Nguyễn Đức Tùng
chương 2
QUÊ HƯƠNG NHƯ MỘT NGÔN NGỮ
Tháng Mười năm 1861, trong nội chiến Hoa kỳ, bác sĩ Alfred Lewis Castleman, sĩ quan quân y trung đoàn Năm, lữ đoàn Wisconsin tình nguyện, tường trình tổn thất nhân mạng đầu tiên của đơn vị. Không phải vì súng đạn kẻ thù. Ông viết: người lính bất hạnh này đã chết vì nhớ nhà, phát điên vì nhớ vợ con. Ông viết tiếp: trong quân đội, những tổn thất vì lòng hoài niệm rất hay gặp.
(New York Times, Susan J. Matt article 19 Apr 2012)
Tháng Tư là tháng tàn nhẫn nhất.
Thế mà năm nay nó tới sớm.
Đi làm về khuya, tắt máy xe, đóng cửa garage, bạn sải bước vào nhà. Tới cửa sau, đút chìa khóa nhưng chưa xoay, thoảng nghe mùi hương lạ. Nhẹ đến nỗi, nửa tin nửa ngờ, bạn quay lại, lầm lũi ra vườn, nhưng chẳng tìm thấy nguyên cớ của nó đâu.
Rồi bạn nhớ ra, à, tháng Tư. Sau trận mưa nhiều ngày, trời mới nắng hai bữa. Bạn cúi xuống thật gần, lấp loáng trong đám lá những tia li ti như ánh trăng, nhưng không phải trăng, vì chúng tím tím hồng hồng. Những nụ lấm tấm như hạt gạo, những chấm tử đinh hương thơm nức xô từng đợt sóng.
Như nỗi nhớ.
April is the cruelest month, breeding
lilacs out of the dead land, mixing
memory and desire, stirring
dull roots with spring rain
Tháng tư là tháng ác ôn
Đinh hương nở tím bồn chồn đất hoang
Mưa xuân, ký ức, mơ màng
Cùng lay rễ cứng bàng hoàng bật lên
T.S. Eliot trong The Waste Land.
Ký ức của bạn, mưa xuân, ước mơ, và rễ cây, chúng xáo trộn vào nhau tất phải thổi bừng ngọn lửa đau xót. Các chữ breeding, mixing, stirring, spring như những cái chuông nhỏ rung nhẹ đằng sau.
Thơ khởi đi từ nhiều nguồn cội. Một trong những nguồn cội ấy là ký ức, cái đầu tiên, giờ phút đầu tiên. Đầu tiên là thời gian. Một dân tộc, một cộng đồng, không có ký ức tạo nên một trạng thái như giấc ngủ. Giấc ngủ về đêm không thuộc về con người, không ở trong tầm kiểm soát của chúng ta.
Một dân tộc tìm cách chối bỏ một phần ký ức của nó, như kẻ tiêu hủy các trang nhật ký chiến trường, vì bất kỳ lý do gì, là một dân tộc đang căm hận, sợ hãi và, vì vậy, đang tổn thương. Như trong tình trạng chiến tranh. Ký ức nối kết các phần khác nhau của số phận, các mảnh cắt rời của sự thật bị khuất lấp, tạo dựng mái nhà chung.
Ký ức có hai chức năng: giữ gìn quá khứ và khôi phục chúng.
Sau đó là lòng hoài niệm. Cảm xúc về quá khứ, nơi chốn hay thời kỳ, gắn bó với hạnh phúc. Người ta càng thất bại, càng khổ đau, hoài niệm càng lớn. Nhìn chung, mặc dù có thể không đúng trong những trường hợp cá nhân riêng lẻ, sau một cuộc chiến tranh, bên thua cuộc sẽ thương xót dĩ vãng đẹp đẽ của mình nhiều hơn là phía thắng cuộc cũng làm như thế đối với dĩ vãng của họ. Đó là sự cân bằng tâm lý và công bằng tâm lý. Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên, một số nhà nghiên cứu và phê bình vẫn nhìn văn học hải ngoại như một nền văn học của lòng hoài niệm và có thế thôi.
Thật ra, hoài niệm chỉ là một trong nhiều khuynh hướng, thậm chí không phải là khuynh hướng quan trọng nhất, của văn học hải ngoại hiện nay. Đó là khả năng của hiện tại tìm kiếm ký ức, soi sáng nó bằng ánh sáng của hiện thực mới. Không có ký ức cá nhân thì không có thơ ca. Lần đầu tiên tôi nghe Thái Thanh hát Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn của Phạm Đình Chương, ở Calgary 1992, bên cạnh Phạm Duy đệm đàn. Sau này đọc bài thơ trên giấy, Du Tử Lê viết năm 1978, tôi nhận ra rằng âm nhạc trong thơ chính là trường chuyển giao của lòng hoài niệm. Thơ khởi đầu bằng hình ảnh hay âm thanh hay các phương cách khác? Có lẽ là nhạc điệu. Hình ảnh quê hương, ly cà phê đá cuối cùng chưa uống hết tôi với Hoàng bỏ lại bên hông chợ Cần Thơ, con hẻm vắng, hơi đá lạnh rịn mát bàn tay. Hàng tre bến nước Ô môn, cây cầu khỉ chạy loáng ánh trăng. Chúng có khuynh hướng mãi dừng lại trong không gian. Nhưng âm thanh thì khác, hiện hữu chốc lát, không vĩnh hằng, đúng lúc có sự hiện diện của bạn. Tức là tính chất sự kiện. Âm thanh chứng thực hiện hữu hiện tại.
