Tôi viết ‘Nếu đi hết biển’

Trần Văn Thủy

 

Tết là phải vui nhưng tôi chẳng có chuyện nào vui cả, mong bạn đọc lượng thứ cho phép tôi kể một chuyện cũ vậy.

Trong mấy cuốn sách tôi mạo muội viết, cuốn Nếu đi hết biển là nhọc nhằn hơn cả (gồm 12 chương). Bởi tôi vốn không có khả năng và không ham việc viết lách mà chỉ thông thạo việc thô thiển là viết kịch bản và lời bình cho những bộ phim tài liệu mà tôi là tác giả.

Giữa năm 2002, William Joiner Center (WJC) thuộc Đại học Massachusetts ngỏ ý mời tôi sang Mỹ tham gia chương trình “Nghiên cứu về cộng đồng người Việt” do Rockefeller tài trợ. Tôi cảm ơn và từ chối vì đơn giản là tôi không biết và cũng không thích “nghiên cứu”. Làm một cái việc rất mất thì giờ, mất nhiều công sức, kết quả là một xấp giấy được bỏ vào ngăn kéo, may ra một năm được vài ba người đọc – theo tôi đó là chuyện vớ vẩn.

Tháng 8.2002, WJC nhắc lại lời mời, tôi rất cảm ơn và vẫn từ chối. Cuối cùng họ chân tình cho biết nhiều người ở Mỹ muốn gặp tôi. Tôi vui vẻ “Thank you very much” và bay qua Mỹ. Nhận 6 tháng lương, các loại vé bay nội địa và một cái thẻ lưu trú. Viết tới đây tôi rất nhớ và cảm ơn mấy người bạn ở WJC đã quan tâm, chu đáo với tôi rất nhiều.

Ngày 1.10.2002 tới Boston, mấy ngày sau tôi tới văn phòng của WJC trong khuôn viên Đại học Massachusetts để chào mọi người, “nhận việc” với ông Kevin Bowen, giám đốc Trung tâm.

Sau một hồi trao đổi về những băn khoăn của tôi trước lời mời và những việc tôi sẽ làm, các bạn ở WJC hóm hỉnh bảo: “Đây là nước Mỹ… có nghĩa là ông muốn làm gì thì làm, ông muốn đi đâu thì đi, muốn viết lách hoặc làm phim gì tùy ông. Nếu không hứng thú làm cái gì cả, tiêu hết tiền thì ông về Việt Nam”. Xin nói thêm rằng sau này tôi có dịp trở lại nước Mỹ nhiều lần với những hội thảo xã hội học, vấn đề chất độc da cam, liên hoan phim thế giới và mọi chi phí trong các chuyến đi ấy đều do người Mỹ hào phóng đứng ra bảo trợ. Người Mỹ thật là vui tính. Tôi nói với các bạn Mỹ ở WJC: "Nước Mỹ của các ông thật tuyệt! Nếu không làm được gì thì tôi đi chơi. Ông biết không, trước khi lên máy bay, một bạn trẻ dặn tôi rằng "Già rồi, làm thế đủ rồi, chơi đi! Không chơi thì cũng chết!”. Nó nói rất thật lòng và có ý thương tôi".

Thế là tôi đi chơi. Một nhà thơ mới quen biết, anh Hoàng Chính Nghĩa đã đưa tôi đi Las Vegas. Lần khác, một cô gái Mỹ rất sành điệu lái xe đưa tôi đi Hollywood; cô ấy rất tốt, có lúc hai đứa dừng xe, ngồi trên đồi cao, ngắm toàn cảnh vùng Hollywood… Rồi mấy bạn trẻ từ Việt Nam sang du học rủ tôi đi xem lá vàng, mùa thu vàng ở vùng Đông Bắc, tiểu bang Vermont… Thiên nhiên nước Mỹ, bầu trời, rừng cây, sóng biển, màu nắng quả là hấp dẫn trong mắt một người làm phim như tôi.

