Từ mở rộng biên cương trên bản đồ đến xây dựng đảo nhân tạo: Lịch sử 100 năm tranh chấp biển Đông (13)

Tác giả: Lê Oa Đằng

Việt dịch: Phạm Văn Song

This image has an empty alt attribute; its file name is image-61.png

從地圖開疆到人工造島:百年南海紛爭史

黎蝸藤

CÔNG TY SÁCH NGŨ NAM

ĐÀI BẮC-2017

IV.7. Phát hiện dầu khí ở biển Đông

Vào những năm 1960, tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông tạm lắng xuống, Chiến tranh Việt Nam là một nguyên nhân quan trọng. Năm 1955, Bắc Việt quyết định thống nhất Việt Nam bằng vũ lực. Với sự ủng hộ của Bắc Việt, Đảng Cộng sản ở miền Nam thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (Việt Cộng), tháng 1/1960 phát động vũ trang cách mạng, dùng sách lược nông thôn bao vây thành thị đọ sức với chính phủ Nam Việt. Chính phủ Ngô Đình Diệm của Nam Việt mặc dù nhận viện trợ Mĩ và có cố vấn quân sự Mĩ vẫn liên tiếp thất bại. Để chống lại chủ nghĩa cộng sản, Mĩ không thể không tăng cường giúp đỡ quân sự cho chính phủ Nam Việt. Tháng 5/1961, Phó Tổng thống Johnson trong thời gian thăm Việt Nam đã kí tuyên bố chung với Ngô Đình Diệm, phái 100 lính đặc nhiệm của quân đội Mĩ đến, mở đầu việc can thiệp quân sự chính thức. Thời gian này, do sự kiện bức tường Berlin mà Chiến tranh lạnh ngày càng leo thang. Chiến tranh Việt Nam xem như “chiến tranh nóng duy nhất trong Chiến tranh lạnh”, trở thành phương thức tốt nhất để biểu hiện quyết tâm bảo vệ thế giới tự do của Mĩ. Năm 1962, hai nước Xô, Trung ganh đua ủng hộ Bắc Việt và Việt Cộng để tranh giành địa vị lãnh đạo phe cộng sản. Trong tình hình chiến tranh Việt Nam leo thang, tầm quan trọng của biển Đông đối với Mĩ đã tăng lên. Quân đội Mĩ ngoài việc tiếp tục sự hiện diện của họ ở biển Đông từ sau Thế chiến thứ hai, còn xem biển Đông là phòng tuyến phong tỏa Bắc Việt và là chiến trường hậu thuẫn Nam Việt tấn công Bắc Việt trên biển. Năm 1965, Mĩ quyết định nâng cấp từ “Chiến tranh Đặc biệt” lên “Chiến tranh Cục bộ”. Ngày 9/5, Quân đội Mĩ định nghĩa vùng biển biển Đông bao gồm Hoàng Sa trong đó thành “khu vực chiến đấu” (Combat Zone). Thời gian này, toàn bộ vùng biển Đông đều bị quân Mĩ kiểm soát. Thực lực hải quân của Bắc Việt và Trung Quốc có hạn, chỉ có thể giới hạn ở vùng bờ biển nước mình. Để chống cộng, ba bên Đài Loan, Philippines, Việt Nam đều không muốn mở rộng tranh chấp lãnh thổ. Đến cuối thập niên 1960, “hiện trạng” của Trường Sa là Đài Loan chiếm đảo Ba Bình, Việt Nam có tuần tra Trường Sa định kì hàng năm, Philippines thì chủ yếu dựa vào “hành động cá nhân” kiểu như của Cloma ở Trường Sa.

Thời kì này, sự quan tâm của các nước vẫn là các lợi ích chiến lược và an ninh, cùng với nhân tố mang tính dân tộc như “chủ quyền lãnh thổ”. Trường Sa không hề thể hiện có lợi ích kinh tế quá lớn. Dù Trường Sa có ngư trường, và cũng có tài nguyên phốt phát nhất định trên các đảo, nhưng khoảng cách xa xôi, tiếp tế khó khăn; đảo nhỏ bé, khó để xây dựng căn cứ. Những khó khăn thực tế này đều làm giảm nhiệt tình khai thác Trường Sa của các nước. Philippines ở gần nhất, có thể vẫn có một số lợi ích ngư nghiệp nhưng cũng không phải quá quan trọng. Đài Loan tuyên bố khai thác Trường Sa nhưng dù đã thảo luận mười mấy năm vẫn dừng lại trên giấy. Vì vậy, xung đột Trường Sa luôn dừng lại trong phạm vi có thể kiểm soát. Tuy nhiên, việc phát hiện dầu khí ở biển Đông đã thay đổi triệt để tiến trình này.

Việc trắc lượng biển và nghiên cứu địa chất đáy biển ở Đông Hải (biển Hoa Đông) và biển Đông đã bắt đầu từ trước Thế chiến thứ hai, về mặt này Nhật Bản đã tích lũy không ít số liệu. Chỉ có điều vào lúc đó, việc khai thác dầu khí dưới đáy biển vẫn là chuyện ngoài tầm với, vì không có ai chuyên môn nghiên cứu lĩnh vực này. Sau Thế chiến thứ hai, việc khai thác dầu khí dưới biển trở nên khả thi, thăm dò dầu khí ở đáy biển dần trở thành điểm nóng của giới khoa học và giới công nghiệp. Ở biển Hoa Đông và biển Đông, công trình có liên quan đến dầu khí ở đáy biển sớm nhất có khả năng là “Sự phân bố của các trầm tích tầng đá lục địa ở Đông Á” do các nhà địa chất học Mĩ F. P. Shepard, K.O. Emery và H.R. Gould công bố năm 1949.[525] Tuy nhiên, trọng tâm nghiên cứu ở biển Đông của báo cáo này vẫn là tầng trầm tích đáy biển ven bờ bán đảo Đông Dương, chưa có nhiều nghiên cứu về địa chất vùng xa bờ biển Đông, công nghệ được sử dụng chưa đủ để khẳng định ở đáy biển Đông có dầu hay không. Sau đó, K.O. Emery chuyển sang nghiên cứu địa chất ở bang California của Mĩ và vịnh Ba Tư (Persian Gulf)). Đến cuối những năm 1950, ông đã trở thành giáo sư địa chất biển, Học viện Công nghệ Massachusetts, và bắt đầu quan hệ hợp tác lâu dài với giáo sư Hiroshi Niino ở Khoa Địa chất, Đại học Thuỷ sản Tokyo, cùng nhau tiến hành khảo sát địa chất đáy biển Hoa Đông và biển Đông. Ngay từ những năm 1930, Hiroshi Shinno đã tham gia nghiên cứu địa chất biển trên khắp Nhật Bản, đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm và số liệu về địa lí địa chất khu vực này. Sự hợp tác của hai người nhanh chóng mang lại kết quả. Tháng 10/1955, họ cùng nhau nộp một bài viết có tên là “Đá trầm tích vùng biển cạn của biển Hoa Đông và biển Đông”, được công bố trên tạp chí học thuật của Mĩ là “Tập san Hội Địa lí học Hoa Kì” vào tháng 5/1961.[526] Qua nghiên cứu hơn 1 000 mẫu đất đá gần bờ của vùng bờ biển kéo dài từ Hoàng Hải đến vịnh Bắc Bộ, bài báo đã thảo luận cấu tạo địa chất của Hoàng Hải, biển Hoa Đông và biển Đông, đưa ra giả thuyết ở nơi giáp giới của Hoàng Hải và biển Hoa Đông cũng như phần trung tâm của vịnh Bắc Bộ có thể có trầm tích cacbon hữu cơ (tức dầu mỏ). Bài viết này được cho là bài viết sớm nhất cho rằng đáy biển Hoa Đông và biển Đông có dầu mỏ dựa vào số liệu thực nghiệm của khảo sát thực tế (chứ không phải là chỉ là lí luận và suy đoán).

Kết quả nghiên cứu này đã khơi ra một loạt hoạt động khảo sát tiếp sau. Năm 1958, Hội nghị hải dương thứ nhất của Liên Hợp Quốc đã lập ra 4 công ước lớn như “Công ước thềm lục địa” (xem V.2), đã thúc đẩy thêm một bước việc khảo sát tài nguyên thềm lục địa biển Đông. Ở phía biển Đông có hai lực lượng khảo sát quan trọng nhất – Cục Đo đạc biển của hải quân Mĩ và Liên Hợp Quốc.

