồn? Hỏi ngôi tháp Chàm kia có bao nhiêu phần trăm là Ấn Độ, bao nhiêu là
Cham? Nó được người Ấn mang tới hay do một tay nghệ sĩ Cham nào đó nổi hứng
khênh về, không là vấn đề. Nhưng muốn được là tháp Chàm, người nghệ sĩ đã phá
nhiều, rất nhiều (tiếp thu sáng tạo – như hôm nay chúng ta dễ dãi nói thế).
Trong hành động phá này, vô thức (bản sắc cũ) và ý thức (tài năng nghệ sĩ) cùng
có mặt. Tài năng cá nhân càng lớn thì phần phá càng vượt trội. Một khi có đột
biến trong sáng tạo, chúng ta gọi đó là thiên
tài.

Như vậy, bản sắc chính/đa phần là cái gì đang chuyển
động hình thành chứ không/ít là cái đã đóng băng. Mà muốn làm nên bản sắc, con
người sáng tạo phải thật sự dũng cảm. Biết và dám khênh về đã là dũng cảm, dám
và biết phá càng dũng cảm trăm lần hơn.

Bởi mãi lo khư khư ôm lấy kho bản sắc (cũ), chúng ta đã
tự cách li và cô lập mình với xung quanh. Cho nên, mặc dù đã làm dân phố chợ mấy
chục năm rồi, các nhà thơ dân tộc thiểu số (và cả nhà thơ Việt xuất thân nông
thôn) vẫn còn dị ứng với các chất liệu ngôn ngữ của xã hội đô thị và công
nghiệp. Những: cột đèn, thương xá, xa
lộ, shop, nhà máy, xí nghiệp, nhà cao tầng, bar, cô thư kí, tờ ngân phiếu,
email, cà phê cóc
cứ không là gì cả với thi hứng chúng ta. Chưa một lần dời
gót đi vào thơ chúng ta. Hay nếu có, cũng bị chúng ta nhìn bằng con mắt phân
biệt đối xử. Như là mặt trái của xã hội. Và phản diện của cái đẹp. Trong lúc các
sự thể ấy đã có mặt ở nông thôn từ hơn chục năm rồi. Và không ít thứ đã là ước
mơ và hãnh diện của bà con nông dân.

Còn thi sĩ chúng ta cứ thư thả lẽo đẽo theo sau cái
đuôi của xã hội!

Nhưng tại sao cứ nhà quê mà không là thành phố? Cứ mộc
mạc thanh bần mà không là phức tạp phồn hoa? Một em bé bán báo đất Sài Gòn
quyết chịu cơ khổ dành dụm tiền gửi về quê nuôi em học không là tạo hình gây
xúc động? Hay một doanh nhân toan tính với con số lạnh lùng hi vọng một ngày
kia đạt giấc mơ triệu phú? Hoặc một kĩ sư đánh vật cùng bản vẽ mù mờ rối rắm
mong hình thành cái giàn máy dệt giản đơn hơn, hiệu quả hơn thứ máy cổ truyền
ngàn đời ì ạch?

Cả đất nước đang mơ giấc mơ dân giàu, nước mạnh. Chúng
ta cũng thế: về thành cho phỉ chí tang bồng. Con cái về thành học, làm việc và
ở lại. Giấc mơ thực của chúng ta là thế, chẳng những không nên mặc cảm mất gốc
mà còn khuyến khích, tăng cường. Nhưng tại sao giấc mơ thơ của chúng ta cứ làm
cái điều ngược lại? Không đủ bản lĩnh chăng? Hay sợ mất
vía?

            chốn thị thành

            Ai gọi vía cho
tôi
(thơ Mai
Liễu)


Tiếng thơ sau lí thuyết hay cái đẹp của thơ dân tộc
thiểu số

(Thay phần kết)

Thơ dân tộc thiểu số đang bế tắc. Nó sẽ đi về
đâu?

Có thể nói cách tân, làm mới luôn ám ảnh số đông người
làm thơ, hơn thập kỉ qua. Khi đất nước mở cửa và, khi thế hệ mới ý thức rằng
nền thơ Việt, sau gần nửa thế kỉ vẫn chưa thoát hẳn dư hưởng của thi pháp hiện
thực và nhất là, lãng mạn. Bên cạnh thành tựu sáng giá của thơ ca Cách mạng, nỗ
lực của nhóm Sáng Tạo hay Nhân văn – Giai phẩm đưa thơ phiêu lãng vào những chân
trời khác, do hoàn cảnh lịch sử đặc thù, nửa chừng bị dang dở. Từ đó thơ Việt
chuyển động ì ạch…

Mở cửa về chính trị – xã hội như là một lối thoát cho
thơ hôm nay.