Đêm về theo vết xe lăn
Tôi trăng viễn xứ hồn thanh niên vàng
Tìm tôi đèn thắp hai hàng
Lạc nhau cuối phố sương quàng cổ cây
Ngỡ hồn tu xứ mưa bay
Tôi chiêng trống gọi mỗi ngày mỗi xa
Vần điệu, tiết tấu, nhịp đi, cách dừng lại, cách ngắt dòng mang theo các nguyên mẫu ký ức. Nguyên mẫu ở đâu? Trong thiên nhiên. Vì vậy mối quan hệ giữa thơ ca và thiên nhiên là mật thiết: thơ mang chúng ta trở lại với đất, cát, sỏi đá, cây cỏ, chim muông, cái chết, sự hồi sinh, như các chu kỳ. Hoài niệm là chu kỳ, và trong thơ, chu kỳ tựa lên nhạc điệu. Thơ hải ngoại, dù đó là thơ lưu vong của người tị nạn, hay thơ của di dân về sau, đều mang tâm sự của kẻ sống xa quê nhớ nước. Lòng hoài niệm có thể có tác động âm tính, gây nên buồn rầu u uất (1), ngăn cản con người tiến về phía trước, như trong báo cáo của bác sĩ Castleman năm 1861, nhưng cũng có thể tác động dương tính: giữ thăng bằng tâm trạng, gây cảm giác phấn chấn, kích thích năng lực sáng tạo, tăng cường khả năng liên lạc, lòng yêu làng xóm, lòng trung thành, tình cảm thủy chung.
Nhớ chi đôi vành khuyên bờ dậu
Thuở còn ta chim thường bay đến đậu
Trên bông bụt vàng chen lá trổ hoa
Nắng tháng năm ruộng tím ngắt bông cà
Chu Vương Miện nhớ quê, nhớ tuổi thơ, nhưng đó là một trí nhớ bồi đắp, tươi tắn, thăng bằng. Cũng có tính nâng đỡ như vậy, trong thơ của Châu Hồng Thủy từ nước Nga, ra đi từ vùng đất khác trên quê hương Việt Nam.
Không nhớ nổi mùi hương chùm thiên lý
Mẻ ốc nhồi nấu canh chuối mùa thu
Chợt đêm nay hiện về trong giấc ngủ
Chiếc chậu sành tí tách giọt mưa rơi
Mái tóc mẹ đã thêm nhiều sợi trắng
Chuối vườn xưa bão xé tướp tơi bời
Tình cảm nhớ thương được biểu hiện bằng bút pháp cổ điển bởi hai nhà thơ trên đủ sức lay động lòng người, giúp nguôi ngoai niềm cô quạnh, an ủi vỗ về. Nhiều người biết rằng trong dịp gặp nhau, người tha hương nhắc kỷ niệm cũ; dù vui buồn đều quý báu, trở thành một phần trong tài sản tinh thần, làm gánh nặng hiện tại trở nên nhẹ nhõm. Thật ra ý thức về tự do không làm vơi tâm sự nhớ nhà, chỉ làm chúng tăng lên. Chính là trong mộng tưởng mà chúng ta có tự do và chính mộng tưởng là tuổi thơ đã trải qua và thường xuyên trở lại. Lòng hoài niệm giúp con người soi thấu những uẩn khúc của quá khứ, tự xem xét mình, giúp đánh giá lại kinh nghiệm đau buồn, hạnh phúc. Xem xét thất bại của một thế hệ hay cá nhân trong quá khứ, những thất bại bao giờ cũng gắn bó với một nơi chốn, một thời điểm.
Nhìn các em ngồi đó, một góc sân trường xưa, thương qua thời nắng gió, nhớ quá chiều nắng mưa
Đà Lạt, các em ở. Đà Lạt thầy bỏ đi. Các em thì vẫn nhỏ như vầng trăng núi kia
Thầy thì như sương khói loáng thoáng cuối chân mây, ngang chân mây đồng nội, cỏ úa tàn hương bay
Trần Vấn Lệ, cùng với Luân Hoán, là những đại diện xứng đáng của dòng thơ hoài niệm đương thời, một nguồn mạch không ngớt tuôn chảy rì rào mấy mươi năm qua, kỳ lạ trong thơ Việt. Tính từ luân lạc Quang Dũng.
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
Thơ quý ở cái lung linh huyền ảo. Thơ Trần Vấn Lệ nhiều khi có chất lung linh ấy, có lẽ nhờ cái tình. Thơ Quang Dũng nhờ hình ảnh.
Nhưng đề tài và chất liệu thơ quyết định sự khác biệt giữa bút pháp: người lớn tuổi hơn viết về quê hương, chiến tranh, các mối quan hệ của họ, tìm cách giải quyết những câu hỏi không thể trả lời khi còn trong cuộc. Người viết khác, mới hơn, đương đại, có chất liệu là những hiện thực mới.