Hải quân Mĩ chủ yếu xuất phát từ nhu cầu cuộc chiến chống tàu ngầm mà khảo sát địa hình đáy biển, đồng thời cũng mong muốn nhân tiện thu được nhiều hơn tư liệu có ích về địa chất. Trong những năm 1960, Hải quân Hoa Kì đã tiến hành nghiên cứu thường xuyên và liên tục về địa từ và sóng địa chấn ở biển Hoa Đông và biển Đông, và đã đạt được những tiến bộ đáng kể và thu được nhiều dữ liệu có ích. Hành động chủ yếu bao gồm: năm 1961, tàu khảo sát “Pioneer” được phái đi khảo sát tổng hợp về hải dương biển Đông; Năm 1966, tàu “Likhoboff” được cử đi khảo sát địa chất thuỷ văn và lực từ ở biển Đông; năm 1967, “Dự án Địa từ” được tổ chức để tiến hành đo đạc từ tính hàng hải quy mô lớn ở biển Đông và phía Bắc thềm lục địa quần đảo Sunda, mặt cắt từ tính hàng hải quần đảo Hoàng Sa, Macclesfield (Trung Sa) và Trường Sa; tháng 9/1967 đến tháng 2/1968, cùng với Việt Nam, Thái Lan, Malaysia tiến hành quan trắc hàng hải theo mặt cắt với chiều dài 20 000 km ở biển Đông.[527]

Tuy nhiên, bên thăm dò biển Đông quan trọng hơn là Liên Hợp Quốc. Liên Hợp Quốc không lâu đã thành lập Uỷ Ban Kinh tế Châu Á và Viễn Đông (Economic and Social Commission for Asia and the Far East, ECAFE), năm 1974 đổi tên là Uỷ ban Kinh tế châu Á Thái Bình Dương (Economic and Social Commission for Asia and the Pacific, ESCAP), như là tổ chức điều phối thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở Viễn Đông. Dựa trên thành quả khảo sát của K.O. Emery cũng như một số nghiên cứu tiếp sau đó (chủ yếu là bắt nguồn từ tư liệu địa từ công khai của hải quân Mĩ), cần một tổ chức có tính khu vực để cùng khai thác. Vì vậy, vào năm 1966 Liên Hợp Quốc đã thành lập cơ quan chung CCOP (Committee for the Coordination of Join Prospecting for Mineral Resources in Asian Offshore Area: Uỷ ban điều phối các hoạt động thăm dò chung về tài nguyên khoáng sản ở khu vực ngoài khơi châu Á) để cùng chia sẻ số liệu đo đạc đáy biển, điều hợp việc khảo sát tài nguyên khoáng vật dầu mỏ ở vùng biển Đông Á. Nước thành viên ban đầu có Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc và Philippines, sau đó là Mĩ, Anh, Pháp và Tây Đức gia nhập với tư cách là nước cố vấn hoặc điều phối. Tiếp sau đó, Thái Lan, Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt), Campuchia, Malaysia và Indonesia cũng lần lượt gia nhập. Do đó, Uỷ ban này đã trở thành cơ quan chính thức khảo sát tài nguyên dầu mỏ biển Hoa Đông và biển Đông.

Ở biển Hoa Đông, từ tháng 10 đến tháng 11/1968, CCOP tổ chức đoàn khảo sát liên hợp 4 bên Mĩ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, tiến hành khảo sát quy mô lớn hơn trên biển Hoa Đông và Hoàng Hải. Báo cáo điều tra[528] chỉ ra thềm lục địa biển Hoa Đông và đáy biển Hoàng Hải có rất nhiều khả năng có dầu và khí thiên nhiên; còn khu vực giữa Nhật Bản và Đài Loan, tức vùng biển gần đảo Điếu Ngư (Senkaku) thì có tiềm năng trở thành khu vực khai thác dầu khí có trữ lượng phong phú tầm cỡ thế giới. Điều này đã gây ra tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật Bản đối với đảo Điếu Ngư.

Ở biển Đông, vào năm 1968 CCOP cũng nộp một báo cáo khác, chỉ ra rằng vùng ven bờ và vùng biển lân cận của Việt Nam, vùng biển phía Đông và phía Nam của quần đảo Trường Sa chứa đựng tài nguyên dầu khí phong phú.

Thời gian từ tháng 6 đến tháng 8/1969, tàu khảo sát “Hunter” của Mĩ dưới sự chỉ huy của Viện Nghiên cứu Hải dương Hoa Kì, đã tiến hành khảo sát 5 lần ở khu vực biển Đông. Báo cáo khảo sát cho thấy vùng biển này chủ yếu là các núi có đáy là đá magma, giữa các ngọn núi đều có bồn trũng do trầm tích hình thành, có khả năng chứa khối lượng lớn dầu khí.[529] Những báo cáo này, đã kích thích thêm một bước các nước tăng tốc việc kiểm soát chủ quyền đối với các đảo biển Đông.

Những hoạt động đo đạc này dường như cùng lúc với việc các nước Đông Nam Á nối tiếp nhau đưa ra yêu sách thềm lục địa và phân định vùng biển: năm 1961, Philippines công bố Luật đường cơ sở lãnh hải (xem IV.8); năm 1966, Malaysia công bố Luật thềm lục địa (xem IV.11); năm 1967, Nam Việt Nam tuyên bố thềm lục địa và tài nguyên thềm lục địa thuộc quyền quản lí riêng của Việt Nam (xem IV.9); năm 1968, Philippines tuyên bố phạm vi thềm lục địa (xem IV.8); năm 1968, Indonesia và Malaysia đạt được thỏa thuận phân định vùng biển (xem IV.11); năm 1970, Nam Việt Nam công bố “Luật dầu khí” (xem IV.9)… Cuộc tranh giành biển Đông giữa các nước bước vào giai đoạn mới.

IV.8. Philippines chiếm đóng quần đảo Trường Sa

Công bố luật lãnh hải

Philippines đi đầu trong vòng mới của cuộc chiến tranh giành các đảo với việc ban hành luật lãnh hải. Với tư cách là một quốc gia quần đảo, Philippines dốc hết sức vào cuộc tranh giành quyền lợi biển. Năm 1958 Liên Hợp Quốc tổ chức Hội nghị về Luật biển lần thứ nhất, và kí “Công ước Luật biển Geneva”, Công ước này cấu thành từ 4 hiệp ước, lần lượt là “Công ước về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp”, “Công ước về Thềm lục địa”, “Công ước về Hải phận Quốc tế” và “Công ước về Nghề cá và Bảo tồn tài nguyên sống ở vùng biển quốc tế”. Sau khi kí, Philippines là một trong những nước phê chuẩn sớm nhất (cũng là một bên kí Công ước nhưng mãi đến sau khi xảy ra tranh chấp đảo Điếu Ngư, Đài Loan mới phê chuẩn). Ngày 17/6/1961, Tổng thống Garcia ban hành luật số 3046 “Luật xác định đường cơ sở của lãnh hải của Philippines” (Republic Act No. 3046, Act for define the baseline of the territorial sea of the Philippines, June 17, 1961), quy định vùng biển Philippines bao gồm vùng nội thuỷ và lãnh hải, và đã xác định rõ đường cơ sở lãnh hải (Hình 29):

This image has an empty alt attribute; its file name is image-90.png

Hình 29: Đường cơ sở lãnh hải của Philippines

Xét thấy các hiệp ước trên quy định vùng nước bên trong biên giới đều thường được xem là một bộ phận vùng biển của quần đảo Philippines;

Xét rằng tất cả vùng nước bao quanh, đan xen và liên kết giữa các đảo của quần đảo Philippines, bất kể bề rộng hoặc diện tích lớn nhỏ của chúng thường được cho là bộ phận phụ thuộc tất yếu của lãnh thổ đất liền, cấu thành một bộ phận vùng nước nội địa (inland) hoặc nội bộ (internal) của lãnh thổ Philippines;

Xét rằng vùng nước ở ngoài các đảo xa nhất của quần đảo nhưng nằm trong phạm vi biên giới mà các hiệp ước kể trên quy định tạo thành lãnh hải Philippines;

Xét rằng đường cơ sở của lãnh hải của Philippines đã được xác định là các đường thẳng nối các điểm cơ sở thích hợp của các đảo liên tiếp ngoài cùng tạo thành;

Trước khi các bên liên quan có thể có được thông tin, cái gọi là đường cơ sở nói trên cần được làm sáng tỏ, xác định và mô tả cụ thể.[530]

Philippines còn đưa ra tọa độ của các điểm cơ sở rất chi tiết. Như hình 29 cho thấy, theo luật này, bên trong đường cơ sở (đường liền nét) là nội thuỷ của Philippines, vùng biển ngoài đường cơ sở nhưng trong đường ranh giới của hiệp định (đường chấm vạch) là lãnh hải của Philippines. Đáng để chỉ ra là đường cơ sở lãnh hải của Philippines khi đó không bao gồm quần đảo Trường Sa và bãi Scarborough (đảo Hoàng Nham), chúng cũng đều ở ngoài đường giới hạn lãnh hải (tức đường phân định của hiệp ước) (một phần của một số bãi ngầm thuộc Trường Sa nằm trong đường phân định của hiệp ước, ở đây không đi sâu nghiên cứu).

Nguyên nhân khiến bãi Scarborough không được bao gồm vào có thể là do sau khi ban bố Luật này Philippines mới cắm cờ, bắt buôn lậu và tiễu phỉ ở bãi Scarborough (xem phần sau). Nguyên nhân không bao gồm quần đảo Trường Sa có thể là do chú ý đến quan hệ quốc tế. Điều này cũng lại một lần nữa cho thấy rằng Garcia tương đối biết giữ chừng mực.

Luật này có thể xem là di sản cuối cùng mà Garcia để lại cho quyền lợi biển của Philippines. Mấy tháng sau, ông ta bị thua trước Macapagal của Đảng Tự do cánh tả (Diosdado Pangan Macapagal, cha của Tổng thống Arroyo sau này) trong cuộc tổng tuyển cử. Macapagal không có nhiều hành động cho biển Đông. Nhưng 4 năm sau đó (ngày 30/12/1965) Ferdinand Marcos lên nắm quyền, tình hình biển Đông lại có sự thay đổi. Marcos và Garcia đều thuộc Đảng Quốc dân phe hữu. So với Garcia, ông ta chống cộng kiên quyết hơn.

Tháng 10/1966, để đối phó với chiến tranh Việt Nam, ông ta đã chủ trì hội nghị của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á tại Manila, lấy lí do ủng hộ quân Mĩ, ông đã phái quân Philippines đến Việt Nam, khiến cho quan hệ đồng minh với Mĩ càng trở nên thân thiết hơn. Cuối nhưng năm 1960, phong trào cộng sản vũ trang trỗi dậy và phát triển, Quân đội Nhân dân Mới hình thành; học sinh phe tả cũng chịu ảnh hưởng của phong trào cánh tả, phát động Phong trào Bão tố Quý I (First Quarter Storm); các phần tử chủ nghĩa ly khai Hồi giáo ở miền Nam cũng tăng cường hoạt động vũ trang. Trong tình hình này, trong nhiệm kì thứ hai (ngày 21/9/1972), Marcos tuyên bố lệnh giới nghiêm, huỷ bỏ quy định chỉ được phục vụ hai nhiệm kì liên tiếp theo Hiến pháp ban đầu, thậm chí lấy lí do lệnh giới nghiêm để huỷ bỏ bầu cử Tổng thống, đi theo con đường độc tài. Philippines dưới sự lãnh đạo của ông, cùng với lợi ích dầu mỏ, và thêm lí do chống cộng và chủ nghĩa dân tộc, chính phủ đã bắt đầu đưa chính sách mới cho Trường Sa lên hàng đầu.