Nhưng, tựa như một ma lực, một định mệnh, tôi bắt gặp nhiều hoàn cảnh, nhiều câu chuyện trong bà con người Việt mà tôi tiếp xúc. Vui thì tôi chóng quên, buồn thì tôi bị ám ảnh, ám ảnh nhiều lắm, nhất là chuyện vượt biên, vượt biển, cải tạo, tù tội…

Bất giác trong tôi, mơ hồ một mặc cảm tội lỗi…

Rồi một lần đi trên xa lộ mênh mông với hơn chục làn đường, dài hun hút, ngước nhìn bầu trời, những đàn chim bay rất cao về phương Nam, bên phải là Đại Tây Dương sóng đập ầm ầm vào vách đá tung bọt trắng xóa. Tôi chợt rùng mình, như thấy một sự mách bảo từ rất cao, từ rất xa, rằng: Trời Phật đang cho ngươi một cơ hội để làm một việc có ích! Tôi lặng người…

Từ đó tôi không đi chơi nữa, tôi quyết định toàn tâm toàn ý vào một công việc rất mơ hồ và không rõ cái đích ở đâu, chỉ đinh ninh là nó sẽ có ích.Tôi không rong chơi được nữa, dù lời người bạn trẻ vẫn văng vẳng bên tai: “Già rồi! Làm thế đủ rồi! Chơi đi! Không chơi thì cũng chết!”.

Tôi đặt bút viết những trang đầu, rồi cố gắng viết ra được khoảng năm sáu mươi trang, suôn sẻ. Do có thói quen “đội mũ kim cô ô-tô-ma-tích” (trong giới văn nghệ sĩ Việt Nam không ít người chỉ cần nghĩ khác cấp trên là tự nhiên thấy đau đầu), tôi luôn nghĩ đến người đọc, người đọc trong nước và đặc biệt là người đọc ở Mỹ. Tôi bị khựng lại hoàn toàn. Tôi không thể viết được, dù cố gắng, dù có tấm lòng, dù chân thực, dù khách quan thì những gì tôi viết ra vẫn sẽ bị săm soi, mổ xẻ, suy diễn bởi một điều đơn giản: Tôi từ Việt Nam sang! Có biết bao điều cần nhắn gửi, cần tỏ bày, cần suy ngẫm, nhất là tôi đi nhiều tiểu bang, gặp nhiều người, thăm nhiều gia đình, lắng nghe và nói chuyện đến gần một trăm buổi ở các đại học danh tiếng nước Mỹ.

Hoàn cảnh xui khiến, nghề nghiệp mách bảo, có một cách làm khả dĩ hơn, người đời dễ cảm thông hơn, đó là "đè" mấy ông bạn văn chương, trí thức, cởi mở để trao đổi, trò chuyện về chính cuộc sống và suy nghĩ của người Việt ở đây. Ôi đó là thượng sách, khỏi phải đau đầu, khỏi phải viết, chỉ việc ghi chép trung thực và cam đoan với nhau: Nếu công bố thì phải “y như bản chính”.

Tôi nhẹ cả người. Nhưng cũng mất nhiều công sức lắm, bàn thảo với các anh chị ấy nhiều lắm, cuối cùng thì toàn bộ bản thảo được chỉnh lý, đánh máy đóng bìa, chốt lại trên 200 trang để nộp cho WJC, hai tuần trước khi tôi rời nước Mỹ.