Tình bây giờ là chiều xuống trên sông êm ả trước khi đổ thác
có ven bờ đom đóm soi hoa
có mây kỷ niệm bay ngang in lại lòng sông thương tiếc
có nâng niu con cá ngáp hơi
Em biết không
Anh thật sự mệt mỏi muốn êm đềm đắp cỏ mặc nắng mưa
bao chuyện cũ giao côn trùng rền rĩ
Ngôn ngữ quen thuộc mà cách nói lạ của Ngu Yên. Đọc kỹ, sẽ thấy sự hóa thân của nhà thơ trong trường hợp này, tạo nên dự dao động giữa hai thế giới cũ và mới (2). Vì sự cách trở về địa lý kéo theo sự cách trở về thời gian, độ lùi tâm lý, hiện thực hôm nay của quê hương trở thành quá khứ của nhà thơ, nhưng anh ta chỉ được phép sống quá khứ ấy như một hiện tại. Bên cạnh một số người chỉ biết khóc than dĩ vãng vàng son, hầu hết người tha hương đều tự biết xắn tay áo lao vào cuộc sống mới, đầu tắt mặt tối để gây dựng căn nhà mới cho bản thân và gia đình; đối với những người ấy, lòng hoài niệm giúp soi sáng bài học trong quá khứ, nhìn lại bản thân, trả lời câu hỏi tôi là ai? Từ đâu đến? Đến đây để làm gì?
Hai mươi năm tôi giấu sự thật như giấu một đề thi
Hai mươi năm tôi tìm kiếm sự thật trong những cơn bay
qua bao nhiêu bến bờ lạ
Lê Thị Huệ, năm 1995. Tình hình sau năm 1975, và còn kéo dài đến bây giờ, là những xung khắc của dân tộc chưa bao giờ được hóa giải, những di chứng chiến tranh chưa bao giờ được sửa chữa, làm nhiều người không trở về. Cùng với những đồng bào miền Bắc di cư vào Nam năm 1954, Mai Thảo viết: “chúng ta đi mang theo quê hương”. Cũng như Mai Thảo, cuộc di cư vĩ đại lần thứ nhất: “Phượng mỉm cười nhìn Thu. Giọt nước mắt của người lên đường nhập vào hàng ngũ của tập thể của di chuyển, Phượng biết là một giọt nước mắt của tin tưởng. Để bảo vệ một niềm tin. Để bảo vệ con người. Tất cả, họ sẽ trở về”.
Sau năm 1975, nhiều người không trở về, tình nguyện vùi nắm xương tàn trên đất lạ, cay đắng nhưng giữ vững niềm tin của mình, vì vậy nỗi sầu xa xứ càng trở nên sâu nặng.
Biết chứ hồn anh dài vạn dặm
Lòng anh nặng trĩu một trùng dương
Dăm khi anh lẻn về quê cũ
Ði một mình ở một bờ sông
(Nguyễn Bác Trạc)
Lẻn về trong mộng, đi một mình ở một bờ sông: ai trong chúng ta không có lúc làm thế. Hoài niệm còn có nghĩa tạo ra căn nhà mới cho văn chương, một xứ sở tưởng tượng. Ngôn ngữ thơ trở thành người canh gác cho niềm tin đầu tiên và cuối cùng về tự do. Những người không có quá khứ, không tự hào về quá khứ của mình, không thương xót, là người không tin tưởng vào tương lai.
Mùa hạ ta qua vùng thảo nguyên
gió thổi chiều xanh trôi với nắng
khoảnh khắc vầng trăng bạc nhú lên
cánh chim theo trăng vào trời rộng
nhà ai đèn lồng soi trước hiên
nhủ thầm nhà ta sau hàng phượng
ta đi năm năm qua thảo nguyên
(Nguyễn Xuân Thiệp)
Một trí nhớ mới, đẹp đẽ. Chúng ta cần một trí nhớ mới. Lòng hoài niệm tất nhiên khởi phát từ ký ức, vốn bao giờ cũng là về người khác, với người khác, trên mảnh đất nơi ta lớn lên, và vì vậy được chia sẻ. Đó là chức năng nối kết. Ký ức ấy làm tăng cường cảm giác liên hệ giữa người và người, ràng buộc nhau, giúp con người vững chãi hơn trong sóng gió. Việc nghĩ về quá khứ đôi khi gây cảm giác âm tính, làm một người chạnh lòng cô đơn như kẻ một mình phòng trống trải, mùa đông lạnh giá, nhưng chính cảm giác cô đơn trong hiện tại giúp nhiều người đi tìm trở lại bà con, bạn bè, đồng môn quá khứ, như trong các hoạt động tương thân tương ái khắp nơi ở hải ngoại và ở trong nước, mở rộng quan hệ xã hội.
Trong phạm vi ấy, hoài niệm còn là đối thoại.