Ngày 20/3/1968, Philippines ra Tuyên cáo số 370, tuyên bố rằng tất cả khoáng vật và tài nguyên thiên nhiên khác ở đáy biển và trên tầng đất cái ở tất cả thềm lục địa giáp Philippines, bao gồm phạm vi biển từ ngoài khu vực lãnh hải Philippines đến nơi có độ sâu cho phép khảo sát những tài nguyên này, bao gồm các vùng biển lân cận có các giống sinh vật sống định cư, đều thuộc sự quản lí và kiểm soát của Philippines.[531] Thông qua lệnh này, thềm lục địa mà Philippines có thể kiểm soát hợp pháp vượt ra ngoài ranh giới của hiệp ước, đặt nền tảng pháp lí cho việc mở rộng hơn nữa các quyền ở biển Đông.

Chiếm đóng quân sự

Đồng thời, Philippines cũng bắt đầu có hoạt động mới ở Trường Sa. Ngày 5/4/1968, Philippines phái tàu chiến đến gần đảo Ba Bình, đây là lần đầu tiên trong lịch sử tàu chiến Philippines tiến vào biển Đông. Quân trú đóng Đài Loan hết sức kinh hãi, phát đèn tín hiệu tra hỏi không nhận được trả lời. Quân Đài Loan phải bắn chỉ thiên cảnh cáo thì tàu Philippines mới rời đi. Sau khi biết tin, Bộ Quốc phòng Đài Loan quyết định: (1) khi có sự kiện tương tự như vậy thì cố khuyên giải họ rời đi; (2) phải báo với Bộ Ngoại giao, nhưng tránh dùng công hàm chính thức để thông báo cho chính phủ Philippines nhằm tránh làm ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao giữa hai nước.[532] Theo chỉ thị này, tùy viên quân sự ở Đại sứ quán tại Philippines đã đề xuất với hải quân Philippines rằng nếu sau này tàu chiến Philippines muốn đến gần quần đảo Trường Sa thì cần phải thông báo cho phía Đài Loan trước để tránh hiểu nhầm. Phía Philippines trả lời, nói với phía Đài Loan rằng Philippines hiện đang giải quyết vấn đề Sabah, không hề để ý đến Trường Sa.[533]

Nhưng chẳng bao lâu, Philippines lại chính thức ra tay hành động. Ngày 23/8/1970, Philippines phái tàu chiến chiếm đảo Vĩnh Viễn (Mã Hoan, đặt tên là Lawak) và cử quân đóng lại trên đảo, ngày 14/4/1971 chiếm đảo Loại Ta (Nam Thược, đặt tên là Kota Island); ngày 18/4/1971 chiếm đóng đảo Thị Tứ (Trung Nghiệp, đặt tên là Pagasa Island), trên hai đảo này đều cử quân trú đóng, những hành động này đều được thực hiện lặng lẽ, Đài Loan và Bắc Kinh khi đó đều hầu như không biết gì về việc này.

Lúc này, Philippines bước vào mùa tranh cử Quốc hội, nhằm tạo cao trào trong dư luận, lãnh đạo Đảng Tự do đối lập là Ramon V. Mitra đã có bài phát biểu tại phiên họp đặc biệt của Quốc hội ngày 7/7/1971, nói rằng ông lái du thuyền đi câu cá ở vùng biển phía tây Palawan vào cuối tuần trước, và hai lần bị đại bác tầm xa từ hướng “Lãnh thổ Tự do” (tức Trường Sa) bắn tới. Ông dùng ống nhòm quan sát về phía pháo bắn, phát hiện có “quân nước ngoài” trú đóng trên một hòn đảo. Sau đó ông ta đi máy bay tư nhân quan sát, xác nhận đảo này là đảo Vĩnh Viễn, trên đảo có quân Trung Hoa Dân Quốc đóng.

Trên thực tế, nội dung phát biểu của Mitra chỉ là hư cấu, ông ta là người Palawan, khu vực tuyển cử cũng tại Palawan, có thể ông tương đối hiểu rõ việc ở Trường Sa nên đã thêu dệt ra câu chuyện “đi câu cá bị bắn pháo” để tạo ra điểm nóng. Thật ra, đóng trên đảo Vĩnh Viễn khi đó không phải quân Trung Hoa Dân Quốc mà là quân Philippines. Sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Philippines biết tin, đã lập tức phái người đi điều tra, cũng xác nhận không có sự kiện bắn pháo nào.[534]

Nhưng sự việc này đã mang đến cho Philippines một cơ hội ngoại giao. Ngày 8/7, Ngoại trưởng Philippines Carlos P. Rómulo triệu tập Đại sứ Đài Loan tại Philippines Tôn Bích Kì, nói rằng sự kiện bắn pháo tuy là không có thật, nhưng nếu quân trú đóng của Đài Loan ở Trường Sa tùy tiện nổ súng thì không tránh khỏi bị nghi ngờ là khiêu khích; Tổng thống Marcos cho rằng Trường Sa cách Đài Loan rất xa, không ảnh hưởng an ninh Đài Loan, yêu cầu Đài Loan rút quân đóng giữ trên đảo. Tôn Bích Kì trả lời Trường Sa là lãnh thổ Trung Hoa Dân Quốc, đóng quân ở đó có lợi cho quốc phòng của Philippines.

Thái độ của Tôn Bích Kì không thể ngăn cản Philippines có thêm hành động tiếp. Ngày 10/7, Marcos tổ chức Hội nghị an ninh quốc gia, bao gồm chủ tịch hai viện, các lãnh đạo quan trọng của Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính và Quân đội cũng tham gia Hội nghị. Sau Hội nghị, Marcos chính thức tuyên bố rằng ông đã phê chuẩn công hàm ngày 8/7 do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đề xuất yêu cầu Đài Loan rút quân khỏi Trường Sa, đồng thời tuyên bố đã đóng quân ở trên 3 đảo chính của Trường Sa (tức 3 đảo nhắc đến ở trên). Hội nghị an ninh quốc gia cho rằng quần đảo Trường Sa sau Thế chiến thứ hai là đất uỷ trị của Đồng minh, tiếp giáp với lãnh thổ Philippines, nếu để mặc cho quân đội nước ngoài chiếm đóng sẽ tạo thành mối đe dọa đối với an ninh quốc gia. Marcos còn cho rằng theo luật quốc tế thì tư nhân không thể có được chủ quyền lãnh thổ một cách hợp pháp, cho nên trên thực tế Lãnh thổ Tự do của Cloma đã chuyển nhượng cho chính phủ Philippines. Ngoài ra, Luật Dầu khí của Philippines đã quy định tất cả tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên khoáng sản phát hiện ở thềm lục địa Philippines đều thuộc chính phủ Philippines, mà quần đảo Trường Sa ở ngay trên thềm lục địa của Philippines. Sau Hội nghị an ninh, với đề xuất của nhóm Mitra, Quốc hội Philippines lập tức thông qua nghị quyết cấp 1 triệu Peso để khai thác quần đảo Trường Sa.

Ngoài việc đưa ra kháng nghị, Đài Loan không có cách ứng phó nào khác. Ngay cả trong Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 6 Hội đồng châu Á Thái Bình Dương tổ chức từ ngày 14 đến 16/7 tại Manila, để tránh ảnh hưởng đến sự đoàn kết của các nước, Đài Loan đã chọn không đưa vấn đề này ra thảo luận trong cuộc họp. Ngay trước Hội nghị vào ngày 13, một thông cáo chung được đưa ra, tuyên bố rằng hai bên có quan điểm khác nhau về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa, nhưng cả hai đều sẵn sàng giải quyết theo cách hòa bình. Cùng ngày, Nam Việt và Trung Hoa cộng sản cũng ra tuyên bố, phản đối đòi hỏi chủ quyền của Philippines đối với Trường Sa. Ngày 18/7, Marcos tuyên bố Lãnh thổ Tự do mà Philippines chiếm đóng không thuộc quần đảo “Spratly”. Rõ ràng, Philippines cũng tiếp tục giả vờ nhầm lẫn về vấn đề địa danh (xem IV.2).

Năm 1971, tình hình thế giới có nhiều biến động. Để chống lại Liên Xô, Mĩ và Trung Hoa cộng sản đã tiến hành “ngoại giao bóng bàn” vào tháng 4/1971, sau đó cố vấn an ninh quốc gia Kissinger bí mật thăm Trung Quốc làm tan băng quan hệ Trung-Mĩ.

Tháng 7/1971, Trung Hoa cộng sản tích cực tìm cách giành địa vị đại diện hợp pháp của Trung Quốc ở Liên Hợp Quốc. Ngày 15/7, tại Đại đồng Liên Hợp Quốc, Albania cùng 17 nước khác đề xuất vấn đề “khôi phục quyền lợi hợp pháp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại tổ chức Liên Hợp Quốc” vào chương trình nghị sự của Đại hội Liên Hợp Quốc khóa 26.

