THƠ NGÔ LIÊM KHOAN

 

Ngô Liêm Khoan là một nhà thơ sinh sau 1975, đăng thơ trên nhiều báo từ 1995, có thơ in trong nhiều tuyển tập ở Việt Nam. Hai tập thơ riêng đã xuất bản: Trở mình trong máng xối (NXB Hội nhà văn 2007), Những tấm ván trên cầu Hiền Lương (NXB Trẻ 2014).

NLK nói về Thơ: “Nhà thơ sống thêm một ngày nữa để làm gì?

Đơn giản vì ở đó/Biết đâu còn một bài thơ đang chờ đợi” (trích từ bản thảo tập thơ Thêm một ngày để sống)

 

 

Ngo Liem Khoan 314 aNhững tấm ván trên cầu Hiền Lương*

 

Hơn ba mươi năm cỏ mấy bận ngút xanh

Chỉ ngại lòng người chưa bén rễ

 

Những tấm ván trên cầu Hiền Lương

Chúng có hay không câu chuyện của riêng mình

Chúng có phân biệt được sắc cờ

Giữa hai giới tuyến

Hay chúng chỉ là gỗ thôi

Làm phận lát cầu

Và gánh trên mình thương tích

 

Những tấm ván trên cầu Hiền Lương

Chúng không có tay

Để ký vào điều khoản chia đôi

Chúng không có chân

Để chạy về bên này, bên khác

Chúng không có mắt

Để phân biệt MIG với B52

Chúng chỉ là gỗ thôi

Làm phận lát cầu

Và nhận về phần mình tan nát

 

Những tấm ván trên cầu Hiền Lương

Chúng biết hay không biết số thứ tự của riêng mình

Giữa 450 tấm bên này

Và trong 444 tấm bên kia

Chúng có thù oán nhau không

Chúng có sơn vẽ trên mình những màu những sắc

Chúng có xẻ thân mình làm củi làm chông

Để sập, để cháy nhau trên dòng Bến Hải

Hay chúng chỉ là gỗ thôi

Làm phận lát cầu

Và cõng trên lưng mình lịch sử

 

Những tấm ván trên cầu Hiền Lương

Sau mấy mươi năm

Tấm còn

Tấm nát

Tấm bên này vẫn nằm phía bên này?

Tấm bên kia vẫn nằm phía bên kia?

Chúng có biết vui không

Khi chỉ thấy một sắc cờ

Chúng có biết vui không

Khi không còn giới tuyến

Hay chúng chỉ là gỗ thôi

Làm phận lát cầu

Vài trăm tấm phía bên này

Mấy trăm miếng phía bên kia…

 

Những tấm ván trên cầu Hiền Lương

Những tấm ván đã thành bụi thành tro thành rều thành rác…

Chúng có quên ánh mắt phía bên này

Chúng có nhớ chớp lửa phía bên kia

Chúng có nguôi ngoai vết cháy thẫm máu người

Hay chúng chỉ là gỗ thôi

Đã xong phận lát cầu

Hay chúng đâu chỉ là gỗ thôi

Vì còn thấm máu người

Vẫn day dứt khôn nguôi

Nhịp cầu đã gãy…

 

Những tấm ván trên cầu Hiền Lương

Những tấm ván xẻ từ dãy Trường Sơn

Trong một sáng rạng ngời

Bắc qua dòng Bến Hải**

Những tấm ván

Vượt tầm đạn

Khuất tầm bay

Không đau đớn gót giày

Nối triệu bước chân còn buồn

Tới những nhịp rất vui***

Có hẫng hụt

Có mong manh

Như vắt bụi tro qua vực thẳm?

 

30/4/2012

 

————————————-

* Tháng 5/1952 thực dân Pháp xây cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải gồm 7 nhịp, dài 178m, mặt lát bằng gỗ thông.

Năm 1954, theo Hiệp định Genève. Sông Bến Hải  vĩ tuyến 17 được chọn làm ranh giới chia Việt Nam thành hai vùng tập trung quân sự.

Theo đó, “cầu Hiền Lương chia làm hai phần, mỗi bên dài 89m, sơn hai màu khác nhau. Bờ Bắc gồm 450 tấm ván mặt cầu, bờ Nam 444 tấm.” (Nguyễn Tuân)

Chiếc cầu này tồn tại được 15 năm (từ 1952 đến 1967) thì bị bom Mỹ đánh sập.

** Năm 2002 – 2003, tỉnh Quảng Trị đã xây phục chế cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải; cầu dài 182,97m gồm 7 nhịp, mặt lát gỗ lim. (Wikipedia)

*** “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”. (Võ Văn Kiệt)

 

 

Dấu gạch ngang

 

Mỗi người đều có một năm sinh

Và một năm mất

Khoảng giữa là một dấu gạch ngang

 

Dấu gạch ngang minh chứng cho sự thật

Có một người từng sống ở thế gian

Hai điểm nối – hành trình người đã khuất

Của một quả tim ngừng đập nhịp nhàng

 

Có năm tháng chỉ ghi trên bia mộ

Có ngày giờ được khắc ở nghĩa trang

Kẻ may mắn còn in trong ruột sách

Kẻ hẩm hiu chẳng vụn giấy hóa vàng

 

Khi nhớ đến một người đã mất

Có thể quên những con số lạnh lung

Nhưng dấu gạch ngang – vô hình nhất

Nhắc rằng đây tim từng đập nhịp nhàng

 

Nếu đang sống ai là người bất hạnh

Hãy tạm quên lá số của đời mình

Nếu chẳng thể có điều gì để lại

Hãy để lại nơi này một dấu gạch ngang.

 

(1977 – 20xx)

 

 

Câu hỏi tháng ba

 

Thanh minh trong tiết tháng ba*

Cỏ xanh dọn mình chờ nhát cuốc

Tảo mộ

Tảo mộ

Tảo mộ

 

Ngôi mộ tiền kiếp nằm ở nơi đâu?

Buổi sáng tháng ba dội về câu hỏi…

 

Bia đá từng hàng khói hương nghi ngút?

Đụn đất mối đùn Trường Sơn lũ quét?

Vạt cỏ rợn xanh phủ gai gò đống?

Tấm bia lở lói quên mùi bổi nhang?**

 

Ngôi mộ tiền kiếp nằm ở nơi đâu?

Hơn ba mươi năm tôi cầm nén hương

Biết cắm vào đâu: quá khứ?

Chỉ cúi đầu trước cỏ tháng ba

 

Ngôi mộ tiền kiếp nằm ở nơi đâu?

Ngôi mộ tiền kiếp nằm ở nơi đâu?

Ngôi mộ tiền kiếp nằm ở nơi đâu?

Nơi đâu?

Nơi đâu?

Nơi đâu?

 

Cám ơn dòng nước sông mê

Tri ân từng thìa cháo lú

Để tôi còn

Không được dịp nhận ra…

 

Tôi quỳ xuống

Bên từng ngôi mộ

Những viên đạn ngược chiều nhau

Nếu còn sức bay

Hãy ghim ngay vào trái tim này

 

12/6/1977***

____________________________

* Thơ Nguyễn Du.

** Xin Người Đọc tự chú thích từng dòng cho khổ thơ này.

***12/6/1977 là ngày sinh tác giả. Không phải ngày viết bài thơ. Bài thơ được viết vào đầu Mùa tháng 4/2009, trong những ngày Lễ trọng 10/3 Âm lịch.

 

 

Nguồn: Những tấm ván trên cầu Hiền Lương, nxb Trẻ 2014

Comments are closed.