Chú nào ngồi hiên nhà ta chiều nay
Nghe mưa Sài gòn rạt rào thơm mát
Sau một ngày nắng lóa chín tầng mây
Những mái tôn mưa cười ran hạnh phúc
Chú nào đêm nay kê đầu gối đó
Thở hương nồng hạnh phúc đẫm không gian
Có biết nói nghìn năm sau vẫn nhớ
Vẫn hai vai êm ấm mãi ơn nàng?
Thơ Cao Tần, ý rõ, cười héo hắt, tình dạt dào. Đây là đối thoại lạ lùng, giữa một người từ quá khứ, xa, và một người trong hiện tại, gần, xuyên không gian, thời gian. Và hình như muốn xuyên qua chia cắt hận thù. Nghĩ về quá khứ, những ngày hạnh phúc, giúp con người tăng cường lòng tự trọng, nâng cao bản lĩnh, mang lại nhiều can đảm để đối phó với sóng gió thực tại. Nhờ vào cảm giác về tính mục đích của đời sống, trên hành trình đi tìm ý nghĩa cuộc sống. Khi bạn nghĩ về cơ cực của người thân ở quê nhà, sự hy sinh của cha mẹ thời thơ ấu, bạn tìm ra ý nghĩa của sự tồn tại. Bạn càng biết chắc về mục đích đời sống, càng sở hữu nhiều ý nghĩa, bạn càng bớt cảm giác hoang mang, sợ hãi, thất vọng, hoài nghi. Bạn bước vững chắc, cố dẫm vết chân sâu.
Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về
Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương
Thơ Trần Trung Đạo. Nhớ nhà, ngoảnh trông cố xứ là truyền thống mạnh mẽ trong thơ Việt, thơ Trung Hoa, thơ Đông phương từ ngàn năm trước. Sau các cuộc nội chiến, nó còn có ý nghĩa mới, sự vượt thoát, đi về phía tự do, về phía xây dựng lại. Thế hệ đi trước gạt lệ quên đi để dành sức lực cho việc gầy dựng tương lai mới, thế hệ con cháu mình.
Ba chẳng bao giờ muốn kể với con
những ngày lênh đênh trên biển đen vô định
sóng cứ gầm
đêm u mãi, và đen
(Trangđài Glassey-Trầnguyễn)
Nhưng chính hoài niệm âm thầm của họ làm nên ngọn lửa trong lòng người trẻ tuổi, giữa đời sống thừa thãi vật chất, khá ích kỷ, của xã hội mới. Nhưng ai không từng vượt qua đau đớn sẽ không thể làm sinh nở một tình cảm khác, nỗi mong muốn. Đó là mong muốn chia sẻ, cảm thông, giải thích nợ nần, bàn giao hoài bão. Từ kinh nghiệm riêng tư, những cá nhân khác nhau có thể hồi tưởng khác nhau về một sự kiện có thật. Vì vậy, tất nhiên, các nhà thơ viết khác nhau về cùng một góc khuất lịch sử.
hớp rượu này
trăng cũng nuốt trôi
xuân tha hương
lòng những ngậm ngùi
ta lữ khách
nhìn đời như mộng
sao bâng khuâng
cố quận sầu khơi
người và quê
đành đã chia xa
cuộc vô thường
ảnh sắc phôi pha
ta về đâu
hỡi tên lạc xứ
muốn theo mây
mây cũng không nhà
(Bắc Phong)
Ngay cả đối với cá nhân lành mạnh, các yếu tố như chiến tranh, xung đột văn hóa cũng dẫn đến sự xô lệch ký ức. Những người đứng về một phía của chiến tuyến thường ghi nhớ nhiều hơn các sự tích anh hùng cảm động của phía mình, ít chú ý ghi nhớ những sự kiện làm họ ngượng ngùng, bối rối, không giải thích được, hay có ý nghĩa ngược lại niềm tin của họ. Tự đặt mình vào vị trí người khác là công việc khó khăn, cần lòng dũng cảm, đối với nhiều người là không thể làm được. Thế Dũng, một người lính miền Bắc, trèo đèo lội suối, nghĩ đến hình ảnh thân yêu:
Tôi chưa có, rừng đã vang vó ngựa
Trăng Tây Sơn bùng nổ một trời xuân
Thương cô Tấm chỉ vì mơ yếm đỏ
Mà chết đi sống lại biết bao lần
Tôi chưa có thì ba lô cỏ biếc
Đã nắng sương từ thuở mẹ lên ngàn
Mười tám tuổi vượt đèo thành binh nhất
Câu thơ rừng hồi hộp với trăng non
Mẹ cơm cà, áo vá, nước mưa trong
Nhờ hàng xóm bát cơm ngày giáp hạt
Tôi ăn suối ngủ rừng theo binh trạm
Em như mơ như thực ở ngang trời
Câu thơ cuối buồn như vầng trăng. Phan Xuân Sinh, người lính miền Nam, ngủ bờ ngủ bụi, cũng nghĩ đến tình yêu của anh, cách khác:
trên đồi trọc, cỏ không kịp mọc
sống chết một đời có nghĩa chi
khi tỉnh giấc, ngó bên rào chim hót
lòng ta đau, nhìn mãi cuộc tình đi