Thế rồi, “trời xui đất khiến” thế nào, bỗng dưng bố Nguyên Ngọc lù lù tới Boston, ở cùng nhà, đi dạo, chuyện trò, thăm hỏi linh tinh: “Thủy, cậu sang đây làm gì?”… “Thế à? Viết xong chưa? Đưa tớ đọc chơi được không?”…

Bố Nguyên Ngọc đọc ba đêm, sáng dậy chưa ngồi vào bàn ăn, mắt còn đỏ vì thức khuya, đặt tay lên tập bản thảo và nhìn vào mắt tôi: “Thủy! Cái này nó rất cần và có ích”. Tôi không tin ở tai mình, hỏi lại: “Anh bảo sao?”. Nguyên Ngọc nhắc lại: “Cái này rất cần và có ích”. Tôi nóng ran cả người. Bố này mà đã nói là tôi tin, nhưng chẳng lẽ cái “công trình nghiên cứu” dơi chẳng ra dơi, chuột không ra chuột này mà lại cần và có ích sao? Một người bạn đứng bên nghe chuyện, anh không khen chê, không bình luận mà chỉ thủng thẳng: “Tập này mà in thì cậu không về nước được! Về nước thì không bao giờ có chuyện in. Chưa có thằng nào qua đây in sách kiểu này mà dám vác mặt về nước”. Chỉ vài giây im lặng, tôi nói rành rọt với nhà văn Nguyên Ngọc: “Nếu anh bảo cái này nó cần và có ích thì chắc chắn tôi in ngay và tôi cũng sẽ về nước ngay”.

Ngay hôm sau, tôi bay từ Boston qua Las Vegas đến Los Angeles. Đón tôi ở sân bay là nhà văn Hoàng Khởi Phong và Cao Xuân Huy…

Cuốn Nếu đi hết biển ra đời lòng vòng là vậy. Chẳng có âm mưu gì đáng ngại, chẳng có tài cán gì đáng nể.

*

Cuốn Nếu đi hết biển ra đời ngay lập tức được sự quan tâm, được mua, được đọc và được cả búa rìu tới tấp của một số nhà văn người Việt tại Mỹ. Đến nỗi họ cất công viết hẳn một cuốn sách dày tương tự với tựa đề Trần Văn Thủy: Chuyện không tử tế.

Các cụ ta xưa nói chẳng sai: “Trong cái họa có cái phúc”, nhờ vậy sách bán rất chạy và liền sau đó, năm 2004, nhà văn Hoàng Khởi Phong đã giúp tôi tái bản. Cũng vào thời gian đó, mấy ai biết được rằng cơ quan hữu trách Việt Nam đã ra một văn bản trong đó có đoạn phê phán tôi nặng nề vì viết Nếu đi hết biển. Câu chuyện vui này tôi đã kể và in trong cuốn Chuyện nghề của Thủy phát hành hơn 10 năm nay bởi Nhà xuất bản Hội Nhà Văn và Phương Nam Book.

Như trên tôi đã thưa: Tất cả là chuyện cũ! Cả đời tôi làm phim, đi trên con đường độc đạo. Từ tháng 9.2011 đến tháng 3.2012, giáo sư Michael Ronov, Hiệu phó Trường Điện ảnh North Carolina và TS. Dean Wilson đã sang Việt Nam làm bài phỏng vấn tôi. Ngày cuối cùng các ông ấy hỏi tôi:

– Động cơ nào giúp ông đi đến tận cùng trên con đường làm nghề như thế?

Tôi đã trả lời ngay, không một giây suy nghĩ:

– Tôi yêu đất nước này! Tôi có một tấm lòng tha thiết với xứ sở đã sinh ra mình và tôi muốn góp phần làm cho đất nước này trở nên tốt đẹp hơn. Tôi khát khao làm sao cho cuộc sống của con người phải xứng đáng với sự hy sinh. Đó là xuất phát điểm của tôi trong mọi hành xử.

*

Giờ đây, cũng như số đông các cụ già yếu cùng thế hệ đã hứng chịu bom đạn, đói rét, ngạt hầm, cơ cực và cả những phi lý trong quá vãng, chúng tôi chẳng mấy vui mừng mỗi độ Tết đến Xuân về.