Ngày 25/9, 23 nước đưa ra dự thảo nghị quyết, yêu cầu “thừa nhận đại diện của chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là đại diện hợp pháp duy nhất của Trung Quốc tại tổ chức Liên Hợp Quốc, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một trong 5 nước thường trực của Hội đồng Bảo an, quyết định khôi phục tất cả quyền lợi của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, thừa nhận đại diện chính phủ của họ là đại diện hợp pháp duy nhất của Trung Quốc, đồng thời trục xuất ngay đại diện của Tưởng Giới Thạch ra khỏi ghế mà họ chiếm giữ phi pháp ở tổ chức Liên Hợp Quốc và tất cả tổ chức dưới quyền”.[535] Trong cuộc biểu quyết ngày 25/10, dự thảo (sửa đổi) được thông qua với tỉ lệ lớn với 76 phiếu thuận, 35 phiếu chống và 17 phiếu trắng, thành Nghị quyết số 2758. Từ đó, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã chính thức thay thế Trung Hoa Dân Quốc trong tư cách là đại diện của Trung Quốc..

Trong mấy tháng này, Trung Hoa Dân Quốc bị công kích nặng nề về ngoại giao, và đã cố hết sức để giải quyết vấn đề ghế tại Liên Hợp Quốc.

Philippines nhân cơ hội đưa ra vấn đề Trường Sa, ngoài việc bày tỏ kháng nghị và phản đối, thực tế Đài Loan hoàn toàn không có cách nào phản ứng mạnh hơn. Trọng điểm ngoại giao của Trung Hoa cộng sản là sự công nhận của quốc tế, nên vấn đề này cũng nằm ngoài tầm chú ý của họ.

Còn Nam Việt cũng đang có chiến tranh. Lợi dụng các bên không có thời gian chú ý đến, ngày 30/7 Philippines lại lần nữa điều tàu chiến, chiếm đóng đảo Bến Lạc (Tây Nguyệt, đặt tên là Likas) và đảo Song Tử Đông (Bắc Tử, đặt tên là Parola). Như vậy đến tháng 8/1971, Philippines đã chiếm tổng cộng 5 đảo ở Trường Sa, và đóng quân trên toàn bộ các đảo này. Theo nguồn tin của Đài Loan, ngày 29/7, chi đội hải quân (chiến đội tàu chở chiến xa đổ bộ Thái Hồ, Thái Khang và Trung Túc – đại đội tăng cường) phát hiện quân Philippines đang đổ bộ lên đảo Trung Nghiệp (Thị Tứ).

Chi đội trưởng Thượng tá Hách Đức Vân chuẩn bị tiến công giành lại nhưng nhận được mệnh lệnh không cho phép khiêu chiến.[536] Ngày 26/10, một ngày sau khi Đài Loan rời khỏi Liên Hợp Quốc, Tổng Tham mưu trưởng Philippines Manuel T. Yan thông báo rằng ngày 23/10, tàu khu trục số 25 và 34 của hải quân Đài Loan thử phái người nhái đổ bộ lên đảo Thị Tứ (Trung Nghiệp) nhưng thất bại vì bị quân trú đóng Philippines chống trả; ngày 26/10 cũng có tàu hải quân Đài Loan thử đổ bộ lên đảo Loại Ta (Nam Thược), cũng bị quân trú đóng Philippines chống lại. Ông tuyên bố, Philippines đã kiểm soát 6 đảo của Trường Sa (ngoài 5 đảo kể trên còn có đảo Song Tử Tây (Nam Tử)), đồng thời tuyên bố hễ đảo nào có quân đội Đài Loan đóng giữ, Philippines đều không đến gần, nhưng mong muốn Đài Loan cũng không tiếp cận các đảo mà quân Philippines chiếm giữ.

Sửa đổi Hiến pháp

Đồng thời với chiếm đóng quân sự, Philippines cũng tiến hành công tác pháp luật. Khi đó Philippines sử dụng Hiến pháp năm 1935.[537]

The Philippines comprises all the territory ceded to the United States by the Treaty of Paris concluded between the United States and Spain on the tenth day of December, eighteen hundred and ninety-eight, the limits which are set forth in Article III of said treaty, together with all the islands embraced in the treaty concluded at Washington between the United States and Spain on the seventh day of November, nineteen hundred, and the treaty concluded between the United States and Great Britain on the second day of January, nineteen hundred and thirty, and all territory over which the present Government of the Philippine Islands exercises jurisdiction.[538]

(Philippines bao gồm tất cả lãnh thổ được nhượng lại cho Mĩ theo Hiệp ước Paris được kí kết giữa Mĩ và Tây Ban Nha ngày 10 tháng 12 năm 1898, ranh giới được đề cập trong điều 3 của hiệp ước này cùng với tất cả các đảo được nêu ra trong hiệp ước được kí kết tại Washington giữa Mĩ và Tây Ban Nha vào ngày 7 tháng 11 năm 1900, và trong hiệp ước được kí kết giữa Mĩ và Anh ngày 2/1/1930, và tất cả lãnh thổ mà Chính phủ quần đảo Philippines hiện nay đang thực thi quyền lực pháp lí”.)

Trong điều này, lãnh thổ Philippines có phạm vi được quy định trong các hiệp ước (đều không bao gồm Trường Sa), cũng như những vùng đất mà chính phủ lúc đó (chỉ thời kì 1935) thực thi quyền tài phán (nhưng khi đó Philippines không hành xử quyền tài phán ở Trường Sa), nên trong Hiến pháp này, Trường Sa đã bị loại trừ. Vì vậy, Philippines cần phải sửa đổi Hiến Pháp mới tiện đưa Trường Sa vào.

Bắt đầu từ năm 1970 Philippines tiến hành soạn thảo Hiến pháp, dù mục đích chủ yếu nhất không phải để sửa đổi phạm vi lãnh thổ mà là thay đổi chế độ Tổng thống thành chế độ Quốc hội, nhưng họ cũng muốn nhân cơ hội này để giải quyết luôn vấn đề pháp lí của lãnh thổ.[539] Ngày 26/7/1971, dân biểu Jose de Venecia Jr. đề xuất đưa Lãnh thổ Tự do vào trong phạm vi lãnh thổ của Hiến pháp mới. Còn Chủ tịch Uỷ ban Lãnh thổ Quốc gia (Committee on National Territory) thậm chí chủ trương đưa Lãnh thổ Tự do, Sabah (Malaysia), quần đảo Mariana (Mĩ), đảo Guam (Mĩ) và đảo Bataan vào trong Hiến pháp.[540] Tuy nhiên, do cách làm thế này liên quan quá nhiều đến quan hệ ngoại giao, điều khoản sửa đổi lãnh thổ quốc gia thông qua ngày 17/2/1972, đã sử dụng hình thức diễn tả chiết trung và mơ hồ:

The national territory comprises the Philippine archipelago, with all the islands and waters embraced therein, and all the other territories belonging to the Philippines by historic or legal title, including the territorial sea, the air space, the subsoil, the sea-bed, the insular shelves, and the submarine areas over which the Philippines has sovereignty or jurisdiction. The waters around, between, and connecting the islands of the archipelago, irrespective of their breadth and dimensions, form part of the internal waters of the Philippines.

(Lãnh thổ quốc gia bao gồm quần đảo Philippines, với tất cả các đảo và vùng nước bao bọc trong đó, và tất cả các lãnh thổ khác thuộc về Philippines qua sở hữu (danh nghĩa) lịch sử hoặc pháp lí, bao gồm lãnh hải, vùng trời, đất dưới lòng đất, lòng biển, các thềm đảo và các khu vực ngầm mà Philippines có chủ quyền hoặc quyền tài phán. Vùng nước xung quanh, giữa và nối các đảo của quần đảo, bất kể bề rộng và kích thước của chúng, tạo thành một phần nội thuỷ của Philippines.)

Theo đó, lãnh thổ Philippines hoàn toàn không dùng hình thức liệt kê, nhưng cũng không giới hạn trong phạm vi mà các hiệp ước quy định. Vì vậy, chính phủ Philippines sẽ có thể tuyên bố chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ không phải là một phần của Philippines trong hiến pháp ban đầu.

Chuyển nhượng nước Lãnh thổ Tự do (Freedomland)

Trở ngại pháp luật thứ hai là tranh chấp với nước FreedomLand của Cloma. Cho dù Marcos tuyên bố FreedomLand đã chuyển nhượng cho Philippines nhưng trên thực tế khi đó không có cái gọi là quá trình chuyển nhượng. Cloma cũng cho rằng mặc dù trước đó ông ta từng yêu cầu đặt FreedomLand dưới sự bảo hộ của Philippines, nhưng điều này không đồng nghĩa với việc chuyển nhượng, hơn nữa chính phủ Philippines cũng không bày tỏ thái độ rõ ràng. Ngày 30/9/1973, trong một buổi tọa đàm Cloma còn tuyên bố: nếu như chính phủ Philippines tôn trọng quyền tự chủ của ông ta đối với Freedomland, ví dụ treo cờ của Freedomland, lập cột mốc ranh giới, khai thác tài nguyên khoáng sản…, thì ông ta sẽ bằng lòng kí hiệp định với chính phủ Philippines, chuyển giao chủ quyền của Freedomland cho Philippines với những điều kiện nào đó. Khai thác tài nguyên khoáng sản ở đây là chỉ việc Cloma từng cấp một số “giấy phép chuyển nhượng khai thác mỏ”, cũng như việc tiếp xúc với một công ti dầu khí Mĩ về công việc có liên quan đến khai thác dầu khí dưới đáy biển theo như ông tuyên bố. Tại Quốc hội Lập hiến, Cloma tiếp tục chỉ trích chính phủ Philippines lấy danh nghĩa bảo hộ mà trên thực tế lại trợ giúp các nhân viên tiến hành thăm dò dầu khí và người “chiếm đoạt” đất đai ở khu vực này, đã xâm phạm quyền lợi của Freedomland, đồng thời ông lấy danh nghĩa “nguyên thủ của Freedomland” gửi điện cho Marcos, tố cáo “hành vi phi pháp” này.