Chân chất nhưng dây dưa trong trí nhớ. Ký ức chấn thương khác nhau tùy theo nhân chứng là nạn nhân hay người đứng quan sát bàng quang. Trong khi ký ức của nạn nhân trải qua các sang chấn có thể bị làm biến đổi, bóp méo, làm họ mất cái nhìn sáng rõ đối với hiện thực, nhiều nghiên cứu cho thấy bản thân hoài niệm lại giúp hàn gắn vết thương do sang chấn gây ra. Ký ức cũng thay đổi theo thời gian. Khi ta lớn lên, một số chi tiết bị quên đi nhưng một số chi tiết khác nổi bật, vì vậy trên tấm thảm dệt của thời gian, lịch sử xuất hiện không đồng đều, diễn ra với tốc độ khi nhanh khi chậm, khi sáng khi tối. Lòng hoài niệm giúp khôi phục hình ảnh chân thực về đất nước, khôi phục ký ức về chiến tranh, những ký ức có thể phần nào đáng tin cậy hơn lịch sử chính thống. Một người lính miền Nam, lăn lóc sa trường, ngoái về quê cũ:
ta vẫn quê người thân lính thú
mười năm chưa dứt nạn sa trường
có về ngói vụn, tường xiêu đổ
nào thấy gì nhau để xót thương
Thơ Hoàng Lộc. Người chiến binh cũ nhớ đến hai lần: một là đời lính, hai là quê hương trong lửa đạn. Thực ra, cũng đã có một thời, nhất là thời gian đầu, cuộc chiến hiện ra đẹp, có lý tưởng, như trong thơ Trang Châu:
Súng gác lưng đèo đêm ba mươi tết
Sương rơi rơi kín lạnh nẻo rừng già
Sờ đế giày mòn tính quãng đường xa
Anh mới thấy đi đã trọn vòng đất nước
Hình thức của thơ kiến tạo cách suy nghĩ và xúc cảm của chúng ta, người viết và người đọc, hình thành các ý niệm về cuộc sống, ý nghĩa của những đau khổ và hy sinh. Trong khi bồi đắp các năng lực sáng tạo, làm phong phú tâm hồn thì chúng, các hình thức ấy, cũng thừa khả năng dẫn con người vào các niềm tin khác nhau.
Những người lính lái xe miền Bắc:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
(Phạm Tiến Duật)
Tươi vui, hào sảng.
Người sĩ quan miền Nam:
đánh giày, chùi súng xong xuôi
trải bao thuốc lá lên đùi làm thơ
(Luân Hoán)
Mộc mà sâu xa, lãng mạn.
Thơ trữ tình viết về chiến tranh cũng có hai khuynh hướng: hướng ngoại, như những câu thơ của Phạm Tiến Duật, hướng nội, như những câu thơ của Luân Hoán.
Những chàng trai dễ thương ấy, dù vui cười hay mơ mộng, sẽ bị ném vào ngọn lửa của cuộc chiến, sẽ chết hay sẽ trở về với chân tay để lại trên chiến trường, với mảnh linh hồn xước máu tan tác. Và kéo theo họ, không chỉ vành khăn tang thiếu phụ, mà cả một dân tộc, tiếp tục hận thù, chia cắt, tiếp tục làm cạn kiệt suối nguồn tâm linh tổ tiên để lại.
Những xung đột nội tâm và cá nhân, cảm giác hối hận hoặc tội lỗi có thể được tự do bày tỏ một phần nào trong thiết chế tự do và sẽ bị đè nén hoặc kiểm soát trong những thiết chế phi tự do. Trong trường hợp thứ hai, các xung đột và cảm giác tội lỗi sẽ được phóng chiếu vào những nhóm bên ngoài, vào đối phương. Câu hỏi kế tiếp được đặt ra là văn học Việt Nam, trong nước và ngoài nước, thể hiện đến đâu nhiệm vụ của một nền văn học nạn nhân?
Không còn sóng để chìm
sợi tóc già nua chạm đáy
mặc nụ cười ton hót bờ môi chai sạm lưu dân
cầm bống bống bang bang ngẩn ngơ gà mẹ lạc con
(Nguyễn Hàn Chung)
Thoạt nhìn hoài niệm là nghĩ về quá khứ, hội nhập là hướng về tương lai, theo hai chiều ngược nhau. Trong thực tế lòng hoài niệm tăng cường hội nhập vì tâm trạng hưng phấn, tinh thần trách nhiệm với quá khứ, làm tăng sự cảm kích đối với những ngày vàng son, ân nghĩa sâu nặng với sự hy sinh của người đi trước, giúp họ nhiều nghị lực hơn để vượt qua khó khăn, thành công trong quá trình hội nhập vào xã hội mới. Thơ thường xuyên biến đổi, phản ảnh một thế giới không ngừng phát triển, thế nhưng nó vẫn không ngớt quay lại căn nhà cũ.
cây xõa tóc
xuống vai
vò nhàu mùi hương bạch đàn
chiếc cổ thiên nga
sông núi phai màu
linh hiển
tháng giêng. con giống nằm phơi thóc
trắng hai đồng tử lâm sàng
chết ngọt đứ đừ
trăng kiếm thức
15 phút tới giờ hỗn mang
anh không còn tin vào những trận nháy mắt
cuộc hành trình bay vút mi cong
kéo khói mù mịt
những con tàu khởi hành
từ một thang điểm vệ sinh
không còn văn bản không còn thơ
miếng cơm cháy nguội
những đồng bạc lanh chanh
gặp một người đồng hương nói tiếng lèo
tết năm nào em trôi giạt?