Các nhà thơ trẻ háo hức nhìn ra thế giới bên ngoài
trong tâm thế sẵn sàng đón nhận mọi luồng gió mới. Hầu hết các trào lưu văn học
trên thế giới: từ tượng trưng đến thơ trương nở, từ trường ngôn ngữ Hoa Kì cho
tận tân hình thức,…được các nhà thơ xu hướng cách tân hối hả cập nhật, học tập
và vận dụng. Cả các bước đi nửa đường đứt gánh của thơ tự do Việt thập niên sáu
mươi cũng được tiếp nhận và tân trang lại. Thêm: văn hoá Internet và lưng vốn
ngoại ngữ mở đường cho chúng ta hội nhập văn chương thế giới dễ dàng hơn, nhanh
hơn. Đó là cái may mắn của thế hệ thơ thời đổi mới.

Thế nhưng, văn hoá là cái gì còn lại, sau quá trình
tiêu hóa tiệm tiến tri kiến thu nhận. Cuộc tiêu hóa đòi hỏi thời gian, nên
không thể một sớm một chiều mà thành. Nhất là với bộ môn nghệ thuật cao là thi
ca.

Cứ nhìn vào vùng vẫy không mệt mỏi của lớp nhà thơ này
và, nhìn vào các thành tựu của thơ trẻ vài năm qua, cũng rõ. Sau hưng phấn lẫn
choáng ngợp buổi đầu trước những đa dạng của cái mới, lạ, chúng ta lõm bõm bơi
giữa rối mù của bao nhiêu dòng trào lưu. Các tài năng thơ thế hệ mới lộ nguyên
hình nỗi lúng túng, quờ quạng trong thử nghiệm! Đã có dấu hiệu đuối ở một vài
người. Và kiệt sức sớm xảy đến, nếu chúng ta không tự thức tỉnh và, dừng lại.
Dừng lại để nhìn đầy ý thức chặng đường vừa qua, kiểm điểm lại hành trang, như
thể lấy hơi cho một cuộc ma-ra-tông thơ sắp tới – quyết liệt, cam go hơn, nhưng
cũng nhiều hứa hẹn hơn.

Giữa vòng xoáy trận đồ chủ nghĩa, bản thân tôi với tư
cách một nhà thơ ham tìm tòi, cũng có mặt, nhập vào dòng chảy ấy. Nói như Nguyễn
Hoàng Sơn: Inrasara là một trong những nhà thơ cách tân nhất hiện
nay
(27)
(Dĩ nhiên cách tân nhất chưa hẳn đã là hay nhất! Và tôi không đến nỗi dại dột
tin nghe nhận định của Nguyễn Hoàng Sơn là chân lí đinh đóng cho mình mắc hãnh
diện vào). Mười năm đeo đuổi cách tân, thử nghiệm, như bao bạn đồng hành khác,
hôm nay, tôi nghe đuối!

Lớn dậy từ văn hóa Champa, nền văn hóa hình thành sớm
và thành tựu khá lớn; được nuôi dưỡng bằng ngôn ngữ – văn chương Cham phát
triển; lớn lên, may mắn, tôi lại được tiếp nhận văn học phương Tây ngay khi còn
ngồi ghế trung học, nên các trào lưu văn chương tiền phong không xa lạ lắm với
tôi. Hệ quả: tôi khó giữ được cái thuần phác dân tộc, chân chất nhà quê như các
bạn thơ dân tộc thiểu số vốn có.

Như kẻ chợ đã quá oải cuộc sống hiện đại với lối kiến
trúc tạp nham nhếch nhác, ngột ngạt mùi khói xe, hàng ngày phải chứng kiến bao
nhiêu ô uế từ cơ man nhà máy thải vào môi trường thành phố muốn tìm tới không
khí tươi rói sót lại nơi miền quê yên tĩnh, hẽm núi trong lành. Cũng vậy,
choáng ngợp giữa ngôn ngữ thi ca đương đại ắp đầy ý tưởng với ẩn dụ, siêu thực
với tượng trưng, lắm lúc tôi thèm lối nói, lối nghĩ trong trẻo thuần phác của
người miền sâu vùng xa. Tìm đến sông Lu quê tôi, hay xa hơn – sông Năng của núi
rừng phương Bắc để, Hát với sông
Năng
, nói như Dương Thuấn, uống rượu núi cùng Lò Cao Nhum, đọc lại các nhà
thơ dân tộc thiểu số.