Nhưng chính phủ Philippines không hề để ý đến yêu sách này của Cloma. Tháng 3/1972, Uỷ ban Sử dụng hòa bình đáy biển Liên Hợp Quốc (The UN Committee on the peaceful uses of the seabed and the ocean floor) tổ chức hội nghị lần thứ 72. Đại biểu Trung Quốc đề xuất rằng chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa là thuộc về Trung Quốc, và yêu cầu Uỷ ban đưa điều này vào biên bản. Quyền Ngoại trưởng Philippines đã đưa ra tuyên bố ngay tại chỗ với các bảo lưu, và cũng yêu cầu Uỷ ban đưa vào biên bản: Philippines có chủ quyền đối với 53 đảo, đá của Freedomland, đồng thời tuyên bố những đảo, đá này đã nằm trong sự chiếm đóng và kiểm soát hiệu quả của Philippines, sự chiếm đóng này là công khai và độc quyền (which is open and adverse to all claims); ông ta đồng thời cũng công kích yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa của Trung Quốc (chỉ Trung Quốc Cộng sản), dẫn đến sự công kích kịch liệt của Trung Quốc.

Xét thấy Philippines ngày càng có xu hướng không chú ý đến chính mình cũng như lo lắng bị Trung Quốc tấn công, Cloma quyết định chủ động giải quyết vấn đề tình trạng của Freedomland. Ngày 29/3/1972, Cloma thông qua bạn của mình – vốn là cựu quan chức ngoại giao Dr. Juan Arreglado, ra tuyên bố biểu thị rằng Cloma sẵn sàng tiến hành đàm phán về việc thiết lập quan hệ bảo hộ giữa Freedomland với chính phủ Philippines. Arreglado thì tuyên bố đã đề nghị đàm phán với Chủ tịch Quốc hội Philippines, mục đích là để cho Freedomland sớm trở thành nước được bảo hộ (protected state) của Philippines, đồng thời cho rằng điều này là để được sự công nhận của quốc tế đối với chủ quyền của Philippines ở Trường Sa, cũng như đây là cách tốt nhất để giải quyết vấn đề Trường Sa. Nhưng chính phủ Philippines không trả lời.

Trung tuần tháng 4, để kỉ niệm 16 năm chuyến thám hiểm đầu tiên đến Freedomland, Croma có kế hoạch dẫn một nhóm người đến quần đảo Trường Sa để kiểm tra và ăn mừng. Do các đảo chính đều bị phía quân đội Philippines chiếm, hành động của nhóm Cloma bị ngăn lại, cuối cùng chỉ đành mất công quay về. Ngày 24/4, Cloma thành lập Uỷ ban Cố vấn (Advisory Council) của Chính phủ Freedomland do Arreglado đảm nhận chức Chủ tịch, cựu dân biểu Quốc hội Jose C .de Venecia đảm nhận chức Chủ tịch Danh dự, Luật sư Mena D. Teganas đảm nhận chức Bí thư. De Venecia đại diện Freedomland đề xuất với chính phủ Philippines hai việc: một là ủng hộ chủ quyền của Freedomland đối với Trường Sa; hai là chính thức kí thỏa thuận, giành được chủ quyền đối với Trường Sa từ Freedomland. Ngày 21/5, Cloma chính thức lên án Marcos đã xâm lược Freedomland với giới báo chí.

Đầu năm 1974, Cloma và Uỷ ban Cố vấn (đã đổi tên là Uỷ ban Tối cao -Supreme Council) soạn thảo Hiến pháp mới của Lãnh thổ Tự do, đề xuất tình trạng của Freedomland là “Đại Công quốc” (Principality), hoan nghênh nhân dân các nơi trên thế giới đến Đại Công quốc làm ăn sinh sống. Có nhiều người từ các nước châu Á, châu Âu đã gia nhập “Đại Công quốc”. Trong đó có một người là Thân vương Mariveles (Prince John B. de Mariveles). Lúc này, Marcos đã tiến hành đảo chính, thành lập chính phủ quân sự. Cloma năm đó 71 tuổi không thể không tăng nhanh hành động. Ngày 24/8, Đại Công quốc đã chuẩn bị văn kiện kế vị. Ngày 5/11, tại Manila, Cloma đã kí văn kiện (Documents 1096, Succession, 1974), từ bỏ chức Chủ tịch Đại Công quốc, đồng thời giao vị trí này cho Thân vương Mariveles. Đồng thời kí một văn kiện khác (số 1097) đổi tên Đại Công quốc thành Vương quốc Colonia (Kingdom of Colonia), do Thân vương Mariveles đảm nhận chức Quốc vương.[541]

Sau khi biết được việc này Marcos ra lệnh bắt Cloma, đổng thời tống giam ông ta với tội danh “giả danh lừa bịp” cáo buộc ông ta từng tự xưng Đô đốc hải quân Philippines, lại mặc quân phục hải quân phi pháp. Trong ngục, Cloma bị ép buộc kí một bản chứng thư, bán Freedomland cho chính phủ Philippines với giá 1 Peso (Deed of Cession to Philippines President Marcos), chỉ sau đó mới được thả. Từ đó, Philippines đã “thanh toán” quan hệ phức tạp giữa hai bên về mặt pháp lí qua việc mua “Freedomland”. Tuy nhiên, do Văn kiện 1096 được kí trước, văn kiện mua bán được kí sau, hơn nữa Cloma kí văn kiện dưới sự cưỡng ép, văn kiện mua bán có hiệu lực hay không vẫn còn tranh cãi.

Có học giả cho rằng, sơ hở về pháp luật này có thể khiến Vương quốc Cloma đóng một vai trò nhất định trong giải quyết tranh chấp Trường Sa.[542] Nhưng với tư cách là Chủ tịch Uỷ ban Cố vấn Freedomland, Arreglado lại cho rằng sự chuyển nhượng này là có hiệu lực.[543] Tuy nhiên, thời điểm ông ta bày tỏ quan điểm này là ngay dưới chế độ độc tài của Marcos, mức độ xuất phát từ nhận thức riêng của ý kiến của ông ta vẫn đáng để khảo cứu.

“Chính phủ lưu vong” của Vương quốc Colonia lập tức dời đến đảo Labuan thuộc bang Sabah của Malaysia. Thống đốc bang Sabah đã tiếp đãi thân mật Thân vương Mariveles, đồng thời giới thiệu ông ta với chính phủ Malaysia. Chính phủ Malaysia được cho là từng mời vương quốc Colonia gia nhập Liên bang Malaysia, nhưng bị từ chối một cách lịch sự. Tuy vậy, vương quốc Colonia và chính phủ Malaysia vẫn duy trì quan hệ tốt, Malaysia cho phép chính phủ lưu vong cư trú tại Sabah, đồng thời cho phép công dân có “hộ chiếu” do chính phủ này cấp được xuất nhập cảnh.[544] Colonia thì cung cấp cho Malaysia tư liệu về tài nguyên khoáng sản có liên quan của Trường Sa. Nghe nói điều này đã khiến Malaysia quan tâm đến Trường Sa, theoheo đó đã phái quân chiếm đóng đá Hoa Lau [Đạn Hoàn, Swallow Reef] (mặc dù thuộc quần đảo Trường Sa nhưng không trong phạm vi tuyên bố của Colonia).[545] Năm 1981, Vương quốc đổi tên là Vương quốc Colonia St John (Kingdom of Colonia St John). Nghe nói sau đó còn thiết lập quan hệ lãnh sự với Costa Rica. Ở đây gác lại không trình bày thêm.

Trung Quốc ngầm đồng ý

Vấn đề thứ ba mà chính phủ Philippines gặp phải là sự ngầm thừa nhận của Trung Quốc. Liên tục trước nay Trung Quốc đều một mực cho rằng quần đảo Trường Sa là một bộ phận của Trung Quốc, đương nhiên do khoảng cách quá xa, nên nhất thời Trung Quốc khó có thể đe dọa trực tiếp quần đảo Nam Sa, nhưng sau khi Trung Quốc chiếm được toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vào tháng 1/1974 từ Nam Việt Nam, việc Trung Quốc kéo quân thẳng xuống phía Nam đã trở thành mối đe dọa thực tế. Hơn nữa, lập trường không chịu giúp đỡ Nam Việt về quân sự của Mĩ khiến Philippines càng thêm lo lắng (xem IV.9). Ngoại trưởng Philippines Rómulo chuyển giao yêu sách đối với Trường Sa của Trung Quốc cho Đại sứ Mĩ tại Philippines William H.Sullivan. Sullivan lập tức yêu cầu Bộ Ngoại giao làm rõ cam kết quốc phòng đối với Philippines, tức là liệu phạm vi áp dụng của “Hiệp ước Phòng thủ chung Mĩ-Philippines” có bao gồm Trường Sa hay không. Sau khi bàn bạc với các phụ tá, Kissinger quyết định không chủ động đưa ra cam kết đối với việc phòng vệ quần đảo Trường Sa. Năm 1976, khi Philippines bị Trung Quốc phản đối khai thác mỏ ở bãi Cỏ Rong (Lễ Nhạc), Marcos đã chủ động yêu cầu Mĩ làm rõ liệu phạm vi sử dụng của “Hiệp ước phòng thủ chung giữa Mĩ và Philippines” có bao gồm quần đảo Nam Sa hay không. Nhưng nhiều lần cố gắng, cuối cùng phía Mĩ đồng ý đưa ra cam kết rằng “Hiệp ước Phòng thủ chung Mĩ-Philippines” chỉ áp dụng thích hợp với máy bay, tàu chiến… của Philippines hoạt động ở bãi Cỏ Rong, tiền đề của nó phù hợp với quy định “giải quyết hòa bình tranh chấp và kiềm chế sử dụng vũ lực” của Điều 1 trong “Hiệp ước Phòng thủ chung Mĩ-Philippines”.[546]

Do Mĩ không muốn giúp đỡ Philippines phòng vệ Trường Sa, với quân đội rất nhỏ yếu của mình, nếu Trung Quốc cực lực phản đối, Philippines khó duy trì sự chiếm đóng và khai thác ở quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, tình hình thế giới vào những năm 1970 với Trung Quốc và Đài Loan tranh giành sự công nhận của quốc tế lại đem đến cho Philippines thời cơ tốt.