(Hoàng Xuân Sơn)
Hoài niệm giúp nuôi dưỡng di sản văn hóa, giữ gìn sự kế tục. Truyền thống, trong trường hợp những phẩm chất tốt đẹp, quyết định số phận. Toàn bộ đời sống của một cá nhân là thông điệp được truyền lại từ những người đi trước. Và đến lượt, chính đời sống của bạn là một thông điệp. Những người đi từ một miền kế tục bút pháp văn chương của miền ấy, chỉ những thế hệ sinh ra và lớn lên hoàn toàn ở hải ngoại mới ít chịu ảnh hưởng của chúng. Kế tục về bút pháp chứng tỏ sự bền vững về nội lực của một cộng đồng di dân. Đổi mới bút pháp chứng tỏ sức sống của cộng đồng ấy. Lòng hoài niệm có tuyền thống lâu dài trong thơ Việt Nam, từ Nguyễn Bính bảng lảng:
Quê nhà xa lắc xa lơ đó
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay
Từ Nguyễn Đình Toàn da diết, chưa xa lắm:
Kỷ niệm cũ vẫn còn nguyên vẹn đó
Trời tháng giêng, tháng bảy buồn như nhau
Gió vẫn thơm mùi hoa bưởi, hoa ngâu
Rồi tết đến, rồi lòng anh nhớ quá
Đến Nguyễn Thanh Châu, đương thời, rất khác:
ngồi xuống. khe khẽ hát
những ngón tay thô chùng phiếm guitar
rưng rưng phiến nguyệt tà. máu nhỏ
biền biệt nhớ người ơi
chừng hẹn nhau buổi nào
cắn đắng. cơn trốt cuồng thất tán
đoá lệ hồng. tuôn
âm âm trời bạt xứ
cũng đành. vẫn thiết tha
chút lòng vụng dại
hãy nuôi lấy những giấc mơ. mãi mãi
về đâu. khuya. dõi bóng tuyệt mù
Christa Wolf, nhà văn Đức nổi tiếng, bạn thân của Gunter Grass, viết: “Ký ức không được dùng tới sẽ lạc đường, ngừng tồn tại, rơi mất tăm vào hư vô- rất đáng báo động.Vì vậy, cơ chế để gìn giữ nó, để nhớ lại, nhất thiết phải được tạo ra, rèn luyện.” (3)
Một trong những cơ chế ấy là văn chương.
Thực tế cho thấy trong người Việt hải ngoại, các tập hợp được thúc đẩy bởi lòng hoài niệm như các hội ái hữu, hội đồng hương, hoạt động khá hiệu quả trong việc tạo ra những liên kết, hỗ trợ lẫn nhau lúc hoạn nạn. Hoài niệm tập thể làm cho người và người ở nơi chốn tha hương gần gũi hơn, chia sẻ chung những mối quan hoài (4). Nếu có thể ví von rằng thơ miền Nam trước đây là thơ của cái tôi, thơ miền Bắc trước đây là thơ của cái ta, thì thơ hải ngoại hiện nay là thơ của cái tôi khác.
ba tao mất rồi
ga đóng cửa
Ðà-lạt dập dờn gió đập cửa ỉm im
ga lịch sử đi vào hạng mục di tích quốc gia
mất tiếng còi sương vọng xa
công nhân viên chức cán bộ cấp cao thấp
đại diện đại gia đa dại dân đen dân oan dân quèn buôn lậu bon chen chân trong ngoài
việt kiều yêu nước không yêu nước bán nước
chia lìa từ dạo ấy
tụi mày thuộc loại nào
giờ ở đâu
mùa hè tao nhớ
Nguyễn Thị Hoàng Bắc nhớ Đà Lạt. Tâm sự tí tách với một người bạn thời nhỏ. Thơ ca của chị làm tuổi thơ bộc lộ sức hấp dẫn. Hoài niệm dẫn lối cho tuổi thơ về lại. Nhưng sự liên hợp giữa ký ức, giấc mộng, lòng thương nhớ, ý thức tự do, hiện thực, tạo ra những trục tọa độ khác nhau trong thơ ca, thay đổi tùy theo trường hợp xuất thân, hoàn cảnh ở hải ngoại, thành công và thất bại, kinh nghiệm, vui tươi hay đau buồn. Đối với người xa xứ, đất nước là thời thơ ấu. Mối quan hệ tuổi thơ ấy, ảnh hưởng lớn đối với đời sống sau này, được chiếu rọi bởi ánh sáng khác nhau, lúc mờ lúc tỏ, như ngôi nhà được nhìn thấy khi thì dưới màn mưa khi dưới mặt trời.