Ở đây ta tập nhìn sự vật như Dương Thuấn
nhìn:

Đường
Mã Pí Lèng dốc quanh co

Đá
cũng leo như đoàn người đầu bạc…

Mặt
trời chậm lên vừa leo vừa đợi…

Người
nào cũng có đôi bàn chân to
(28).

Lối quan sát gần, thực, với những liên tưởng rất cụ
thể, có thể tìm thấy rải rác khắp các tập thơ của nhà thơ dân tộc. Chính nó quá
gần, quá thực nên nó khá xa lạ với cảm nhận của thế giới thừa mứa ý tưởng, lí
thuyết hôm nay:

Rượu
không cạn bầu chưa trở về bản cũ

Gái
yêu chồng theo sau ngựa cầm đuôi…

Lên
Đồng Văn người nào cũng nhắc

Chọn
vợ chỉ chọn hai bắp chân

Để đi
nương khỏe đêm gác nằm
(28).                

Đấy là Dương Thuấn. Lò Ngân Sủn còn bất ngờ
hơn:

Ta lê bước về nhà

Mà hồn như còn ngủ ở thắt lưng
em

Hay:

Đi chợ
là đi mây về gió


ngựa đung đưa giữa rừng chiều

Đốt
cháy lòng nhau là nỗi nhớ

Đêm về
lại đi chợ trong m
ơ(14)

Thơ cần độ nén, cô đọng, độ sâu, tính hàm súc, đa nghĩa
và đa thanh. Đấy là ý hướng vươn tới của mọi nhà thơ “cũ” (nghĩa là hiện đại
trong đối sánh với hậu hiện đại), ý hướng đó trở nên khá lỗi thời trong mắt nhìn
của thi sĩ hôm nay. Bởi chính sự ham đa thanh đa nghĩa đã khiến cho thơ mơ hồ,
mơ hồ đến hàm hồ. Rất hàm hồ. Nó đòi hỏi sự diễn giải. Nhiều lúc diễn giải đẩy
thơ dấn bước lên con đường chông chênh nguy hiểm. “Diễn giải một tác phẩm có
nghĩa là nhặt ra một số yếu tố trong tác phẩm đó. Và như vậy công việc diễn giải
là làm chuyện diễn dịch”(29). Diễn dịch để đáp ứng đòi hỏi của độc giả thời đại,
nó dấn thân vào phiêu lưu vô cùng, làm lệch nghĩa tác phẩm, đôi khi hủy diệt tác
phẩm. Vậy mà mỗi diễn giải cứ khăng khăng rằng chính nó mới là đúng nhất, là
chân lí. Mới phiền!
 

Hãy nhìn xem các nhà phê bình đã ứng xử với A. Rimbaud,
với R. M. Rilke, với F. Kafka như thế nào cũng đủ biết. Gần chúng ta nhất:
Truyện Kiều hay Hồ Xuân Hương. Diễn giải dày rậm rối mù khiến ta không thấy đâu
Nguyễn Du, đâu bóng dáng nữ sĩ họ Hồ nữa, mà chỉ thấy các nhà diễn giải đang nói
qua/với/bằng các nhà diễn giải.

Susan Sontag cảnh báo: “Các diễn giải đa dạng đang ô
nhiễm cảm tính nghệ thuật của chúng ta”! Đó là hậu quả tai hại của văn minh
đương đại, một văn minh dựng trên sự thặng dư, thừa mứa mọi thứ: từ sản phẩm cho
chí thông tin, ý tưởng và lý lẽ. Đến nỗi con người trở thành thứ phản ứng có
điều kiện. Hệ quả là: sự kém nhạy cảm của giác
quan.

“Điều tối cần bây giờ là tìm thấy lại giác quan”, giác
quan thông minh có khả năng cảm nhận được cái tinh khôi, nguyên thủy. Sự lành
lặn của cái nhìn, trong suốt của lời, giản đơn của câu chữ. Là yếu tính đưa thơ
vượt thoát khỏi rối rắm rườm rà của suy luận học, để lần nữa con người học tiếp
cận với sự thể như nó là thế.

