(Đọc tập trường ca Lòng Hải Lý của Đỗ
Quyên)
Bùi Công Thuấn
Tôi
chần chừ mãi mới viết được những dòng này, bởi, với tôi, trường ca Lòng
Hải Lý của Đỗ Quyên không dễ đọc. Và cũng bởi Đỗ Quyên là một tác giả có tầm
vóc một công dân toàn cầu. Anh sinh
tại Hà Nội (1955); định cư tại Canada (1996); giảng dạy ngành Vật lý hạt nhân,
Ðại học Bách khoa Hà Nội (1977-1988); cộng tác viên khoa học Viện Dubna, Nga
(1988-1990); làm báo ở Ðức (1990-1996), ở Úc (2004-2008); ở Canada (1996-đến
nay); học bổng khoa học nhân văn Rockefeller 2001-2002, Trung tâm William
Joiner, Mỹ.
Đỗ
Quyên vừa là nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu và phê bình văn học; đồng thời là
người say mê hoạt động văn học nghệ thuật. Đỗ Quyên cũng là khuôn mặt đặc sắc
của văn học nghệ thuật hải ngoại Bắc Mỹ (Canada)
bên cạnh những tài năng khác như Nguyễn Đức Tùng, Lưu Diệu Vân,…
- “THƠ THẬT KHÔNG CẦN PHÊ BÌNH”
“Thơ thật không cần phê bình”, Đỗ Quyên
bảo vậy. Anh còn dội một thùng nước
lạnh lên đầu các nhà phê bình muốn đọc
trường ca của
anh:
“Ta cũng
nghỉ chơi khâu làm thơ đoản
từ
nay
Cứ trường
ca mà nã chương một, hồi hai
Cánh phê
bình
bảo đảm
chỉ đọc câu đầu, đoạn kết rồi
gõ máy liên hồi
phán:
Ý tưởng
đầy mình, nội công chắc sẵn
Ngữ vựng,
từ căn… hàng lũ hàng đàn
Gia cảnh
an toàn ..”
(Đống chữ – Thân
2)
Ý
của anh là, không nhà phê bình nào có đủ can đảm đọc hết tập trường ca này, họ
chỉ đọc câu đầu, đoạn kết rồi phán bằng những lời tụng ca. Cũng có
thể anh “dị ứng” với những nhà phê bình phong trào. Vậy thì tôi còn biết viết gì
đây!
Trước
khi viết về tác giả hay tác phẩm nào, tôi có thói quen tìm xem các nhà phê bình
đã nói gì. Điều này cho tôi cái nhìn thoáng về đối tượng, và quan trọng hơn, tôi
sẽ tránh lặp lại những gì người khác đã viết. Hơn thế, nó có thể gợi ý hay kích
thích tôi tìm kiếm những điều chưa ai nhận ra. Cũng có khi đây là dịp được đối
thoại với nhiều người, cọ sát trí tuệ với những bộ óc thời đại, được vậy thì
thật thú vị. Tôi thích đọc các tác giả khó là vì vậy. Phê bình, đối với tôi, là
đồng khám phá, sáng tạo với tác giả.
Trong chuyên luận 40
năm thơ hải ngoại, Văn Việt có bài giới thiệu rất hay
về thơ Đỗ
Quyên [1].
Bài viết cho tôi cái thú vị được thưởng thức một bản văn hay cả về
nội dung và văn phong, nhưng cũng gây cho tôi những điều nghi ngại. Tác giả của Văn Việt nhận xét: “…trường ca Đỗ Quyên mô phỏng
một thế giới không đặc trưng, không có cốt tủy, thậm chí không cả trung tâm
không ngoại biên. Thơ ấy không dùng
được vào việc gì có ích, nhưng bỏ qua không được.”
Tôi tự hỏi, một
người đa tài và
thành đạt như nhà thơ Đỗ Quyên, đã dồn
tất cả say mê tâm huyết đời mình để làm thơ, một người ý thức sâu sắc rằng: “Văn chương là chữ nghĩa được
con người tạo tác bằng mồ hôi và máu đào, bằng cuộc đời và có khi cả sinh
mạng”[2],
vậy mà thơ của người ấy lại không
dùng được vào việc gì có ích,
thì chẳng lẽ,
sự lựa chọn con
đường văn chương
của Đỗ Quyên là
sai
hay
sao? Chẳng lẽ, những lời khen thơ Đỗ Quyên chỉ
là trò quảng cáo?
Nhà
thơ Nguyễn Đức Tùng lại có những
nhận định khác. Trong buổi
sinh hoạt văn nghệ hàng năm nhân dịp ra mắt tạp chí Người Việt Hải ngoại
tại
Vancouver,
ngày 1-12-2007, Nguyễn Đức Tùng đã đọc một tham luận có những khám phá
sâu
sắc về
trường ca Đỗ Quyên
(Talawas đăng lại 2008)
[3].
Ông cho rằng: “Đỗ Quyên là người có kiến
thức văn học uyên thâm…
Nhà thơ, bằng tác phẩm của mình, hay đôi khi bằng cả cuộc sống của họ, mà trong
trường hợp này, một cách hết sức thận trọng, tôi muốn nhắc đến ví dụ Đỗ Quyên,
giúp chúng ta ý thức về đời sống –
dòng chảy của mỗi người. Người đọc tìm thấy trong thơ tiếng nói của mình, qua
những khúc quanh khác nhau của cuộc đời bí ẩn mà chỉ riêng họ biết mà thôi, một
tiếng nói dịu dàng nhưng nghiêm khắc, kiêu hãnh nhưng nhân từ, đem họ trở lại
với cội nguồn sâu thẳm của đời sống”.