Không sao đâu. Vạn sự trên đời này tất cả rồi sẽ qua đi mà…

   

CHƯƠNG HAI

Nếu đi hết biển

Nhớ lại, từ những năm ấu thơ tôi đã yêu tha thiết lời ru "Con cò lặn lội bờ sông":

Cò ơi sao nỡ quên công mẹ già?
Hỏi rằng ai đẻ cò ra
Mà cò lại bỏ mẹ già không nuôi
Nhớ khi đi ngược về xuôi
Mẹ đi bắt tép mẹ nuôi được cò
Cò ơi cò bạc như vôi
Công cha, nghĩa mẹ cò còn nhớ không ?
À á à ơi…

Trong tâm trí thuở thiếu thời của tôi, lời ru ấy gắn với những năm tản cư về quê, với lũy tre làng, tiếng võng, với những buổi chiều nắng dát vàng trên những cánh đồng lúa. Gắn liền với hình ảnh thân thương của thầy mẹ tôi theo cái cách: “Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời”.

Thế rồi gần nửa thế kỷ sau, cuộc đời đưa đẩy, khi thực hiện một bộ phim tài liệu dài với sự bảo trợ tài chính và bản quyền của Nhật Bản, tôi vẫn không thể quên những ký ức xa xưa, đầu đời ấy. Ở bộ phim do tôi làm chủ nhưng Made in Japan với tựa đề Có một làng quê, đoạn kết phim là như thế này:

“… Thuở tôi còn nhỏ, gia đình tôi tản cư về quê. Người chăm lo, nuôi dạy anh em chúng tôi là một bà vú nuôi nhà quê mà chúng tôi vẫn trìu mến gọi là thím, thím Nhuận.

Mỗi buổi tối, sau những công việc vườn tược, xay lúa, giã gạo, khi gà đã lên chuồng, thím mắc võng ra hiên nằm kể chuyện cho chúng tôi. Khi ấy tôi chưa hề biết rằng bà không biết chữ mà chỉ thấy bà thuộc lòng những chuyện thơ dài suốt đêm này qua đêm khác.

Thế rồi một đêm, dưới vòm trời bí ẩn đầy những vì sao lấp lánh, trong trí tưởng tượng ấu trĩ của tôi bỗng nảy ra một dấu hỏi to tướng về sự hữu hạn và vô hạn.

Tôi bắt đầu lục vấn thím tôi:
– Đi hết làng ta thì đến làng nào hả thím?
– Làng ta gọi là làng An Phú. Đi hết làng ta thì đến làng An Lễ.
– Đi hết làng An Lễ thì đến làng nào?
– Đi hết làng An Lễ thì đến làng An Phong, An Nhân, An Đạo.
– Đi hết làng An Đạo thì đến đâu?
– Đi hết làng An Đạo thì đến biển!
Bà tự tin giảng giải cho tôi. Tôi vô cùng khâm phục sự hiểu biết rộng lớn của bà. 
Rồi bỗng nhiên tôi nhỏm dậy hỏi thím:
– Thế nếu đi hết biển thì đến đâu hả thím?
Trong đêm tối, thím tôi im lặng. Từ ngày có trí khôn chưa bao giờ thấy thím tôi buồn đến thế. Thím buồn bã trả lời:
– Đi hết biển đến đâu thì thím không biết.

Tôi dần lớn khôn và thím tôi âm thầm qua đời khi tôi ở nước ngoài. Bà không có con, phần mộ của bà thực là ảm đạm. Một lần thắp hương bên mộ thím, tôi xót xa thì thầm:    
– Thím ơi! Cháu thương thím, vì cho đến lúc chết thím cũng không biết đi hết biển là đến đâu. Bây giờ cháu biết rồi thím ạ. Nếu đi hết biển, qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi thì cuối cùng lại trở về quê mình, làng mình thím ạ! Cháu sẽ dành dụm để xây cho thím một ngôi mộ đàng hoàng. Thím cho phép cháu đề lên bia mộ mấy hàng chữ như thế này:

Nơi đây yên nghỉ thím tôi
Bà già nhà quê mù chữ 
Người thầy đầu tiên của tôi…

Người Nhật bỏ tiền ra cho tôi làm phim, hơn thế nữa, muốn làm thế nào thì làm. Tôi đã nói về “cái tôi”. Những bộ phim Made in Vietnam, làm về “cái tôi” là một điều khó, rất khó.