Sau năm 1949, Trung Quốc đã nhiều lần triển khai tuyên truyền chống Philippines, bao gồm phát tán sản phẩm tuyên truyền và phát thanh… Cùng với sự đối đầu Trung-Xô, đặc biệt là sau khi Liên Xô xâm lược Tiệp Khắc năm 1968, và sau trận chiến đảo Trân Bảo (Damansky Island) giữa Liên Xô và Trung Quốc năm 1969, Trung Quốc càng tăng cường hơn nữa quan hệ với các nước phương Tây để phá vỡ thế cô lập ngoại giao lâu nay. Về phía Philippines, khi Philippines bị bão vào năm 1970, Trung Quốc đã tặng cho Philippines thực phẩm đồ hộp trị giá 80 000 USD, mở ra cánh cửa tiếp xúc trực tiếp giữa Trung Quốc với Philippines. Cùng với sự tan băng quan hệ Trung-Mĩ và việc Trung Quốc giành được ghế ở Liên Hợp Quốc, sự qua lại giữa Trung Quốc và Philippines được tăng cường thêm một bước. Năm 1971, trong bài phát biểu về tình hình trong nước, Marcos nhấn mạnh rằng Philippines cần tìm kiếm một lộ trình thực tế và tăng cường quan hệ buôn bán với phe Liên Xô. Ngoại trưởng Rómulo cũng mong muốn tìm kiếm việc thiết lập quan hệ với phe cộng sản. Nhưng so với các nước phương Tây, Philippines có liên hệ chặt chẽ với Đài Loan, hơn nữa trong nước có vấn đề thực tế là số lượng lớn “Hoa kiều” chưa gia nhập quốc tịch.[547] Do đó, cũng khó mà thiết lập quan hệ với Trung Quốc ngay được.

Đầu những năm 1970, Philippines đã cử mấy đoàn đại biểu thăm Trung Quốc, đều thu được nhiều kết quả, khiến Philippines phải cân nhắc kĩ hơn vấn đề thiết lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh.

Nhưng trong thời gian này, Philippines vẫn duy trì cách tiếp cận “hai Trung Quốc”, tức là đồng thời thiết lập quan hệ ngoại giao với cả Bắc Kinh lẫn Đài Loan. Sau khi quan hệ Trung-Nhật tan băng năm 1972, Philippines trở thành nước bạn lớn nhất của Đài Loan ở châu Á Thái Bình Dương, trong khi quyết tâm của Trung Quốc trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Philippines càng lớn hơn. Trung Quốc liên tục sử dụng “ngoại giao nụ cười”, một mặt triển khai ngoại giao bóng rổ, một mặt liên tục mời các nhân vật cấp cao Philippines đến Trung Quốc. Từ ngày 20 đến 29/9/1974, Imelda, vợ của Marcos, đi thăm Trung Quốc, đánh dấu một bước quyết định trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao Trung Quốc-Philippines.

Trong thời gian thăm Bắc Kinh, Imelda nhận được sự tiếp đãi trọng thể nhất, không những được Chu Ân Lai, Giang Thanh… đón tiếp, thậm chí ngay cả Mao Trạch Đông cũng bất ngờ mời đến gặp. Mao Trạch Đông khi đó đang bị bệnh, đã lâu không tiếp kiến khách quốc tế. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông đã đứng đón Imelda ở cửa phòng tiếp khách, ông ta thậm chí gây bất ngờ khi cầm và hôn vào tay Imelda, đồng thời cũng mời bà và Marcos lần sau cùng đến thăm Trung Quốc lần nữa. Ngoài việc tiếp đãi long trọng, Trung Quốc còn vung nhiều tiền cho Philippines, đồng thời mở cửa thị trường trong nước cho nông sản của Philippines, và còn cung cấp dầu thô cho Philippines với giá rất ưu đãi. Khi đó, do Philippines trấn áp người Hồi giáo ở miền Nam, nguồn cung ứng dầu thô của các nước Ả Rập cho Philippines trở nên không ổn định, và Philippines đang cần gấp dầu thô. Trung Quốc bán cho Philippines 750 000 tấn (khoảng 5,7 triệu thùng) với giá USD 7,5 /thùng, trong lúc giá bán của các nước Ả Rập là USD 11 /thùng.

Sau chuyến đi này, Imelda hoàn toàn trở thành “phe thân Trung Quốc”, và ngay lập tức ra sức thúc đẩy việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh. Dựa trên tình cảm cá nhân của Imelda (và Marcos), sự thân thiện và chính sách kinh tế của Trung Quốc, xu hướng quốc tế liên tục có nước thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, cùng với suy nghĩ thực tế về lãnh thổ Trường Sa, bất chấp truyền thống và ảnh hưởng mạnh mẽ của Đài Loan ở Philippines, Marcos cũng quyết tâm thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Ngày 7/6/1975, Marcos và Imelda dẫn đầu một đoàn nhân sĩ quản lí cao cấp và giới công thương đến Bắc Kinh, nhận được sự tiếp đón nồng nhiệt của Đặng Tiểu Bình, Hoa Quốc Phong cùng một loạt quan chức đứng đầu chính phủ Trung Quốc… cũng như mấy ngàn người dân (khi đó Chu Ân Lai đã bệnh nặng, Đặng Tiểu Bình là Thủ tướng trên thực tế) tại sân bay. Vào ngày hôm đó, Marcos và Imelda đã được Mao Trạch Đông tiếp đón, ngay cả Chu Ân Lai vốn bệnh nằm liệt giường cũng gặp mặt Marcos ở trong bệnh viện. Sau đó, Chu Đức, Giang Thanh, Đặng Tiểu Bình, Hoa Quốc Phong… cũng lần lượt gặp Marcos. Đó có thể xuất phát từ sự thành thật mà cũng có thể là một loại sách lược, Marcos rất tôn sùng Mao Trạch Đông, trong diễn văn tại tiệc chiêu đãi ngày ông đến, ông đã nói rằng “Trung Quốc là lãnh tụ đương nhiên của Thế giới thứ ba”.[548] Được sự tôn sùng như vậy, lại có việc Philippines bày tỏ việc thừa nhận “một nước Trung Quốc, Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc”, Trung Quốc hoàn toàn không để tâm đến hoạt động của Philippines ở biển Đông. Ngày 9/6, hai nước ra “Tuyên bố chung Trung Quốc- Philippines”, tuyên bố chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.

Trong cuộc đàm phán thiết lập quan hệ ngoại giao, hai nước Trung Quốc và Philippines đã thảo luận vấn đề Trường Sa, nhưng nội dung cụ thể đến nay chưa công bố. “Thông báo chung Trung Quốc- Philippines” hoàn toàn không đề cập đến tranh chấp ở quần đảo Trường Sa, chỉ tuyên bố:

Chính phủ hai nước cho rằng khác biệt về chế độ kinh tế, chính trị và xã hội giữa nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và nước Cộng hòa Philippines sẽ không hề cản trở việc hai nước và nhân dân hai nước chung sống hòa bình cũng như xây dựng và phát triển quan hệ hữu nghị trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Chính phủ hai nước đồng ý nguyên tắc nêu trên, không dùng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết hòa bình tất cả các tranh chấp.[549]

Phía Trung Quốc miêu tả: “Khi Trung Quốc và Philippines thiết lập quan hệ ngoại giao, lãnh đạo của hai nước đã đạt được sự hiểu biết rằng các vấn đề liên quan đến các vùng lãnh thổ tranh chấp nên được giải quyết thông qua tham vấn hữu nghị khi mà hai bên cho là phù hợp.”.[550]

Mấy năm sau đó, Philippines đã lần lượt công bố các thỏa thuận lúc bấy giờ. Ví dụ trong sự kiện bãi Cỏ Rong (Lễ Nhạc) năm 1976, Rómulo xác nhận rằng khi Marcos thăm Trung Quốc đã từng thảo luận tranh chấp Trường Sa, nhưng ông tuyên bố “không có vấn đề gì với Trung Quốc trong vấn đề Spratly”.[551] Tháng 3/1978, trước lúc Phó Thủ tướng Trung Quốc Lí Tiên Niệm thăm Philippines, báo chí nước ngoài tiết lộ Philippines đã chiếm thêm một đảo ở Trường Sa (bãi Lan Can/ bãi Dương Tín/ Panata). Trong buổi họp báo sau chuyến thăm của Lí Tiên Niệm, Marcos tiết lộ trong cuộc gặp với Đặng Tiểu Bình năm 1975, hai bên có thỏa thuận rằng bất cứ xung đột trong bất cứ vấn đề nào ở Trường Sa đều phải thông qua “con đường ngoại giao thông thường thực sự để giải quyết, điều này có nghĩa là dùng biện pháp hiệp thương, trong không khí hữu nghị và hợp tác” để giải quyết vấn đề.[552]

Một bài phát biểu nội bộ của Ngoại trưởng Trung Quốc Hoàng Hoa ngày 30/7/1977 càng cho thấy rõ hơn cách nghĩ của Trung Quốc. Ông chỉ ra rằng “không có sự đồng ý của Trung Quốc thì việc tiến hành khai thác bất cứ tài nguyên nào ở quần đảo Trường Sa và đáy biển xung quanh đều là bất chính”, hiện nay “nước khác” có thể khai thác khu vực này theo ý muốn của mình, nhưng “khi thời cơ đến, chúng ta sẽ thu hồi, không cần đàm phán vì quần đảo này xưa nay thuộc về Trung Quốc”.[553] Học giả Lo cho rằng do khi đó chỉ có Philippines tiến hành khai thác ở khu vực này, vì vậy nước khác trong phát biểu của Hoàng Hoa chỉ có thể là Philippines.[554] Nhưng trên thực tế, vào lúc đó Malaysia cũng đang khai thác tài nguyên ở biển Đông, vả lại Malaysia còn thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc sớm hơn Philippines (ngày 31/5/1974), vì vậy nước khác trong bài phát biểu này có thể chỉ cả Philippines và Malaysia.

