Trịnh Y Thư, nỗi hoang mang của gã ôm đàn

Nguyễn Đức Tùng

clip_image002


Trịnh
Y Thư quan tâm đến sự chính xác, tiết kiệm chữ, nhưng anh cũng để cho khả năng
nhạy cảm với mặt trái của xã hội, sự tra tấn, nỗi đau khổ làm bùng vỡ ngôn ngữ.
Anh ý thức về sự hữu hạn của kiếp người, thứ sự thật tương đối, về cái chết, mặt
tối đen của số phận, các ảo tưởng. Trịnh Y Thư thuộc những nhà thơ hiện đại,
tiến rất xa tới gần các biên giới, trở thành một người lạ, đôi
khi.


Gió tây bắc hốt hoảng bữa cơm chiều đạm bạc


như
một kẻ dại khờ tìm ánh lửa khoan dun
g


làn tóc rối che giấu


niềm cảm thông vội vã


rồi vụng trộm khép lại


ước vọng thuở đầu đời


(Phế tích của ảo ảnh
[4])


 
những bài thơ của anh như lời độc thoại, như một người đứng trên sân khấu nhưng
quay lưng lại với khán giả, tự nói với mình, nhắc đến những kỷ niệm và những ấn
tượng mà chỉ mình hiểu được. Khi đó bài thơ của anh đóng kín, sự cảm thông giữa
người đọc và tác giả bị tối thiểu hóa. Tuy nhiên, giữa những độc thoại như thế,
với cảm giác cô quạnh, giận dữ làm ta ngạc
nhiên:


That
stupid duplicitous body


I just
want to throw away 


Cái
thân thể trắc nết ngu xuẩn này


Tôi muốn vứt cho
xong
1


 Là sự giải thích dịu
dàng của anh:

But
listen. I also hear the pipes clanking

Nhưng nghe này. Tôi còn nghe tiếng
ống sắt rổn rảng
1


(Song of The
Night)


 Như mở một cánh cửa,
bạn tưởng đã hoàn toàn đóng kín.

Sự
chuyển hóa tâm linh trong thơ Trịnh Y Thư là sự thay đổi của những tình huống
bên ngoài, nội tâm hóa chúng. Cảnh vật trong thơ anh không còn là sông núi, phố
phường, hàng xóm nhưng chính là chiều sâu của tâm thức, là tâm cảnh. Giọng điệu
trong thơ là một thứ giao hòa giữa thế giới riêng tư, bí ẩn và thế giới công
cộng, bên ngoài, xã hội.

Họ là ai tôi tự hỏi

những bản văn tự không ấn giấu


xung
quanh một bến nướ
c


có tiếng hát phù trầm


quay quắt một đêm mưa


hàng
cau đánh sập
sân từ đường


vỡ vụn những viên gạch


khép nép nghìn thu.


(Phế tích của ảo ảnh
[3])


 Đôi
khi không phải anh trở lại căn nhà cũ, mà chính tình yêu cũ trở về với anh,
trong giấc mộng, bên kia tường, trên chiếc bàn đầu giường, dưới ngọn đèn. Những
hình ảnh phát ra tiếng nói của chúng, mạnh mẽ đến nỗi những bày tỏ của anh
chính là tự biểu hiện của sự vật, những dàn xếp hóa ra là ngẫu hứng, hiện thực
chẳng qua là phản chiếu của chính nó.


Nơi
tôi đứng chiều nay


những
mái nhà nâu


những
chiếc cầu lung linh bóng nước


sẽ tan
biến cả và còn lại


chỉ là
phế tích của ảo ảnh – rớt rơi


(Phế tích của ảo ảnh
[1])


 Trịnh
Y Thư nói về ảnh hưởng của quá khứ lên hiện thực hôm nay. Anh hoài niệm nhưng
không dừng lại ở đó, như một người vừa ra khỏi căn nhà cũ, ngước nhìn bầu trời,
lắng nghe tiếng động của cuộc sống, ghi nhớ với một cảm quan sắc bén bất ngờ
của người từ xa tới. Mọi vật trở nên sắc sảo, đường nét đậm hơn, mùi vị trở nên
mạnh mẽ hơn đối với một người như thế. Đó là sự chú ý vượt ra ngoài ngôn ngữ.
Trịnh Y Thư giống nhiều nhà thơ thuộc thế hệ của anh, một nửa Việt Nam, một nửa
đời sống xứ người, đôi khi họ tự gọi mình là kẻ lưu vong.