Nhân đây cũng phải nói thêm rằng, nhiều năm xa quê, trở lại không còn thấy những tên làng như ngày xưa nữa. Tôi buồn lắm. Sử chép rằng ngày xưa, vào năm Tự Đức thứ 10 (1829) khi quan Dinh điền Sứ Nguyễn Công Trứ cùng cụ tổ lập ấp của chúng tôi là cụ Trần Trung Khánh quai đê, lấn biển, mở mang bờ cõi, lập nên tổng Ninh Nhất, đặt tên làng gồm Cửu An: An Lạc, An Lễ, An Phú, An Phong, An Nhân, An Nghĩa, An Đạo… Người xưa đặt nền móng đạo lý và kỳ vọng tương lai cho con cháu ngay từ tên gọi của làng quê. Thế mà bây giờ con cháu văn minh, cách tân cho gọi nôm na là Xóm 1, Xóm 2, Xóm 3… như cách gọi trong trại lính. Những tên xưa dần mai một trong ký ức của các bậc già cả. Tiếc lắm!

Quê tôi người đi đạo, đi lương xấp xỉ bằng nhau. Sau 1954 người ta đi Nam cũng nhiều và sau 1975 người ta tiếp tục sang Mỹ cũng lắm. Dễ hiểu thôi, nơi đó là miền biển của tỉnh Nam Định, thuộc giáo phận Bùi Chu, chỉ qua con sông Ninh Cơ là đến giáo phận Phát Diệm.

Giờ đây trên đất Mỹ, tiếp xúc với cộng đồng người Việt, tôi không khỏi băn khoăn về cái điều tâm huyết tôi nói bên mộ thím tôi: “Nếu đi hết biển qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi thì cuối cùng lại trở về quê mình, làng mình…”.

Tôi không biết trong lịch sử thịnh suy của đất nước tôi có thời điểm nào, hoàn cảnh nào dẫn đến sự ly tán lòng người sâu thẳm, dẫn đến việc hàng triệu người chạy ra biển ly hương bất cần mạng sống đến thế không. Nhưng tôi biết rất rõ không ít người Việt xa xứ “Qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi” mà cuối cùng không thể “trở về quê mình, làng mình” được…

 

Nguồn: https://nguoidothi.net.vn/toi-viet-neu-di-het-bien-42510.html

Vài trích đoạn từ cuốn Trong Đống Tro Tàn của Trần Văn Thủy *

Đạo diễn Trần Văn Thủy (ký họa của họa sĩ Hà Bắc)

TIẾNG VỖ TAY TO NHẤT VÀ DÀI NHẤT

Nhớ lại, cách đây không lâu Larry Berman, nhà sử học, nhà văn người Mỹ tới Hà Nội, mời chúng tôi tới dự buổi ra mắt bản dịch tiếng Việt cuốn “Điệp Viên Hoàn Hảo” của anh tại trụ sở nhà khách Bộ Quốc Phòng ở phố Phạm Ngũ Lão.