Như vậy là thơ Đỗ Quyên có
ích đấy chứ, nào phải không dùng được
vào việc gì có ích!
Tác giả Phi Hà ghi nhận được nhiều ý
kiến nhận xét về trường ca của Đỗ Quyên [4].
Nhà phê bình Phạm
Xuân Nguyên nhận xét: “Sau 1975 chúng ta đã có một
mùa trường ca. Nhưng sau đó các nhà thơ của chúng ta gần như ít viết trường ca.
Cho nên một cố gắng như của Trần Anh Thái ở trong nước, một cố
gắng như của Đỗ Quyên ở nước ngoài là rất đáng quý và đáng được phân tích,
đáng được nghiên cứu, được tiếp tục. Và tôi nghĩ cái này phải đọc chậm, sống
chậm, như là Đỗ Quyên đã dành 25 năm
trong 35 năm của anh ở nước ngoài để viết nên trường ca
này.”
Nhà văn Hoàng
Minh Tường, chia sẻ: “Tôi có cảm
giác rằng, anh Đỗ Quyên là người đích thực sinh
ra để làm thơ, một người yêu thơ đến tận cùng”.
Nhà
văn Văn Chinh đọc ở Đỗ Quyên điều
này: “Đỗ
Quyên nhắc chúng ta nhớ rằng người sáng tác phải
luôn luôn ra khỏi những phạm trù quen thuộc mà các nhà thơ mới, các nhà thơ
thời chống Mỹ đã làm – vì họ đã ngôn ngữ đẹp lên nhưng cũng khai thác chúng đến
cũ rồi. Đỗ Quyên dùng những câu thơ của mình trong Lòng
Hải Lý, để đo khoảng cách mà các nhà
thơ đã ly thân với chính bản thân mình, với những thói quen, mà tôi nhớ có câu
là phải “đả đảo đất dưới chân mình”.
Nhà phê bình Văn
Giá giải
thích vì sao thơ Đỗ Quyên khó đọc:
“Tạm gọi trường ca Đỗ Quyên mang tính
tiểu thuyết, nghĩa là hướng vào cái cá nhân đời tư, thường ngày, dở dang, không
hoàn kết… (theo lý thuyết M. Bakhtin). Do đào sâu vào nội tâm cá nhân, nên bút
pháp nhất quán từ đầu đến cuối là suy tưởng. Bút pháp này có cái hay, nhưng đọc
cũng nặng, người đọc phải cố gắng. Chính vì thế, nếu lấy cái khung soi ngắm quen
thuộc về trường ca như lâu nay thì sẽ không đọc nổi trường ca Đỗ Quyên. Vì
lẽ đó có thể nói rằng: Trường ca Đỗ Quyên sẽ không dễ dàng đi vào bạn đọc Việt
Nam hiện nay, nó kén chọn độc giả.”
Nguyễn Đức Tùng cũng xác
nhận tính khó hiểu của thơ Đỗ Quyên: “Đối với nhiều người, thơ anh vừa dễ hiểu
vừa khó hiểu, đọc từng câu thì hiểu, đọc toàn bài thì không hiểu gì cả. Như thế
là vì anh đi trước độc giả quá xa, hay vì tính đặc trưng của thơ anh là vượt
thoát các cố gắng giải thích?” [3- đd]
- TÔI ĐỌC THƠ ĐỖ QUYÊN
Xin trích một
đoạn:
…Những đùi vế vút
lên
sáng lại câu thơ cổ
điển
Con đường sôi âm ỉ
ngút ngã tư già
Chế ngự từng thước
tấc
phố nhà chưa lấn
hết
Đường biên xấu hổ
cổng thành chúm chím gót
chân
Nóc nhà thờ ngang cánh
chim
thánh rỏ lệ mát bàn chân lữ
khách
Những đứa con thừa
cha
chạy ra
ném
các đụn
tuyết không tan…
(Lòng hải lý – Tám)
Tôi đọc và không thể hiểu.
Rồi viện kinh Kim Cang mà rằng, không
hiểu ấy là hiểu!!! Tôi tự an ủi mình vậy! Cũng may, Đỗ Quyên bảo: “Thơ thật không cần phê
bình”.
Thú thực là nhiều lần tôi
định bỏ cuộc. Đọc trường ca của Đỗ Quyên vất vả quá, vất vả hơn đi cày, trầy
trật hơn đánh vật. Đọc đi, đọc lại; đọc nhanh, đọc chậm, Thơ như bức tường thành
chắn lối, không sao thâm nhập được vào thế giới chữ nghĩa của Đỗ Quyên. Đọc theo
Thi Pháp học, tìm cái lạ hóa, tìm thủ pháp, nhạc điệu, v.v. thì Thơ vỡ nát. Đọc
theo lối “truyền thống”, tìm mắt
thơ mà điểm, nhưng tìm hoài nào thấy đâu là mắt
thơ. Thơ cứ ào ạt tuôn chảy, lớp lớp sóng dồi. Lại thay đổi cách đọc. Đọc
theo Cấu trúc luận và Giải
cấu trúc. Chữ nghĩa vẫn chênh vênh, vì thơ Đỗ Quyên rất lỏng lẻo về cấu
trúc. Có thể đọc đoạn nào trước, đoạn nào sau cũng được; đọc cả đoạn hay đọc rời
từng câu, vẫn có nghĩa. Đây là những câu rời:
Em bảo:
Người đi biển không làm thơ
Anh bảo:
Người làm thơ đi biển.