Thốt nhiên tôi quay về hướng mặt trời

một ngày thoát thân – xác quạ lót đường đi


những đám mây tích vô tích sự


(Phế tích của ảo ảnh
[2])


 Anh
tái hiện năng lượng của các chi tiết đời sống, sự cô đơn, lòng thương tiếc, hối
hận, những sai lầm. Thơ tự do của anh có nhạc tính. Có lẽ vì anh là người chơi
nhạc. Và mặc dù không hay xuất hiện trước công chúng, Trịnh Y Thư đã dùng một
ngôn ngữ có yếu tố giao tiếp, đối thoại.

Cơn
gió mùa hè thổi qua thành phố

Vắng
bóng những đôi tình nhân


(Cơn gió mùa hè)

hoặc:


Tôi là
người về từ đại dương trầm tích


(Phế tích của ảo ảnh
[10])


 Tính
phức tạp và đa giá trị của thơ đương đại muốn người đọc không ngừng thiết lập
và thiết lập trở lại mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa hiện tại và
quá khứ. Sau cuộc chiến tranh Việt Nam, lịch sử bạo động, những dối trá và giết
người, thơ ca có thể làm được điều gì? Không nhiều
lắm.

Tập
thơ Phế tích của ảo ảnh gồm nhiều
bài Trịnh Y Thư viết trong những khoảng thời gian khác nhau, nhan đề là tên của
phần đầu tiên của tập thơ gồm ba phần: Phế tích của ảo ảnh; Trong
bóng tối ta chẳng tìm thấy nhau;
Con nước vô danh2. Có những bài thơ dài, những bài lục bát, thể haiku,
thơ có vần và thơ tự do, thơ năm chữ và thơ Tân Hình thức, như vậy trong một
cuốn sách khoảng một trăm năm mươi trang, người đọc có thể nhìn thấy gần như tất
cả những thể thơ Việt phổ biến trong mấy chục năm
nay.


Bao
nhiêu năm ở nơi đây


tôi
yêu bóng tối phủ đầy quanh tôi


(Con nước vô danh
[8])


 Trịnh Y Thư cũng có
những câu thơ cũ, rõ ràng chịu ảnh hưởng của người
khác:


hồn ai
rụng giữa giang hà


tình xanh quyến niệm trên tà áo


(Con nước vô danh
[26])


 Tuy
nhiên bài thơ của anh thường có khả năng vượt qua sự lẫn lộn giữa một bên là
các yếu tố lịch sử, bằng chứng, và một bên là ký ức, trí tưởng tượng. Công
chúng đọc thơ ngày càng nhỏ lại nhưng không chịu biến mất. Sự sống sót của họ,
công chúng đọc thơ, là sự sống sót của tác giả, của tâm hồn nhân loại. Chỉ riêng
điều đó thôi cũng đủ an ủi chúng ta.

Tôi trở về đây vòng quay của đất trời tê tái

thăm hỏi những con người bị lãng
quên


nằm chen chúc


dưới đám ruộng


chiêm trũng


lúc giao mùa phất phơ.


(Phế tích của ảo ảnh
[3])


 Herbert
Marcuse từng viết rằng, sau thảm kịch Auschwitz mà còn làm thơ thì thật là có
tội. Thảm kịch Auschwitz của dân tộc Việt Nam đã đến từ lâu, không phải ai cũng
đều nhận ra.


Tôi
vừa chia tay một linh hồn


tôi
vừa gieo vào một đôi mắt


tôi
vừa ôm ấp một mái đầu


tôi
vừa giẫm nát một con sâu


tôi
vừa dụi mắt giấc mơ nào


(Những phiến lá từ
tâm)


 
những giây phút chuyển hóa siêu việt, khi anh đi tìm sự mới mẻ, tìm một tương
lai khác và do đó một hoài niệm kiểu khác. Sự giao cảm, đồng cảm của tác giả
với người đọc qua những thời gian khó khăn, đã đồng hóa tác giả với số phận của
những nhân vật. Tâm lý học của một cộng đồng hay một dân tộc có lẽ chi phối tâm
lý một cá nhân ở mức sâu xa đến nỗi trong một số trường hợp chúng chỉ là
một.

Tôi nhìn thấy gì trong đôi mắt lá răm


ở nơi có ánh chiều tháng Chạp


và những quả ổi mơn mởn xanh


rầu rầu liếp mía


con
gi
ẻ cùi phụ họa


lời ru mái nhà nâu hiu hắt à ơi.