Mọi người hồ hởi, ca ngợi tác giả, tác phẩm và nhân vật của cuốn sách. Tôi chỉ ngồi nghe thôi, nhưng lại là người được mời phát biểu sau cùng. Tôi đã nói vắn tắt những cảm nghĩ xung quanh cuốn sách đó và tôi không ngần ngại bày tỏ nghi ngờ sự trung thực của bản dịch. Trước hàng trăm quan chức quân đội, tình báo, nhà văn, nhà báo, máy ghi âm và máy quay phim tôi đã thưa một số điều mà tôi cho là cần thiết:

Larry Berman! Anh đã kiểm tra lại bản dịch tiếng Việt cuốn “Điệp Viên Hoàn Hảo” (Perfect spy) của anh chưa? Ở nước Mỹ của anh không có Bộ Văn Hóa, không có Ban Tuyên Huấn, không có Hội Đồng Lý Luận Trung Ương thì nghĩ gì anh viết nấy. Còn ở đây, ở Việt Nam này có đầy đủ những thứ đó, bởi vậy, cho phép tôi được nói thật, cũng là một lời nhắc nhở anh: Tôi không tin bản dịch Tiếng Việt cuốn sách tâm đắc của anh được in nguyên si như bản gốc. Tôi bảo đảm với anh là nó đã bị “Thiến” đi không ít chỗ, bị kiểm duyệt kỹ lưỡng. Tôi đã kiểm chứng trên Internet trước khi tôi tới đây chia vui với anh…

Bất ngờ là toàn hội trường vang lên tiếng vỗ tay to nhất và dài nhất của buổi giao lưu hôm đó.

Và để kết thúc phần phát biểu, tôi đã nói tiếp như thế này:

– “Thưa quý vị! Xin quý vị cho phép tôi được bộc bạch cái điều tôi thường nghĩ: Thượng đế sinh ra chúng ta, ban cho chúng ta mỗi người một cái miệng. Cái miệng ấy để nói, để bày tỏ những điều chúng ta nghĩ. Không có lý do gì cái miệng do thượng đế ban cho chúng ra lại phải đi nói những điều người khác muốn”

Cái câu “Ca ngợi thượng đế” này tôi còn nhắc lại ở nhiều nơi mà tôi tới nói chuyện, chiếu phim nhân kỷ niệm 30 bộ phim Chuyện Tử Tế ra đời. Và đặc biệt được hưởng ứng khi ngài Giám đốc Đại Chủng Viện mời tôi tới nói chuyện ở Đại Chủng Viện Sài Gòn trước 600 chủng sinh, các linh mục và giới trí thức. Tất nhiên nói chuyện ở Đại Chủng Viện mà ca ngợi thượng đế thì chẳng có gì là sai và lại được vỗ tay.

Trở lại với đề tài cấm đoán, kiểm duyệt tôi xin thưa một cách trân thành trong tinh thần xây dựng rằng: Với khẩu hiệu “Hội nhập quốc tế sâu rộng” và “Cải cách thể chế toàn diện” của chính nhà nước Việt Nam khởi xướng hãy nên làm ngay cái việc có ích, bức thiết cho sự đi lên của xã hội Việt Nam, một việc trong tầm tay mà không tốn kém gì, đó là xóa bỏ sự kiểm duyệt thô bạo, vô lý, trước mắt chí ít với các tác phẩm văn học nghệ thuật hiện nay. Điều đó bức thiết đến mức không có từ ngữ nào diễn tả nổi. Điều đó cũng nhắc nhở chúng ta rằng, trong thời đại thông tin bùng nổ, toàn cầu hóa này, cấm đoán, kiểm duyệt thô bạo với văn học nghệ thuật là một chuyện rất dại dột, là chuyện “Vác gậy ông đập lưng ông” mà thôi.

Rồi tôi cứ nghĩ dưới thời cai trị tàn bạo của thực dân Pháp nửa đầu thế kỷ trước mà họ thực thi một chính sách kiểm duyệt chỉ bằng 50% ngày nay thì chúng ta đâu có những Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh … Đâu có những Văn Cao, Phạm Duy, Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Tô Ngọc Vân, Bùi Xuân Phái …Và rồi từ đó cũng khó có thể có những bậc tiên liệt kiệt xuất ở đầu thế kỷ 20, những Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám … Và hàng trăm, hàng nghìn kẻ sỹ thành danh thời đó.