(Lòng hải lý – Ba)
– Em là
bầu trời
cho thơ
anh nở
Những bông
hoa tươi nhờ nước mắt
(Đống chữ – Thân
7)
Không
phải thơ Đỗ Quyên vừa dễ hiểu, vừa khó hiểu mà có những đoạn
khó hiểu và có những đoạn dễ hiểu. Những đoạn anh viết theo kiểu
thơ truyền thống (Lục bát, thơ Lãng mạn) là những đoạn dễ
hiểu:
Thơ ai
khóc gió trên trời
Thơ em
khóc lá khóc người dưới mây
Xưa em đen
cả tháng ngày
Nay em
trắng một đời này em thơ
(Đống chữ – Thân
4)
Bạn có
trong đời ba nỗi đau
Để riêng
tận góc một lòng sâu
Lâu lâu
gặp lại cho tôi nhận
Chung đỡ
phần đang ở trong nhau…
(Đống chữ – Thân
7)
Tôi
căng mắt mà quan sát thơ, và nhận ra điều này. Thơ Đỗ Quyên là những dòng suy
nghĩ miên man trôi đi, từ việc này sang việc khác, từ ý nghĩ này sang ý nghĩ
khác, và trôi rất xa nguồn. Khoảng cách những câu thơ là những liên tưởng đứt
đoạn, ẩn dụ nối tiếp ẩn dụ “cái biểu
đạt” dẫn lối cho “cái biểu đạt”
khác, khiến người đọc không sao theo kịp. Các hình ảnh thơ liên tiếp xuất hiện,
phi logic. Các con chữ thuộc những trường nghĩa khác nhau đứng liền nhau. Tư duy
ngôn ngữ và và quy tắc ngữ pháp Việt bị phân rã. Thời gian, không gian, nhân vật
cốt truyện tạo nên cấu trúc không tồn tại. Không có một hiện thực nào được phản
ánh để người đọc có thể dùng làm hệ quy chiếu qua đó xác lập ngữ nghĩa.
Với
kiểu tư duy thơ này, tôi chỉ còn trông nhờ vào kinh nghiệm đọc dựa trên lý
thuyết tiếp nhận hiện đại. Tôi nhận ra Đỗ Quyên sử dụng nhiều thủ pháp của văn
chương Hậu hiện đại như, chen vào các yếu tố ngẫu nhiên, phi logic, sự phân
mảnh, sự phi tâm, chất giễu nhại, tính chất trò chơi, xoá nhoà ranh giới giữa
nghệ thuật và đời sống thường ngày, tác phẩm tựa như một bức tranh khảm có nhiều
chất liệu dị biệt… Từ đó tôi tái cấu trúc và giải cấu trúc tác phẩm, kết nối các
liên tưởng, loại bỏ những yếu tố ngẫu nhiên, phi lý; giải mã các ẩn dụ, các biểu
tượng (thí dụ: Đảo, đảo nắng đảo mưa,
tấm-vé-đời, bàn chân, con đường, những nụ hoa không nở, ly café mồ côi…);
kết tụ những mảng hiện thực bị phân
mảnh; lấp đầy những khoảng trống văn
bản và đọc cái nghĩa do chính mình tìm thấy trong tác phẩm. Ý nghĩa này có
khi trùng với ý nghĩa của tác giả gửi trong tác phẩm, có khi khác biệt do tầm kỳ vọng (Hans Robert Jauss)của người đọc, hay do sự khác biệt của
cộng đồng diễn dịch (Stanley Fish)
mà người đọc mang theo khi đọc tác phẩm. Tôi đọc trường ca Lòng Hải Lý
như đọc một tác
phẩm mở (Umberto Eco).
Và Đỗ Quyên nhắc tôi rằng: “Bản chất của thơ cần có mặt mà chưa cần để
hiểu”
(Buồn muộn cùng thế kỷ,
Chương 3)
Chẳng
hạn, trường ca Lòng
Hải Lý
có chín đoạn thơ và một Phụ lục. Chủ thể, nhân vật Ta, khi thì độc
thọai, khi đối thoại với em, với mẹ, với bạn… (thực ra đó là sự phân thân của
tác giả trong một cuộc đối thoại giả định). Trải suốt trường ca là một câu
chuyện (có cốt truyện, tình huống, nhân vật, thời gian, không gian), câu chuyện
về hành trình thơ, về làm thơ, về số phận thơ, tương lai thơ… Câu chuyện này
bị xé ra thành những giải, những chi tiết, và ngẫu nhiên quăng vào các đoạn thơ.
Có khi câu viết về Thơ nằm giữa những xô bồ suy nghĩ miên man khác. Nếu không
tái cấu trúc câu chuyện này, loại ra ngoài những yếu tố không nằm trong cấu trúc
chính và giải cấu trúc này, người đọc sẽ hoàn toàn bị lạc trong rừng trùng trùng
điệp điệp câu chữ, sẽ không sao lần được lối ra.