Huế cơm chay Bồ Đề
Mưa quặn thắt lá sầu đông
Chai nước lọc Đông Hà
Bùn sình đất đỏ
Gót giày em nho nhỏ
Xe đi qua
Ôi xa mà nhớ
Thơ Trần Nghi Hoàng, cổ điển, vẫn mới. Quê hương của kẻ lưu vong có thể là kỷ niệm êm đềm, có thể là nỗi cay đắng, có khi cùng lúc cả hai, nhưng bao giờ cũng chứa tâm cảnh bao dung. Thật ra, mặt khác, một tập thể lúc nào cũng sống trong trạng thái nghi ngờ, cảnh giác ta và địch, là tập thể bất hạnh, đáng thương. Trong cuộc đời họ có thể thắng hay thua, thất bại hay thành công, nhưng vì đánh mất hồn nhiên, không cách nào tìm lại được, nên lúc nào sống cũng bất an mà không tự biết. Vì hồn nhiên là lẽ phải.
Chúng ta tiếc nuối sự hồn nhiên. Thời mới lớn, đọc trên tạp chí Văn chuỗi bài Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng đi liên tiếp nhiều tháng, tôi nhớ cảm giác choáng ngợp.
Quỳ ơi, bây giờ em ở đâu? Tại cái xứ có nhiều loại kèn xe hơi cực kỳ tối tân này, em có biết rằng có người chồng thỉnh thoảng trông ra nắng tháng tư lại nhớ đến một buổi trưa tiền kiếp, chúng ta đang dựa gốc cây thiêm thiếp, sực nghe thấy tiếng chim tu hú, đều mở cả mắt ra để cùng tìm xem con chim tu hú đậu ở đâu mà kêu to như thể ở chính bên tai ta vậy?
Thuở ấy, thời chiến tranh chưa lan rộng, “Bắc Việt” của tác giả có lẽ vẫn còn như cũ, hay ít nhất trong lòng ông, mùa vải và chim tu hú và xã hội và cái người thơ thẩn dưới gốc cây kia vẫn còn nguyên vẹn. Xin đừng bắt ông phải chọn lựa giữa quê hương và tự do. Người Việt ngày nay sống ở hải ngoại, tôi e rằng còn khổ tâm gấp đôi Vũ Bằng, vì chẳng có gì mà lựa chọn; họ không chỉ thương nhớ mà còn thương tiếc, không chỉ thương tiếc mà còn đau xót. Tôi muốn bắt chước nhà văn Võ Phiến, trong một tạp bút (6) của ông, mà hỏi rằng:
– Cô Quỳ còn không?
Ký ức có hai chức năng: giữ gìn quá khứ và khôi phục nó. Một trong những phương cách khôi phục là lòng hoài niệm. Chúng ta viết và đọc để cứu chuộc quá khứ, để mở cánh cửa vào căn nhà sự thật, tìm ra động lực của các diễn trình lịch sử. Có hai nguyên cớ của văn học hoài niệm: vì nhớ dĩ vãng thiên đường hoặc vì trải qua đau thương, khốn khổ.
Hoài niệm sâu xa nhất là hoài niệm trong im lặng. Mai Thảo, trong Thủy tận:
Em đi vừa khuất trên đầu phố
Anh đuổi theo sau bóng đã nhoà
Đứng sững. Mới hay lìa cách đã
Sơn cùng thủy tận giữa đôi ta
Quyền năng của thơ là chuyển đổi một kinh nghiệm cá nhân thành kinh nghiệm của người khác. Thơ vừa là cái riêng tư vừa chống lại sự riêng tư. Sự thất bại của thơ ca hiện nay, trong nước cũng như ngoài nước, mà nhiều người nhắc đến, tôi thiết nghĩ, khởi đầu từ điểm này.
Yeats đã từng nói: “Tất cả những thứ riêng tư sẽ bị hư hoại trừ khi chúng được ướp trong muối hay trong nước đá” (All that is personal soon rots unless it is packed in ice or salt.). Muối và nước đá ở đây tất nhiên là ngôn ngữ văn chương, nghệ thuật thơ ca.
Tôi thích bài thơ của Mai Thảo, nhưng thú thật, tôi không chắc lắm nó đã ướp đủ muối hay nước đá.
Nhưng mỗi khi đọc câu thơ này:
Nghe mẹ nói anh có về hái ổi
Tôi lại không kịp băn khoăn về điều ấy. Thơ Tế Hanh, thời kháng chiến chống Pháp. Trong chúng ta, ai từng có mảnh vườn cha mẹ trồng cam, chanh, khế, ổi, tan nát vì bom đạn, nhiều năm xa quê nay vẫn hoang tàn, cố gắng lắm cũng chỉ về thắp hương vài năm một bận, có khi lúc sẫm tối, vội vàng, xe người bạn chờ mình ngoài đường nổ máy?
Nhưng ký ức quê hương biết đâu cũng chỉ là huyền thoại? Những thay đổi đến chóng mặt trên đất nước chúng ta, loạn lạc trong hòa bình, loạn hơn cả thời chiến, kỷ cương phá nát, lối sống thực dụng, lưu manh, cơ hội. Đâu phải chỉ người Việt xa xứ mới trông vời quê cũ? Nhà thơ khi viết câu hoài niệm từ nơi xa có khi cũng viết thay đồng bào mình trên cố thổ.