Vâng! Vấn đề sẽ rất đơn giản nếu như mục đích tối thượng của chúng ta là: Vì con người, vì dân tộc, vì tổ quốc, vì tương lai của đất nước này. Còn nếu vì những cái khác thì xin nói một cách thật vắn tắt: “Thôi rồi! Lượm ơi!” đành “Bó tay.com”. Đành “Bó tay.com” vì thế hệ chúng tôi đã già và …hèn.

KỊCH BẢN VỀ TRỊNH CÔNG SƠN

Có lẽ cũng như nhiều đồng nghiệp theo đuổi cái nghiệp làm phim tài liệu, chúng tôi buộc phải nghĩ nhiều, ghi chép và viết nhiều nhưng làm thành phim thì chẳng được là bao.

Làm phim nó phụ thuộc vào phép tắc, tiền bạc, phương tiện nhiều hơn hẳn so với các nghề khác như làm báo, viết sách, vẽ tranh… nhất là chúng tôi lại làm phim theo hệ cinema, bằng phim nhựa 35mm. Nên làm được cái nào biết cái nấy, mừng cái nấy. Nhiều khi ý tưởng hay mấy, kịch bản lạ mấy, quyết tâm đến mấy cũng đành bỏ xó. Tiếc thật!

(…)

Một kịch bản khác tôi tâm đắc vô cùng đó là khi tôi viết về Trịnh Công Sơn năm 1980. Có lẽ khi ấy vừa ở Nga về, vừa làm xong bộ phim “Phản bội” nổi tiếng (1979 – 1980), đang “hăng tiết vịt”, tôi đã viết về Trịnh Công Sơn. Tôi kể những ngày tháng nằm hầm ở chiến trường miền Nam (1966 – 1969), mở trộm đài Sài Gòn, nghe nhạc Trịnh mà nổi da gà. Những Đại bác đêm đêm vọng về thành phố/Người phu quét đường dừng chổi lắng nghe/Những Người con gái Việt Nam da vàng… Con người miền Nam, hơi thở miền Nam, nhạc Trịnh ám ảnh tôi. Sao lại yêu thương đến thế! Sao lại da diết lay động đến thế! Vấn đề tôi đặt ra trong kịch bản đó không chỉ là những giai điệu, những ca từ hút hồn của nhạc Trịnh mà tôi tự vấn: Mảnh đất nào, văn hóa nào, phẩm hạnh nào đã nuôi dưỡng một tâm hồn trong sáng và chân thiện đến thế, đã sản sinh ra con người chân tình đến thế? Nếu như Karl Marx nói: “Con người là sản phẩm của tổng hòa mọi quan hệ xã hội” thì cái xã hội miền Nam đầy rẫy những “Tội ác và tàn dư của Mỹ Ngụy” ấy tại sao lại sản sinh ra Trịnh Công Sơn?

Tôi có một hạn chế, một thói xấu là bất luận một sự việc gì, một câu chuyện nào, với mọi người có khi chỉ là thoảng qua, cho qua, nhưng tôi thì cứ dò dẫm tới sự tận cùng có thể. Bởi thế ý tưởng nào, kịch bản nào nếu viết với sự khát khao thật sự của lòng mình thì khó mà được xem xét và chẳng bao giờ thành phim. Đấy là một thực tế, một kinh nghiệm rất đơn giản mà chẳng sách vở nào, chẳng nhà trường nào, cả trường VGIK, cả thầy Karmen dạy bảo tôi.

Và từ đó, từ 1982 bắt tay vào “Hà Nội trong mắt ai”, “Chuyện tử tế”… tôi có cách “viết kịch bản” hoàn toàn khác. Những gì chung chung, lớt phớt, vô thưởng vô phạt tôi viết ra đầy đủ, mạch lạc và trình với cấp trên. Những gì tâm đắc, những gì khoái chí, những gì giật gân, những gì phạm húy tôi chỉ ghi vào sổ tay “tự sướng” và rắp tâm bằng mọi cách làm bằng được.