Cũng
vậy, cả 4 trường ca trong tập Lòng
Hải Lý
(Lòng hải lý,Đống
chữ,Buồn muộn cùng thế kỷ,Bài thơ không thuộc về ai), cũng là một
câu truyện dài về Thơ, về hành trình thơ, về thân phận thơ, niềm tin vào thơ…,
cho nên không phải vô tình mà Đỗ Quyên sắp xếp bốn trường ca này vào chung một
tập thơ.
Câu
chuyện, có điểm mở đầu, có điểm cuối:
Khởi một
điểm hành trình –
Chữ của ta
mang Nghĩa của đời
từ đó.
(Đống chữ – Thân
1)
Điểm
cuối:
Tới gần rồi,
điểm cuối!
Đảo mưa trong anh
anh nắng trong em
Đường mòn đau thêm
thổn thức lịch trình xoắn
ốc
Câu thơ treo
ngửa
nấc
(Lòng
hải lý – Chín)
Và đây là câu
viết về thơ treo vào giữa đoạn thơ, lơ lửng, lạc lõng, rời rạc, không kết nối
giữa câu chuyện nhà thơ đang nói với bạn:
Bạn
chỉ có đảo này trong địa chỉ
Còn bến kia trên bức ảnh nhộn
màu
Con lộ ấy như vạn ngàn con
lộ
Tiếng còi tàu không vượt tiếng còi
tàu
Bút dốc ngược thơ xuôi dòng
chảy
Im lặng thay mỗi chiếc kim
giờ!
Ta
bỏ bạn trên các đinh địa lý
–
tên những làng, núi,
sông…
3. LÒNG HẢI
LÝ
Thơ anh có nỗi buồn mênh mông của gió
Bay trên phận con người
(Bài thơ không thuộc về ai – Kết
số 10)
Chắc chắn đêm nay ba về và
muộn
Việt Nam một vai, thế giới một vai
Ba dành hết. Phần cho nhân
loại
những mùa thu có lá rơi
đầy
(Buồn muộn cùng thế kỷ – Chương
3)
Lòng
Hải Lý là tấm lòng của tác giả đối với Thơ và đối với đời. Thơ là trái tim hiện
sinh như “Sóng vỗ một lần thôi/ Câu thơ
hạ rồi/ và mãi”. Thơ là cuộc lãng du vô định. “Để
giờ mãi lênh đênh/ Mẹ là gió/ Tình chúng mình làm sóng/ Thơ – trước mặt/ chân trời.” Thơ là niểm hoan lạc
miên viễn:
“Có sóng trên giấy
như có sóng trong lòng
Có gió bốc dưới mỗi bàn
chân
và trong từng ngòi bút
Mùi trang giấy viết tinh
khôi
ngửi suốt đời không ngán”
Thơ là niềm
đam mê mãnh liệt:
Bằng thơ anh định nghĩa đó là sự trọn vẹn
của tự do
Mực cây bút đời của anh đang ứa màu cam vàng
đỏ màu của mãnh liệt và đam mê cần để ngồi 12 tiếng không ăn uống không
làm tình không vào hộp thư điện tử để trải kín 24 trang trường
ca
(Buồn
muộn cùng thế kỷ – Chương 3)
Người
thơ có sự nhạy cảm khác thường: “Em biết thơ là bể khổ/ biết anh yêu thơ là
khổ/ biết em yêu anh là khổ/ và biết anh yêu em là khổ kép khổ
đơn.”
“Có
khi một câu “Chó chết!”
đã
làm thơ anh quẫy muôn lần
Có
khi chỉ hắt đi trong ly trà đôi hạt bụi
là
con tàu thơ anh lao”
(Buồn
muộn cùng thế kỷ – Chương 2)
Thơ
là hạnh phúc bất tử:
“Theo
con sông chữ nghĩa trên những chuyến đò
ngang
là
hạnh phúc ngắn
Hãy
theo những chuyến đò dọc
để
đến thác đầu ghềnh và những bãi hoang đổ ra biển
đời của văn chương
để
chết trong hạnh phúc bất
tử
(Buồn muộn cùng thế kỷ – Chương
4)
Thơ
có giá trị như chính đời sống
Người
sống, đống chữ
Người
chết, đống chữ…
Những
người thơ
đang
sống-chết
Đi gom
ngàn con chữ/ như gom ngàn cọng cỏ, nhánh lau….
Sẽ có/
trong một ngày mơ của mình
(Đống chữ –
Chung)
Đỗ
Quyên tích lũy những tấm-vé-đời làm
vốn cho thơ, đó là những chặng đường đời, vui, buồn, hạnh phúc, đau khổ mà nhà
thơ đã trải qua
“Mình tích thủ các tấm-vé-đời/…
Buồn vui, thành bại/… Chúng lóe ánh sáng kêu gọi…/ Chúng xếp hàng nhẫn nại/ chờ
nhìn tấm vé cuối…/ tấm vé chưa nằm yên/ kích nới Lòng-Hải-Lý dài thêm/ trên các
tấm vé mới”
(Lòng
hải lý – Bốn)
Đỗ
Quyên luôn thôi thúc cách tân thơ trước sự ám ảnh về cái chết của Thơ, khi cuộc
hành trình bị trì trệ, con thuyền nằm in một chỗ.