Sau đó, cho đến trước những năm 1990, ngay cả khi Philippines có hành động ở Trường Sa, Trung Quốc vẫn giữ thái độ im lặng, đặc biệt trái ngược khi so với thái độ của họ đối với Việt Nam. Trung Quốc nhiều lần nói thu hồi lại chủ quyền ở Trường Sa nhưng không có hành động, thậm chí không có tuyên bố mạnh mẽ hơn. Ví dụ khi Philippines chiếm bãi Lan Can (Dương Tín) vào năm 1978, Lí Tiên Niệm khi đến thăm Philippines tuyên bố rằng giữa Trung Quốc và Philippines không có điều lo lắng trong vấn đề Trường Sa (no trouble would ensue over the Spratly Island between China and Philippines)[555] Năm 1980, khi Philippines chiếm đóng đá Công Đo (Tư Lệnh), Trung Quốc cũng giữ im lặng như lần trước.[556] Kiểu thái độ nhún nhường này của Trung Quốc đối với Philippines cơ bản giống thái độ đối với Malaysia (xem phần sau). Chỉ có chỗ hơi khác một chút là: so thái độ nhún nhường mà Malaysia biểu hiện ra thì thái độ của Philippines cứng rắn hơn nhiều. Nhưng Trung Quốc cũng hết sức nhẫn nhịn, điều này cho thấy rằng Trung Quốc thực sự có thỏa thuận ngầm với Philippines khi đó.

Vì vậy, chính sách không can thiệp vào việc Philippines khai thác Trường Sa khi đó, rất có khả năng là một thỏa thuận ngầm mà Trung Quốc và Philippines đã đạt được lúc này. Nếu đúng như vậy, thì sẽ có nghĩa là Trung Quốc cũng tiếp tục chính sách “gác lại tranh chấp” khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Nhật Bản, “duy trì hiện trạng” ở quần đảo Trường Sa, thậm chí khoan dung hơn (cho phép Philippines tiến hành khai thác rầm rộ). Chính kiểu thái độ này đã đẩy nhanh tiến độ kiểm soát thực tế của Philippines ở Trường Sa, và củng cố vững chắc sự có mặt của Philippines ở Trường Sa. Sự kiểm soát thực tế của nước này bao gồm 3 khía cạnh: pháp lí, quân sự và khai thác dầu khí.

Tăng cường kiểm soát trên thực địa

Về pháp lí, ngày 11/6/1978, Marcos ban bố Sắc lệnh số 1596 của Tổng thống, chính thức sáp nhập nhóm đảo Kalayaan (Kalayaan Islands Group, tức quần đảo Trường Sa không bao gồm đảo Trường Sa Lớn và các đảo, đá ở phía Tây của nó) vào lãnh thổ Philippines (Hình 30):

Xét thấy quan hệ gần gũi của một cụm các đảo và đá của biển Đông nằm trong nhóm đảo gọi là Kalayaan (Kalayaan Islands Group) (dùng cách liệt kê kinh, vĩ tuyến để xác định phạm vi) có tầm quan trọng sống còn đối với an ninh và sự tồn tại kinh tế của Philippines;

Xét thấy phần lớn phạm vi kể trên là một bộ phận thềm lục địa của quần đảo Philippines;

Xét thấy những khu vực này về mặt pháp lí không thuộc bất cứ quốc gia hay dân tộc nào, tuy nhiên vì lí do lịch sử, nhu cầu thiết yếu, cũng như việc chiếm đóng và kiểm soát hữu hiệu được xác lập phù hợp với luật pháp quốc tế, những khu vực này hiện nay phải được xem là thuộc về và nằm dưới chủ quyền của Philippines;

Xét rằng dù có một số quốc gia tuyên bố chủ quyền tại một vài khu vực ở đây, nhưng yêu sách của họ trở nên vô hiệu do từ bỏ, họ không thể vượt trội hơn Philippines về mặt pháp lí, lịch sử hay sự hợp lí.

Vì vậy, hôm nay tôi, Tổng thống Philippines Marcos, dựa vào quyền lực mà Hiến pháp trao cho, ban hành sắc lệnh dưới đây:

Mục 1, khu vực nằm trong các giới hạn sau đây: nhóm đảo Kalayaan (dùng cách liệt kê kinh, vĩ tuyến để xác định phạm vi), bao gồm đáy biển, lòng đất dưới đáy biển, thềm lục địa và vùng trời thuộc chủ quyền và nằm dưới chủ quyền của Philippines. Khu vực này qua đó thành lập một thị trấn tự trị đặc biệt của tỉnh Palawan, gọi là “Kalayaan”.[557]

This image has an empty alt attribute; its file name is image-91.png

Hình 30: Sự thay đổi đường biên giới trên biển của Philippines

Cùng ngày, ông ta còn công bố Sắc lệnh 1599, thành lập vùng đặc quyền kinh tế:

Mục 1, thành lập một khu vực gọi là vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Vùng đặc quyền kinh tế là khu vực trong vòng 200 hải lí tính từ đường cơ sở của lãnh hải; nếu như ranh giới vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của một nước liền kề thì ranh giới chung phải theo thỏa thuận với quốc gia liên quan hoặc theo các nguyên tắc phân giới được thừa nhận phổ quát của luật pháp quốc tế.[558]

Theo miêu tả này, vùng đặc quyền kinh tế cũng có quyền lợi giống như thềm lục địa. Nói cách khác, thềm lục địa mà Philippines yêu sách cũng kéo dài 200 hải lí tính từ đường cơ sở của lãnh hải. Ngày 7/12, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Enrile tuyên bố Philippines đã kiểm soát 7 đảo nhỏ ở quần đảo Kalayaan.[559]

Sau khi kí kết “Công ước Luật biển Liên Hợp Quốc” năm 1982, Philippines là một trong những nước phê chuẩn sớm nhất. Ngày 10/12/1982, khi kí Công ước, Philippines tuyên bố: “(4) Việc kí kết này sẽ không xâm hại hoặc làm tổn hại đến chủ quyền của Philippines trong việc thực hiện các quyền chủ quyền trên các lãnh thổ của mình, chẳng hạn như quần đảo Kalayaan và vùng biển phụ thuộc nó.”.[560]

Có thể thấy, sau khi ranh giới hiệp ước của Philippines được vạch ra năm 1898, nó đã trải qua nhiều giai đoạn: trước khi độc lập, biên giới hiệp ước chỉ là một đường quy thuộc các đảo; đến năm 1955, Philippines bắt đầu đề xuất vùng biển bên trong đường biên giới hiệp ước là lãnh hải Philippines; năm 1961, Philippines xác định thêm một bước đường cơ sở lãnh hải, vùng biển phía trong đường cơ sở lãnh hải là nội thuỷ của Philippines, vùng nước nằm giữa đường biên giới hiệp ước và đường cơ sở lãnh hải là lãnh hải của Philippines.

Năm 1979, Philippines đề xuất vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa kéo dài 200 hải lí tính từ đường cơ sở lãnh hải, đồng thời đưa ra chủ quyền của Kalayaan cũng như khu vực “đường ranh giới đảo Kalayaan” thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines.

Về quân sự, tháng 3/1976, Philippines thành lập Quân khu miền Tây Philippines, và xây dựng căn cứ hải quân vịnh Ulugan trên đảo Palawan. Đồng thời, trên đảo Thị Tứ (Trung Nghiệp), Philippines đã xây dựng sân bay mà máy bay loại nhỏ có thể cất và hạ cánh ở đó. Philippines có máy bay chiến đấu T-28 và máy bay vận tải C-47, định kì 1 tuần 2 lần đến đảo làm nhiệm vụ. Thời gian này Philippines có ưu thế trên không, máy bay quân sự cất cánh từ đảo Palawan của Philippines đến Trường Sa vẫn có thể tác chiến 30 phút sau đó (chưa nói tới sân bay trên đảo Thị Tứ), trong khi máy bay bay từ đất liền Việt Nam chỉ có thể có thể tác chiến 10 phút sau khi đến Trường Sa. Năm 1976, quân Việt Nam đóng trên đảo Song Tử Tây (Nam Tử) nổ súng vào máy bay quân sự Philippines (đảo Song Tử Tây rất gần đảo Song Tử Đông (Bắc Tử) do Philippines chiếm). Marcos ban đầu tăng thêm binh lực ở quần đảo Trường Sa, cho đến năm 1978, tổng quân số của Philippines trên các đảo, đá gần 1 nghìn người, vượt xa quân số của Việt Nam (khoảng 350 người).[561] Ngày 25/4/1982, Thủ tướng Philippines Cesar E.A. Virata đã đi thị sát công trình quân sự trên đảo Thị Tứ (Pagasa). Thời gian này, Philippines đang có kế hoạch xây dựng bến cảng mới.[562] Theo nghiên cứu khi đó của Đài Loan, Philippines đã chiếm 7 đảo, đá gồm Loại Ta (Nam Thược), Thị Tứ (Trung Nghiệp), Bến Lạc (Tây Nguyệt), Song Tử Đông (Bắc Tử), Vĩnh Viễn (Mã Hoan), Bình Nguyên (Phí Tín) và bãi Cỏ Rong (Lễ Nhạc). Trừ đảo Bình Nguyên và bãi Cỏ Rong không rõ tình hình đóng quân, các đảo khác đều có 1 trung đội trú đóng.[563]

Năm 1978, Philippines chiếm bãi An Nhơn / Lan Can (Dương Tín, Panata, Lankiam Cay, khi đó báo chí Trung Quốc gọi là đảo Bạc Nạp Tháp [帕納塔 / Pa na ta: phiên âm của Panata – ND) ước chừng nằm giữa đảo Thị Tứ và đảo Ba Bình. Theo Thứ trưởng Quốc phòng Philippines Barbero, mục đích là “củng cố và tăng cường vị thế của Philippines tại quần đảo Spratly và biển Đông”.[564] Tháng 5/1980, Philippines phản đối Malaysia xây dựng đèn biển ở bãi Công Đo (Tư Lệnh, Commodore Reef) (sau này xác nhận chỉ là xây dựng một cột mốc). Để ngăn chặn sự mở rộng của Malaysia ở Trường Sa (xem phần sau), Philippines đã chiếm bãi Công Đo vào tháng 8.[565] Đây cũng là đảo, đá cuối cùng ở Trường Sa mà Philippines chiếm giữ trước năm 1999.