(Phế tích của ảo ảnh
[4])


 Liệu
các nhà thơ có trách nhiệm gì đối với xã hội hay không? Thật khó trả lời. Tôi
nghĩ nhà thơ chỉ có trách nhiệm trong chừng mực mà đề tài của một bài thơ cụ
thể hướng về các vấn đề xã hội, chính trị hay luân lý. Ngoài ra, anh ta là một
kẻ hát rong, một người đi lang thang trên đường, một người viết không thuộc vào
một hệ tư tưởng nào, không phục vụ cho một thể chế nào. Việc nhà thơ bầu cho một
chính khách hay chính thể trong đời thực không can hệ gì đến tiếng nói của nhà
thơ ấy trong tác phẩm. Chính nhờ thế mà văn chương trở nên nhẹ nhõm, và sự an
ủi là cái nhìn trong sáng đối với sự thật.


Bóng
ma quá khứ không làm cô sợ hãi


miểng
bom cắm trên hương thờ trở thành linh
thiêng


(Phế tích của ảo ảnh
[4])


 Nơi
Trịnh Y Thư, thơ ca đến gần sự kết hợp giữa Tây phương và Đông phương. Anh ít
nói về mình, thường không tự bày tỏ, dưới một vẻ ngoài xông xáo là một tâm hồn
nhạy cảm, có lúc yếu đuối, có khi mặc cảm, bên dưới sự kiềm chế, một hình thức
gần như kỷ luật tinh thần là sự sôi nổi phóng khoáng, mặc dù không hoàn toàn
hoang dại. Bên cạnh một cố gắng kết nối với dĩ vãng và truyền thống là tâm thức
chia lìa, tự tách rời của một người ngày càng đi xa nguồn cội, không hẳn là hạnh
phúc nhưng tự bằng lòng với chọn lựa của mình. Tham vọng của thơ trữ tình là
chinh phục tâm hồn của người khác và, do đó, lịch sử kiến tạo nên họ. Trịnh Y
Thư không viết về chính trị nhưng sự bày tỏ của anh đều có thể đưa đến những
diễn dịch, xa hay gần. Hoài niệm chỉ là
hình thức khổ đau mới
, câu nói của Charles Baudelaire, mà Trịnh Y Thư ghi
trong phần dẫn đề, nói đúng tâm trạng của người đọc và người viết hôm nay, xa xứ
hay lưu vong trên chính đất nước mình.


Trăm
lần như một tôi không có chọn lựa nào


(Phế tích của ảo ảnh
[2])


 Trịnh
Y Thư viết ít, các bài thơ không dài lắm, nhưng anh không phải là người quá gọt
giũa câu văn. Sự phát triển hay sự trương nở, tôi thiết nghĩ, trong một số
trường hợp mang lại nhiều ích lợi hơn cho văn chương. Ở những người viết có tài
năng, sự phóng túng, sự buông lỏng mang lại niềm vui thú khó sánh
được.


Người
con lịch sử khuôn mặt ngươi ở đâu


sau
tấm biển quảng cáo nịt vú đàn bà


hay
bên kia rừng trảng thâm u


bên
dưới những nấm mồ oan khốc


(Phế tích của ảo ảnh
[2])


 Đó
là một bài thơ xuất sắc: nó có thể thở được. Nó chứa đựng trong đó những số
phận, những bi kịch, quang cảnh của một đất nước, của một tâm trạng. Hơn thế nữa
nó mang lại nhịp điệu, như một làn sóng nước liên tục có thể đi qua những nhát
cắt, trong quá khứ, đổ máu, hay trong hiện tại, hệ ý thức. Tôi tin là người nào
có dịp đọc thơ Trịnh Y Thư sẽ yêu mến anh hơn, như một nhà thơ, như một người
cùng chia sẻ các số phận; và đằng sau vẻ ngoài lặng lẽ và tiết chế, là một tâm
hồn nồng nhiệt và sự phán xét trong sáng.

– Nguyễn Đức Tùng


(Viết sau mấy ngày nằm bệnh,
2/2018)


 Chú thích:


1 Bắc Phong dịch từ nguyên tác
tiếng Anh.


2 Phế
tích của ảo ảnh
, NXB Văn Học, 2017, 149 trang có đánh số, tranh
bìa: Nguyễn Đình Thuần; kí họa chân dung và thiết kế bìa: Ái Lan; phụ bản: Thái
Tuấn, Đinh Cường, Nguyên Khai, Hoàng Xuân Sơn.

Comments are closed.