“Chết phi lâm sàng với bác
sĩ
là chết lâm sàng của kẻ làm thơ và của kẻ
độc hành
Đường hẹp lại khi hành nhân nằm
mãi
Những con thuyền thêm một chốn bơ
vơ”
(Lòng hải lý – Sáu)
“Nhà thơ hôm nay không thể viết câu chữ
nghĩa địa, ý tưởng mồ mả, nhịp điệu lên đồng, chủ đề quan tài, thể loại hóa
vàng hôm qua
Để nghệ thuật sống
tồn”
(Bài thơ không thuộc về ai – Chương 3)
Chương viết về
thân phận nhà thơ (Đống chữ – Thân 5: Mộ văn) là chương đầy bi thiết, bộc
lộ sự tài hoa rất mực của ngòi bút Đỗ Quyên. Bên dưới sự giễu nhại khôi hài, Đỗ
Quyên dành nhiều nước mắt cho những nhà thơ vì hoàn cảnh riêng mà phải tìm cái
chết để sống, để khẳng định sự tồn tại một nhân cách. Từ xưa đến nay, từ đông
sang tây, bao nhiêu là cảnh thương tâm: Lý Bạch, Essenin,
Nguyễn Tất Nhiên, Maiakovski, Hemingway?
Nhất Linh
đã chết (hay tự chết) như thế nào?
Ôi những cái thời anh hùng trong tấc gang/ hèn nhục trong choáng
váng…”
…Nhất Linh
trước sau cũng chết
như một nghi án chính trị-văn chương
Tài mệnh
cho ông
chọn Chết
triết học –
như con dê
giữa hai bó cỏ
… Gió Canada
sẽ thổi lên trời xanh những tiếng khóc
của em
như hôm
qua mưa phùn Bắc Việt làm ướt thêm
những
trang văn
ông trong mắt
mẹ.
Không gian ngập tràn tiếng
khóc:
Những
trận mưa rào Bắc Mỹ không kỳ thị
nước mắt
của những người phụ nữ da mầu
Mưa
dài
cho
mắt ai sâu
cho
vai ai nặng những chiều thiếu quê
Những
người phụ nữ di dân khóc để ngày
kết thúc
trong
khi những người phụ nữ bản xứ làm
thế cho một ngày lên
Cái bồn tắm
khóc để không ai còn bứt
rứt
Keyboard
khóc cho dân chủ thành
hình
Tờ lịch
khóc thì đời mới hết những thằng đốn
mạt
Chiếc bút không
khóc đến khi giá nhà chưa
giảm
Ngày mai không bao giờ
khóc cho ngày hôm nay
Chúng ta có còn
khóc sau khi Thời gian là chủ nhân ông của vũ trụ này?
(Buồn muộn cùng thế kỷ – Chương
1)
Đỗ Quyên cũng khóc cho chính
mình.
Cho ta
khóc một hệ người
người là ta rồi đó
thơ cầm
ngang lòng tay
tìm đau
trong ngày mai
(Đống chữ – Thân
3)
Và mong một sự hóa thân:
“Thường
là nhà thơ không thể tìm ra câu kết cho một bài thơ chỉ còn chờ câu
kết
Muốn
thân xác mình lấp vào.”
(Bài thơ không
thuộc về ai – Kết 16)
Thực ra đàng sau câu chuyện về Thơ, Đỗ Quyên trải
lòng kín đáo và dữ dội về cuộc đời. Thơ Đỗ Quyên không phản ánh thực tại, có
chăng là vài hình ảnh nơi ông đang sống hoặc vài chi tiết về gia đình (Đống
chữ – Thân 8: Hôm nay đi tuyến Yonge-Spadina subway/
Tôi có Toronto với hai đường tàu điện ngầm…).
Tuyệt nhiên không có hiện thực những năm ông sống ở Việt Nam, ở Nga, ở
Đức…
Hiện thực trong thơ Đỗ Quyên là hiện
thực tư tưởng, hiện thực hư cấu, tuy có thấp thoáng những mảnh đời thực,
nhưng Đỗ Quyên chuyển hóa thành suy tư, thành nhận thức có phẩm chất triết học.
Tuy vậy thơ Đỗ Quyên chưa đạt tới phẩm chất thơ tư tưởng, về căn cốt thơ Đỗ
Quyên vẫn là thơ trữ tình.
Thấp thoáng trong dòng chảy trữ tình là sự
lên tiếng nói. Khi là giọng sâu lắng đến tận cùng hiện sinh, khi là sự đối
mặt quyết liệt với thực tại; khi là bài ca hào sảng trên đỉnh núi mây ngàn, lúc
là giọng trầm thống như sóng gầm dưới đáy đại dương sâu thẳm. Về những vấn đề
của đời sống không thể không lên tiếng.
Nhân loại bắt đầu vô nhân
đạo
lúc mũi tên hiện đại hóa đạn
chì
ngọn lao thành hỏa
tiễn…
…quên cội nguồn, địa dư và sử
ký
thực hành chức năng đồ tể
quáng mù…
…Hãy khước từ những viên
đạn
cũng như khước
từ làm những viên đạn!