Mọi người nhất là đám bạn bè thân thường vu cho tôi là “Quái” – Thủy Quái. Thực lòng mà nói, trên cõi đời này chẳng ai muốn quái. Ai cũng muốn sống chân thành, giản dị, mộc mạc, “nhân chi sơ” mà. Nhưng có lẽ những giả dối, những lừa gạt, những sức ép bạo quyền nó nhào nặn con người thành “Quái”. “Quái” để thích nghi, để tồn tại. Chẳng phải chuyện “Quái” trong nghề làm phim chúng tôi, trong văn học nghệ thuật mà cái “Quái” đang bao trùm lên xã hội này, dân tộc này. Tiếc rằng “Quái” để hướng tới cái thiện thì ít mà hướng tới cái ác thì nhiều.

Nghĩ lại khi viết kịch bản về Trịnh Công Sơn, tôi thật ngây thơ đến ngớ ngẩn. Trong Nam, Trịnh Công Sơn còn phải tập trung đi đào đất để chỉnh đốn lại tư tưởng mà tôi ngồi ở Hà Nội viết kịch bản xin làm phim để ngợi ca Trịnh thì tôi ngu muội, u mê đến cùng cực.

May mà mọi chuyện rồi cũng qua đi. Năm 1993 tôi nhận làm cho Đài Channel Four của Anh một bộ phim tài liệu 35mm, dài, công phu, đi xuyên Việt, đoạn kết của bộ phim đó tôi đã được thay mặt những người ngưỡng mộ, mở lòng bày tỏ với Sơn trong phim A Spiritual World (Một cõi tâm linh). Và bây giờ tên Trịnh Công Sơn đã là tên của những con đường ở Huế, Sài Gòn, Hà Nội. Trong dịp đặt tên đường Trịnh Công Sơn ở Hà Nội, một vị có chức quyền, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, trong diễn văn có nói rằng: “Trịnh Công Sơn là người của mọi người, người của mọi thời”. Nếu các vị nói được câu nói đó sớm hơn thì đỡ khổ cho cuộc đời này biết mấy!

*Trong Đống Tro Tàn của Trần Văn Thủy, do Người Việt (California) xuất bản năm 2017. Các tiểu tựa trong bài này do DĐTK đặt.

Nguồn: https://www.diendantheky.net/2020/04/vai-trich-oan-tu-cuon-trong-ong-tro-tan.html

Đã bảo mà: Chuyện lão Thủy nghe cả ngày không hết!

Được sự đồng ý của ĐD Trần Văn Thủy, xin chia sẻ mấy email anh tâm tình với bạn bè trong những ngày qua về đôi điều đáng suy ngẫm – Mạc Văn Trang.

TRẦN VĂN THỦY: (Ngày 29/1/2020)
Thưa các anh chị!
Tôi rất cám ơn chị Chi Lan, anh Gia Hảo, Chi Mai đã sốt sắng dự kiến tổ chức cuộc gặp bạn bè với anh Nguyễn Ngọc Giao và phu nhân- chị Phạm Tư Thanh Thiện khi họ từ Pháp về Sài gòn và ra Hà Nội.
Tôi tán thành và rất cảm động về tình nghĩa của Anh Chị Hảo – Lan với bằng hữu.
Vừa bận, vừa mệt, sức khỏe của Chị chưa tốt, bận rộn mấy ngày tết vừa qua… Lại vất vả vì chúng tôi?
Điều e ngại duy nhất của tôi là sợ các chị, anh vất vả quá và cái lưng của chị Chi Lan chưa bình phục?

Continue reading “Đã bảo mà: Chuyện lão Thủy nghe cả ngày không hết!”