Nhưng ta không còn phải sống những giây phút như thế
Thành phố ta ở không như thế
Những bộ mặt quanh ta không như thế
Ngôn ngữ ta nghe và báo ta đọc không như thế
Âm nhạc ta nghe cũng không bị nghe như thế
Và những giấc ngủ của ta
Những giấc mơ của ta
Không còn bị như thế
Duy có một điều
Trong chỗ sâu kín nhất của lòng ta
Ta cảm thấy vẫn còn như thế
Có lẽ mãi còn nguyên như thế
Mai Trung Tĩnh, năm 1995, từ Hoa Kỳ. Cách nói mới. Thơ ca và văn học hoài niệm không khởi đầu bằng các ký ức sự kiện mà bằng câu hỏi về ý nghĩa của chúng.
Thật ra ngày nay không một nhà thơ nào có thể viết một bài thơ thuần túy hoài niệm theo kiểu cũ, tức là nhớ cha mẹ, nhớ nhà, đằm thắm như trong ca dao “má ơi đừng gả con xa, chim kêu vượn hú biết nhà má đâu”. Ngày nay, không thể nào nghĩ tới hàng cây hò hẹn thuở mới lớn mà không nhìn thấy cảnh chúng bị đào tận gốc, chặt tận rễ, không thể nào nhớ một người thầy học cũ mà không chạnh lòng vì nền giáo dục.
Vì vậy, có một ngày mai của quá khứ, có tương lai của lòng hoài niệm. Chúng ta hoài niệm điều gì? Không phải quê hương đã xa, mà sắp mất, không phải cố quận tách lìa của người ly hương, mà bản quán ngày càng tiêu vong của người sống trên đất mình. Quê hương nào sắp mất? Quê hương của văn hóa, lòng tin cậy, tình làng xóm, nghĩa đồng bào, của thiên nhiên chuồn chuồn cây cỏ. Lòng hoài niệm ấy của chúng ta so với nỗi nhớ nhà của người xưa quả thật có thêm nhiều nỗi lo âu, bội phần khắc khoải.
Chúng ta hoài niệm nghi lễ của tình yêu.
(Hết chương Hai. Còn tiếp)
Chú thích chương 2:
(1) Tình trạng nhớ nhà sầu muộn là kết quả của rối loạn cơ chế tự điều chỉnh. Người viết tin rằng tử vong đầu tiên được nhắc đến trong báo cáo của bác sĩ Castleman là bệnh Rối loạn thích nghi với biểu hiện trầm cảm (adjustment disorder with depressed mood).
(2) Nguyễn Hưng Quốc: “quan niệm mới cho rằng người lưu vong thường xuyên dao động giữa hai quốc gia, luôn luôn sống trong tình trạng xuyên quốc gia, thậm chí, cái quốc gia cũ ấy không còn mang tính lãnh thổ”. http://www.voatiengviet.com/content/van-hoc-luu-vong/2470610.html
(3) Chista Wolf: “An unused memory gets lost, ceases to exist, dissolves into nothing- an alarm thought. Consequently, the faculty to preserve, to remember, must be developed.”, Patti Miller, Writing your life, p. 73, Allen and Unwin, Australia, 2001.
(4) Dịch chữ collective nostalgia. Wildschut, T., Bruder, M., Robertson, S., van Tilburg, W., & Sedikides, C. (2014). Collective nostalgia: A group-level emotion that confers unique benefits on the group. Journal of Personality and Social Psychology, 107.
(5) Vũ Bằng, Thương Nhớ Mười Hai, NXB Văn Học, 1989, p 82.
(6) Võ Phiến, Tuyển Tập, Văn Mới, 2001, USA, p. 209.
Các tài liệu tham khảo:
– Những bài thơ do một số nhà thơ cung cấp. Nhân đây xin được bày tỏ lòng biết ơn của tác giả đến tất cả.
– Gaston Bachelard, The poetics of space, Beacon, 1969
– Mieke Bal, Narratology, Introduction, University of Toronton, 1985
– Thi Vũ, Bốn mươi năm thơ Việt nam 1945- 1985, Quê Mẹ, 1993
– Caroly Forché, Against Forgetting, Norton, 1993
– J.D. Mc Clatchy, The vintage book of contemporary world poetry, Vintage, 1996
– Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Giáo dục, 1998
– Nhóm Việt Thường, Tuyển tập thơ văn hải ngoại năm 2000, Văn Mới, 2000
– 26 Nhà thơ Việt Nam đương đại, Tân Thư, 2002
– Nguyễn Bùi Vợi, Quang Huy, Vũ Quần Phương, Thơ Việt Nam thế kỷ XX, Thơ trữ tình, Giáo Dục, 2005
– Jennifer Ashton, From modernism to postmodernism, Cambridge Press, 2005
– Nguyễn Hưng Quốc, Thơ con cóc và những vấn đề khác, Văn Mới, 2006,
– Agnieska Gutthy, Exile and the narrative/ poetic imagination, Cambridge Scholars, 2010
– Võ Phiến, Văn học miền Nam tổng quan, Người Việt Books, 2014
– Du Tử Lê, Phác họa toàn cảnh 20 năm văn học nghệ thuật miền Nam, người Việt Books, 2014