(Lòng
hải lý – Bảy)
Thi thoảng
lo lo
Tôi hay
nhìn lại
Nguồn Chữ
nghĩa của riêng mình số lượng đến đâu
và chất
lượng ra sao
Sợ nhất là
bị các tính từ xấu
(độc
quyền, tha hóa, xuống cấp, mị dân, tham nhũng, bê tha,
chuôm
chỉa, hối lộ, lạm phát, tham ô và sến)
đòi làm
cha, làm mẹ!
(Đống chữ – Thân 1)
Nếu không
Tàu, chúng ta đi về đâu?
Lời hỏi
lớn
như hình
nước Việt
cái móc
câu dưới tảng thịt Trung Hoa
Bao giờ
nước mình ngẩng mặt được
không
vướng một tán cờ
(Đống chữ –
Thân 5)
Con
chung của chúng ta với Thời gian
sẽ
là những đứa trẻ vạm vỡ
của
Tự
do
của
Bình đẳng sẽ là những đứa trẻ duyên
dáng
Hoàn
cầu sẽ ế các cuộc chiến tranh
–
cuộc
chiến máu thịt hay cuộc chiến nước bọt, mồ hôi –
Tôn giáo
quy về ba đạo chính: đạo Quá khứ, đạo Hiện tại, đạo Tương
lai
Vì
bị lột trần truồng
triết lý, chủ nghĩa
chỉ còn biết che phần kín của
mình
Môi trường, Sida, Mafia và Đói
cũng bị kỷ nguyên Thời gian xếp vào hàng
chuyện
nhỏ
(Buồn muộn cùng thế kỷ – Chương
1)
Sách Việt ngữ cho tụi con tìm ở
đâu ba?
Ngoài
dăm cuốn Hai Bà Trưng, một Ông Gióng… con thuộc từ ngày trong
nước
Em
con chờ các cuốn khác
nó
vẽ lên lưng voi Hai Bà cái laptop và dí vào tay Ông Gióng cell
phone
Tụi
sắc dân khác bạn con không có vấn nạn nước non
nặng
và ê chề đến vậy
Làm người gốc Việt thật nhiều
điều đáng nói
vấn đề là nói làm
sao
(Buồn muộn cùng thế kỷ –
Chương 3)
Tình cảm với quê hương thật sâu nặng, những tứ thơ
mới lạ giàu suy tư.
Những
ai không còn quê hương
Sáng thức dậy theo giờ kẻ
lạ
Chiều về những con đường
xa
Đêm ngủ lưng không dính
đệm
Những ai không còn quê
hương
Cầm bút viết ra chữ
huyết
Gặp mặt nhau lại thấy
đau
Nhìn trời không thấy đáy
đâu
Những ai không còn quê
hương
Nghe lá rơi không còn
nhẹ
Mây trôi là mây không
về
Nước chảy đến cùng nước cạn
Những ai không còn quê
hương
Bàn tay xòe không
hết
Trái tim cong như trời
cong
Con mắt chỉ nhìn thấy
đất
Những ai không còn quê
hương
Chồng vợ cái con bầu
bạn
Một đời ngơ ngác
chờ
Hai chữ quê hương về
lại
(Bài thơ không thuộc về ai –
Chương 2)
Thực ra, có thể tìm thấy ở mọi câu thơ của
Đỗ Quyên những ẩn hiện tư tưởng. Và suy tư day dứt nhất của Đỗ Quyên là suy tư
về thời gian, về nỗi cô đơn hiện sinh. Buồn muộn cùng thế kỷ là nỗi
buồn thấm thía về thời gian: “Chúng mình bỏ nước/ là bỏ Thời gian/ 25 năm ngơ
ngáo cái ngáo ngơ của những bài thơ không có dấu…”. Và Bài
thơ không thuộc về ai là tiếng kêu bi thương về Thời gian, vìthơ không còn những gì đời còn,
cảnhững ai không còn những gì đời còn… Những tư tưởng này kết đọng từ chính đời sống của anh. Dường như Đỗ Quyên
cố ý tránh né “những vấn đề nhạy cảm” về chính trị và văn hóa. Cũng có thể, anh
là người đã trải nghiệm bước chân trên mọi nẻo đường đời với tư cách một công
dân toàn cầu, với tư cách “Những ai không còn quê hương”, thì những vấn
đề anh quan tâm sẽ không giống với nhà thơ trong nước. Chẳng
hạn:
Các phê
bình gia thi ca lâu nay
(hẳn rớt
môn tâm thần học?)
trong
thơ
không đo
thành thục độ điên
Phân loại
thơ phiến diện vô ngần:
thơ cách
mạng, thơ tình, thơ miền Nam – miền Bắc
thơ yêu
nước, thơ hải ngoại, thơ trong nước,
thơ tỉnh
lẻ, thơ chiếu trên, thơ toàn quốc,
thơ dada,
thơ hậu hiện đại, thơ vân vân
Thiếu: thơ
điên cấp 1, thơ điên cấp 2, thơ điên cấp cứu
Gọi thế e
tranh chữ của y khoa
Nay đề
nghị:
lấy đơn-vị-điên-trong-thơ
là một Bùi Giáng (viết tắt: BG)
Tôi hiểu đây là khát vọng hội nhập toàn cầu
hóa thơ Việt. Đỗ Quyên từng nhận xét thơ Việt có 21 đặc điểm, và thơ Việt còn
chậm so với thế giới. Nhưng những nhà thơ trong nước đa phần không quan tâm
chuyện này. Bởi thơ trong nước được đặt trên một hệ tư tưởng và nghệ thuật khác,
nên thơ mới được phân chia như Đỗ Quyên nhận xét.