Nhiều bài thơ của thơ Y Phương, Lò Ngân Sủn, Dương
Thuấn và vài nhà khác gợi ý cho ta hướng đi ấy. Đó là thứ thơ gần, thẳng và cụ
thể. Từ một bản riêng anh đi đến đất nước chung, từ một dân tộc anh đến với nhân
loại:

Con
bây giờ còn nhỏ

Thương
nhất là mẹ cha

Lớn
lên con sẽ thương thêm bao người khác

Ngôi
nhà lớn của con là đất nước
(28). 

Dù “ở nhà sàn ăn nước sông Năng” nhưng anh đã ra đi,
các con anh cũng phải ra đi, anh em bè bạn anh phải rời bỏ bản làng nhỏ bé để
ra đi, hòa nhập cuộc sống rộng lớn hơn ngoài kia, với quan điểm rất dứt khoát
và, có thể nói – nhân bản:

Em ơi
ta ở đâu

Là bản
ta ở đó
(28).                      

Không một dấu vết ưu tư trăn trở hay quằn quại (nhiều
lúc chỉ là thứ làm dáng) thường thấy ở người thị thành trong bút pháp thứ thơ
này. Đứa con ấy, từ xứ núi đi bộ xuống đồng bằng, khỏe khoắn, tươi rói. Và, chỉ
biết nói lời cho quả sai. Tôi cho đó là cái đẹp mới của thơ dân tộc thiểu số.
Những hoa trái tinh khiết rất cần cho người thành phố hái mang về, không như một
vật lạ để làm quà lưu niệm, mà phải được xem là tặng vật của suối nguồn, thanh
tẩy bụi bặm hay khoả lấp khoảng rỗng sa mạc trong tâm hồn con người thời đại.
Khi khắp mọi nơi sa mạc đang lan dần. (“Sa mạc lan dần… Tai hại thay cho kẻ nào
lưu trì sa mạc!” – F. Nietzsche).

Còn ai
nghe tiếng hát

sáng
mai?

khi
sông Lu gặp tôi nơi nguồn suối

róc
rách về ngôn ngữ sạch trong.

Khi
sông Lu ẩn cư miền sa mạc

còn ai
nâng chông chênh tiếng hát

sớm
mai?
                        

                  (Inrasara, Hành
hương em
, 1999)

Tắm gội tận suối nguồn thơ dân tộc, tôi quay trở lại
với cái xô bồ rậm rạp, bề bộn đầy bất trắc của cuộc sống/cuộc thơ Sài Gòn. Tôi
trở về, bởi tôi phải trở về. Cũng như thơ Việt hôm nay cần thiết tiếp tục lên
đường để hoàn thành nốt cuộc hành trình đi tìm cái mới còn dang dở. Để rồi, khi
cuộc đi đã mãn, đôi chân đã rã, đời đã mỏi mệt, suối nguồn sẵn sàng mở vòng tay
đón nhận những đứa con phiêu lãng trở về. Một lần và muôn ngàn lần nữa, trong
cuộc Hồi quy vĩnh cửu của cõi sáng tạo.


Sài Gòn, mùa mưa
2005.

______________________


Chú thích:

(1)
Tư liệu về các nhà thơ được rút ra từ các tác phẩm
sau:

– Lâm
Tiến, Văn học các Dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại
, NXB Văn hóa Dân tộc, H.,
1995.

– Lâm
Tiến, Văn học và Miền núi, NXB Văn
hóa Dân tộc, H., 2002.

Núi mọc trong mặt gương, NXB Văn hóa
Dân tộc, H., 1998.

Tuyển tập văn học Dân tộc & Miền
núi
I, II, III, NXB Giáo dục, H., 1999.

– Hoàng
Quảng Uyên, Một mình trong cõi thơ,
NXB Văn hóa Dân tộc, H., 2000.

– Lò Ngân
Sủn, Thơ của các nhà thơ Dân tộc thiểu
số
, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 2001.

– Lò Ngân
Sủn, Vấn đề đặt ra với các nhà thơ Dân
tộc thiểu số
, NXB Văn hóa Dân tộc, H.,
2002.

Nhà văn Dân tộc thiểu số Việt Nam, Đời và
văn
, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 2003.