- NHỮNG NỖ LỰC CÁCH TÂN THƠ
VIỆT
Ở thời điểm này (2017), sự ồn ào về “cách tân” thơ
Việt đã lắng xuống sau khi phong trào “thơ khó hiểu”, thơ trình diễn… của những
người trẻ như Nguyễn Thúy Hằng, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Hữu Hồng Minh… đầu thế kỷ
XXI đã trở thành quá khứ. Bởi người ta không thấy được những cách tân của “thơ
khó hiểu” đem đến những giá trị gì? Đơn giản vì, nếu công chúng không hiểu thì
ai sẽ đọc thơ? Và thật dễ hiểu khi ít năm trở lại đây, công chúng trẻ xô vào đọc
những trang chưa thành văn, chữ nghĩa chỉ để mơn trớn vuốt ve cảm xúc của cái tôi thời @. Xin
đọc:
“Nếu là
cây
Ta muốn
làm cỏ dại
Sống hoang
sơ chẳng phụ thuộc đất trời
Ta nhỏ bé
nhưng ngang tàng mạnh mẽ
Ta mong
manh nhưng chẳng ngại đêm dài…”
(Nếu – Iris Cao)
“Chán rồi
cây ạ nắng yêu mây
Còn mưa
sao cứ đứng mãi chờ
Thôi thì
ta biết khi mây ấm
Là lúc
nắng lên mưa cúi đầu…”
(Chán – Iris Cao)
Tôi sẽ chỉ nói về những cái riêng của Lòng Hải Lý bên
cạnh thơ trong nước trước “đổi mới”. Từ đây, người đọc có thể nhận ra những đóng
góp của Đỗ Quyên cho thơ Việt trong xu hướng hội nhập toàn cầu
hóa.
Lòng Hải
Lý không “phản
ánh hiện thực” như thơ Xã hội chủ nghĩa. Đỗ Quyên không bám vào kỷ niệm,
không nhào nặn lại những tứ thơ về làng quê, cánh đồng, con cò, giòng sông, hay
những con đường Trường Sơn mùa này đẹp lắm, như thơ trong nước, kiểu thơ “ăn mày quá khứ”. Đỗ Quyên sáng tạo một
“hiện thực” tư tưởng-thẩm mỹ, xin
đọc:
Những ai không còn nơi
hẹn
Khi cái lò gạch cũ mới
rồi
Chí và Thị tối ngày ăn cơm
tiệm
Nằm salon xem vidéo đời lá chuối cháo hoa
xưa
Đừng vào các trang website năm sao (tốn thời
gian, tiền bạc hơn cả các khách sạn năm sao)
Thị dâm không phải là thương dân yêu
nước
Quan dâm không phải là vì dân chủ tự
do
Xưa sau ba lần hẹn mới có thể hành
động
Hẹn là hành động
Bây giờ
Như mặt trời
Mọc lên tức là chiếu
sáng
(Bài
thơ không thuộc về ai – Chương 2)
Đoạn thơ có
bóng dáng của hiện thực, nhưng nếu bám vào cái hiện thực ấy để đọc thơ, thì hiện
thực lập tức vuột khỏi tay người đọc. Cấu trúc logic của đọan thơ bị phá vỡ,
khác hẳn với thơ trước đây lệ thuộc vào cấu trúc. Vì thế không thể kết nối logic
Những ai không còn nơi hẹn với, thị dâm, quan dâm, với thương
dân yêu nước, với dân chủ tự do, với mặt trời/ Mọc lên tức là
chiếu sáng. Chỉ có duy nhất một chữ “hẹn” làm nhiệm vụ giữ cho
đoạn thơ không phân rã. Nhưng nếu vượt qua được ngôn ngữ tường minh của văn bản,
người đọc sẽ thấy tư tưởng hiện lên.
Người đọc thấy
rõ trong tập trường ca Lòng Hải Lý một vài đặc điểm của văn chương hậu
hiện đại. Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng nhận xét: “Cấu trúc, xét về toàn bộ,
không phải là điểm mạnh của trường ca Đỗ Quyên. Các tác phẩm hậu hiện đại thường
có cấu trúc đa chiều; nhưng đa chiều không phải là lỏng lẻo… Nói một cách dễ
hiểu hơn, anh có xu hướng đi về phía
chủ quan hơn là phía khách quan. Điều này thể hiện trên hai hình thức:
trường ca của anh nặng về phía trữ
tình, và nhân vật thu hẹp lại chỉ còn là một người, đó là người nói
(speaker). Người nói hay người kể
chuyện trong trường hợp này lại trùng với tác giả (author). Thứ hai là ngôn ngữ của anh, trong những đoạn thơ
không thành công, nặng về tán thán, tuyên bố, kể lại, thiếu tính trực tiếp vốn
là điểm mạnh trong mạch thơ Đỗ Quyên. “[6]
Tôi không rõ có phải nhà thơ
Nguyễn Đức Tùng nhận diện hậu hiện đại ở xu hướng khách quan, thông qua ngôn ngữ và người
kể chuyện hay không? Tôi hiểu ngược lại, chính cấu trúc lỏng lẻo (như đã nói
ở trên) của trường ca Lòng Hải Lý là
một đặc điểm hậu hiện đại. Hiện thực phân mảnh, sự xóa bỏ ranh giới giữa văn
chương và đời thường, trộn lẫn thể loại, sự phi tâm hóa, ngôn ngữ xô bồ (cả
thanh lẫn tục), sự giải thiêng những “đại tự sự” (Thí dụ, Đỗ Quyên giễu nhại về
việc tự sát của các nhà thơ, về giá trị của thơ ca, về những chủ đề lớn như yêu
nước, cách mạng, nhân đạo chủ nghĩa, tự do, nhân quyền, tôn giáo…) là dấu ấn rất
đậm trong thơ Đỗ Quyên, khiến thơ Đỗ Quyên rất khác với thơ trong nước trước đổi
mới. Dù vậy Đỗ Quyên biết giữ sự chừng mực cần thiết để thơ vẫn là thơ, kiểu thơ
tư tưởng, không phải là “rác”. Đỗ Quyên cũng tự kềm chế diễn ngôn để tinh thần
“giải thiêng” không gây sốc cho người đọc có não trạng quen ”thần tượng hóa”.
Nhân loại bốn loại
người:
sợ và không sợ Sự thật,
biết và không biết Sự
thật.
Đập tảng băng tập quán, rèm chủ thuyết,
ô
giả dối được thiêng hóa
bằng chiếc cu
trần
sẽ giết tiệt cái giả Sự
thật.
(Lòng hải lý – Phụ
lục)
Đây là sự kềm
chế:
Ơn
ba mẹ sang đây
Con
được chọn mình
chọn
đất ở cho mình
Bà lẩm bẩm “Số chúng mày đỏ hơn
ông cha!”
Những lời sánh so con rất
ngại
Con
có thời gian của con. Cha ông có của cha ông
So
sánh là hủy diệt
(Buồn muộn cùng thế kỷ – Chương 3)
- NHỮNG GÌ ĐỌNG
LẠI
Tôi không bận tâm lắm về “truyền thống” hay hậu hiện đại trong
trường ca Lòng Hải Lý của Đỗ Quyên.
Điều tôi tìm kiếm là trường ca này có giá trị gì về tư tưởng và nghệ thuật. Và
Đỗ Quyên có thể đóng góp gì cho thơ Việt đương đại?
Viết trường ca khó, trước
hết là làm sao giữ cho được giòng cảm xúc luôn trào tuôn như núi lửa phun nham
thạch, giữ cho được mạch tư tưởng dũng mãnh như sóng ngầm đáy đại dương và có
được một vốn từ vựng như lúa chất đầy kho. Đỗ Quyên có dư thừa những phẩm chất
này.
Nhờ sử dụng những “thủ pháp”
của văn chương hậu hiện đại, Đỗ Quyên thay đổi liên tục cách thể hiện con chữ
trên văn bản; thay đổi, trộn lẫn thể loại (thơ tự do, Lục bát, thơ Lãng mạn…);
thay đổi nhiều giọng điệu trần thuật; đổi vai Ta nhiều lần trong đối thoại với
Em, với Mẹ, với Con, với nhà thơ tự
sát và cánh nhà thơ chưa tự sát,
với súng đạn, thòng lọng, và với đủ
loại người nhà thơ gặp trên đường Hôm nay đi
tuyến Yonge-Spadina subway.
Bỏ qua nhiều đoạn triền miên suy tư về những điều
riêng tư, người đọc có thể gặp được nhiều đoạn thơ hay về tứ, xúc động về tình,
trăn trở về tư tưởng; và một ấn tượng rất mạnh về chủ thể trường ca: Tác giả Đỗ
Quyên. Bên dưới cái lạnh lùng như băng, cái lý trí căng như thép, chất trí tuệ
khô khan, là con người tình cảm, yêu tha thiết cuộc sống, bi phẫn trước bao
nhiêu cảnh đời đau thương, khao khát và tràn đầy một niềm tin lao về ngày mai,
Sống và Thơ.
Và điều còn lại là một hồn thơ Việt thuần
khiết
Chữ còn –
Thơ còn
Còn tình
Là còn bạn
còn ta
Còn vợ còn
con còn cửa còn nhà
Dẫu có còn
tha phương,
có còn
ghim lòng một ngày về quê về nước
lạy mồ mẹ
mả cha vái hồn cúng vía ông bà
tìm thăm
khuôn trời cũ
hố rác nào
xưa chứa bài thơ tình Số 1…
…Để ta còn
Thơ
như mái
chèo đòi sông nước,
như lá đòi
thu
ngoài cửa
sổ hôm nay.
(Đống chữ – Thân
1)
Tháng 4 năm
2017
Bùi Công
Thuấn
________________________________
*)
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2011
[1]
http://vanviet.info/tho/bon-muoi-nam-tho-viet-hai-ngoai-46-do-quyn/
[2]
Đỗ Quyên, Văn là chữ người viết mãi mà
thành.
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=19560
[3]
http://4phuong.net/ebook/48259157/truong-ca-do-quyen.html
[4]
Phi Hà, Đỗ Quyên và trường ca, những
ghi nhận bước đầu.
[5]
Iris Cao, Nếu – Người yêu cũ có người
yêu mới, tr.126, Nxb Văn Học 2014, in lần thứ tư
[6]
Nguyễn Đức Tùng, Trường ca Đỗ
Quyên