(2)
Xem: Evan.vnexpress.net, 2004. Hay:
The Best American Poetry 2003,
Scribner Poetry, USA, 2003; David Lehman, Great
American Prose Poems
, Scribner Poetry, USA,
2003.

(3) Tagalau
1-6
, xuất bản từ năm
2000-2005.

(4)
Bùi Khánh Thế (chủ biên, với sự cộng tác của các tác giả Cham: Inrasara, Thành
Phần, Phú Văn Hẳn, Lương Đắc Thắng, Quang Cẩn), Từ
điển Cham – Việt
, NXB Khoa học
xã hội, H., 1995; Từ điển Việt –
Cham
, NXB  Khoa học xã hội, H.,
1996.

(5)
Xem thêm: Inrasara, “Sáng tác văn chương Cham hôm nay” trong Tagalau
1
, Hội Văn học – Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam,
2000.

(6)
Số liệu do Ban biên soạn sách chữ Cham – Ninh Thuận cung
cấp.

(7) Pờ Sảo Mìn, Con trai người Padí, NXB Văn hóa Dân
tộc, H., 2001, tr. 17.

(8)  Cây hai ngàn lá, NXB VHDT, 1992 và Con trai người Padí, NXB Văn hóa Dân
tộc, H., 2001.

(9)
Nguyễn Đình Thi, “Mấy ý nghĩ về thơ”, Tạp chí Tác
phẩm mới
, số 3.1992.

(10)
Nedim Gursel, “Chữ
nghĩa của lưu đày, lưu đày của chữ nghĩa” – Talawas.org,
2003.

(11)
Ba tập thơ đã xuất bản của Lương Định: Tương tư, Nxb Đồng Nai, 1991;
Núi và Hòn đá lẻ
, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1995;
Dòng sông khao khát
, NXB Hội Nhà văn, H., 2001.

(12)
Charles Hartman, trích theo Khế Iêm, “Thơ Tự do – một tiếng gọi khác”, Tạp chí
Thơ, số Mùa Đông 1999, Hoa Kì, tr.
158.

(13)
Nguyễn Trọng Tạo, Đồng dao cho người
lớn
, NXB Văn học, H., 1994.

(14)
Lò Ngân Sủn, Con của núi I, NXB Hội
Nhà văn, H., 1996.

(15 Thơ Y
Phương
, Nxb Hội Nhà văn,
H., 2002, tr. 292

(16)
Inrasara, Văn
học Cham – khái luận
, NXB Văn hóa Dân tộc, H.,
1994.

(17)
Prévert (J.), Paroles,
Gallimard (Le Livre de Poche), Paris, France.

(18)
“Sợ”, Trần Minh dịch, Evan.vnexpress.net,
2004.

(19) Các đoạn thơ trích trong tập Sữa
đá
của Đỗ Thị Tấc, NXB Hội Nhà văn, H.,
1999.

(20) M. Houellebecq, “Jacques Prévert là một thằng ngốc”,
Nguyễn Đăng Thường dịch, Tạp chí Thơ, Hoa Kì,
2004.

(21) Đàm Chu Văn, Tiếng mùa, NXB Hội Nhà văn, H.,
2003.

(22)
Roland Barthes, Độ không của lối
viết
, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Hội Nhà văn, H.,
1998.

(23)
Vương Trọng,“Người ấy”, báo Văn nghệ, số 32,
07.08.2004.

(24)
Đỗ Trung Quân: “Quê hương là chùm khế
ngọt / Cho con trèo hái mọi ngay / Quê hương là con diều biếc

…”

(25)
Mai Liễu, Giấc mơ của núi, NXB Văn
hóa Dân tộc, H., 2002. Các câu thơ được dẫn trong bài viết được trích từ tập thơ
này.

(26)
Inrasara, Sinh nhật cây xương rồng,
NXB Văn hóa Dân tộc, H., 1997.

(27)
Nguyễn Hoàng Sơn, “Inrasara, lần thứ hai đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt
Nam”,  báo Tiền
phong chủ nhật
, số 01. 2004.

(28)
Dương Thuấn, Hát với sông Năng, NXB
Văn học, H., 2001.

(29) Susan Sontag, “Chống diễn giải”, Nguyễn Đăng Thường
dịch, Talawas.org,
01.10.2003.

Comments are closed.