Cùng với tăng cường chiếm đóng quân sự, Philippines cũng tích cực có kế hoạch đẩy mạnh hợp tác với nước ngoài tiến hành khai thác dầu khí ở biển Đông. Để thoát khỏi khủng hoảng năng lượng, lợi ích dầu mỏ chính là một trong những động cơ để Philippines đẩy nhanh việc chiếm đóng Trường Sa. Hợp tác với các công ti nước ngoài, ngoài việc bù đắp cho sự thiếu hụt công nghệ ở Philippines, còn có thể giúp bảo hiểm thêm cho sự kiểm soát của Philippines trong khu vực khai thác thông qua lợi ích dầu mỏ của bên thứ ba: dù hầu hết các công ti dầu mỏ này là các công ti tư nhân, nhưng họ có khả năng vận động hành lang mạnh mẽ trong giới chính trị phương Tây. Không nước nào có thể làm ngơ khi lợi ích ở nước ngoài của công ti dầu mỏ nước mình bị xâm phạm. Vì thế, vào những năm 1970 Philippines đã trở thành nước ven biển tiến hành khai thác dầu khí ở biển Đông sớm nhất. Tháng 2/1976, Philippines công bố rằng công ti dầu khí của Philippines sẽ cùng Công ti Salen của Thụy Điển thăm dò dầu khí ở bãi Cỏ Rong, sau đó có thêm công ti Mĩ (bao gồm Amoco) cùng tham gia, tạo thành tập đoàn khoảng 10 công ti.

Những hành động này gặp phải sự chống đối của Trung Quốc và Việt Nam. Ví dụ ngày 14/6 Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố: “quần đảo Nam Sa cũng như quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa quần đảo Đông Sa đều là một bộ phận lãnh thổ vốn có của Trung Quốc, tài nguyên của những đảo này và vùng phụ cận chúng đều thuộc sở hữu của Trung Quốc. Bất cứ nước nào cử quân đội đến, chiếm đóng và khai thác tài nguyên ở Nam Sa đều là không thể chấp nhận được.” Nhưng Philippines phớt lờ sự phản đối của Trung Quốc và Việt Nam. Bộ trưởng Ngoại giao Philippines Romulos cho rằng bãi Cỏ Rong nằm trong phạm vi thềm lục địa của Philippines, cũng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí của Philippines dựa trên điều ước thềm lục địa có liên quan mà phân định ra; sự tham gia của công ti Mĩ và Thụy Điển có thể khiến Mĩ giúp bảo vệ quyền lợi của Philippines… Như trình bày phần trước, trong không khí thân thiện và có sự thỏa thuận ngầm lúc Trung Quốc và Philippines mới thiết lập quan hệ ngoại giao, việc tỏ thái độ của Trung Quốc chỉ có tính hình thức, thậm chí không thể không có khẩu khí nghiêm khắc do cũng có ý nhắm vào Việt Nam.[566]

Việc thăm dò của Philippines và công ti Thụy Điển cũng như công ti Mĩ hoàn toàn không gặp bất cứ trở ngại nào. Tháng 6/1976, tại bãi Cỏ Rong, Công ti Salen đã khoan thăm dò giếng Sampaguita 1. Năm 1977, Công ti Amoco đã khoan thăm dò hai giếng khác (A1, B1). Nhưng cả 3 giếng dầu khoan trong 2 năm này[567] đều không phát hiện được dầu khí. Tháng 5/1978, Công ti Salen lại khoan thăm dò giếng Sampaguita 2 tại bãi Cỏ Rong và khoan thăm dò giếng Kalamansi 1 ở bãi Templier (Trung Hiếu). Tháng 11/1981, Công ti Salen lại một lần nữa được trao quyền khoan thăm dò giếng Sampaguita 3 ở bãi Cỏ Rong, nhưng hầu như cũng không có dầu.[568] Ngoài ra, ngày 18/6/1976, Philippines phân định cụm đá Sinh Tồn (Trịnh Hòa, Union Banks), bãi Kiêu Ngựa (An Độ, Ardasier Reef) thuộc quần đảo Trường Sa và vùng biển phụ cận chúng thành “vùng đặc biệt” cho doanh nghiệp nước ngoài thăm dò.[569] Nhưng do vị trí địa lí nhạy cảm, không có công ti dầu khí nào muốn khai thác tại khu vực đó.

Kết quả khai thác dầu khí của Philippines ở vùng biển Trường Sa còn rất hạn chế, nhưng việc mời gọi công ti dầu khí phương Tây vào cùng với việc phê chuẩn quyền khai thác dầu khí, đã tăng cường quyền kiểm soát thực tế và pháp lí của Philippines đối với một bộ phận Trường Sa về mặt dân sự. Ngoài ra, Philippines đã đạt được một số kết quả nhất định trong việc khai thác dầu khí duyên hải dọc theo bờ biển phía Tây của đảo Palawan, những khu vực này tuy không thuộc quần đảo Trường Sa nhưng gần và thậm chí có bộ phận chồng lấn đường 9 đoạn, có lúc bị truyền thông và các ấn phẩm nghiên cứu của Trung Quốc xem là một trong những bằng chứng của việc “Philippines lấy cắp dầu mỏ ở Nam Hải”.[570]

Ngoài ra, trong khoảng thời gian này, do ngư dân truyền thống của Hải Nam bị cấm đến biển Đông đánh cá, ngư dân Philippines dần dần trở thành lực lượng đánh cá chính ở biển Đông. Các điểm đến của họ thậm chí vươn tới tận gần quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trung Sa.[571]

Vì vậy, thông qua một loạt các biện pháp trong những năm 1970, Philippines đã từ kiểm soát quân sự, khai thác cũng như pháp luật (trong nước) mà giành được quyền kiểm soát một số đảo của Trường Sa.

Bình luận tóm tắt về luật quốc tế

Tóm lại những điều nói trên, theo luật quốc tế, cho đến cuối những năm 1970, lí do và logic trong đòi hỏi chủ quyền đối với các đảo biển Đông của Philippines có thể tóm tắt như sau: (1) Các đảo mà Philippines chiếm không phải một bộ phận của quần đảo Trường Sa, mà là một quần đảo độc lập (Freedomland); (2) Tình trạng pháp lí của quần đảo Trường Sa sau Thế chiến thứ hai là đất uỷ trị, không thuộc về bất cứ nước nào; (3) Cloma “phát hiện” “Freedomland” sớm nhất, đồng thời đã thành lập “Lãnh thổ Tự do Freedomland”, và trở thành một bộ phận của Philippines thông qua hình thức bảo hộ hoặc chuyển nhượng; (4) Các đảo này gần Philippines, cũng nằm trên thềm lục địa và trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, có tầm quan trọng không thể thay thế đối với an ninh và lợi ích của Philippines; (5) ngày 14/9/1975, Marcos khi trả lời nhà báo về Trường Sa còn nhấn mạnh quần đảo Trường Sa sau Thế chiến thứ hai là đất uỷ trị, nên do Đồng minh xử lí.[572]

Những lí do này đều là không đáng để cân nhắc. Điểm thứ nhất rõ ràng là ngụy biện, dù phạm vi cụ thể của Spratly Islands trong lịch sử đúng là có chỗ mơ hồ, thiếu rõ ràng, nhưng Spratly Islands trong “Hòa ước San Francisco” bao gồm các đảo, đá rất rõ ràng bên cạnh đảo Trường Sa Lớn, hơn nữa trong giao thiệp giữa Đài Loan, Việt Nam và Philippines, Đài Loan nhiều lần chỉ rõ rằng “Freedomland” cũng nằm trong quần đảo Trường Sa, nhưng trải qua hơn 20 năm Philippines vẫn còn vướng mắc về vấn đề này, về căn bản đó là cách làm thừa nước đục thả câu. Thứ hai, “Hòa ước San Francisco” đúng là không quy định sự quy thuộc của Trường Sa, nhưng cũng không quy định Trường Sa là đất uỷ trị. Trong hiệp ước quy định rõ đất uỷ trị chỉ có các đảo ở Bắc Thái Bình Dương mà Nhật Bản được uỷ thác quản lí trước đó cũng như quần đảo Ryukyu có thể trở thành đất uỷ trị (nhưng cuối cùng lại không). Và ngay cả khi quần đảo Trường Sa là lãnh thổ được uỷ trị, thì không có cơ sở pháp lí nào để Philippines tiếp quản quần đảo này. Thứ ba, Lãnh thổ Tự do của Cloma có thể trở thành một “quốc gia” hay không về luật quốc tế là một vấn đề rất lớn, vả lại cái gọi là Cloma “phát hiện” quần đảo Trường Sa rõ ràng không thể đứng vững. Ông ta thực hiện được các hoạt động ở quần đảo Trường Sa là nhờ vào việc Quốc Dân Đảng tạm thời rút khỏi quần đảo này sau khi thoái lui sang Đài Loan, trong khi Việt Nam và Pháp lại không có khả năng đóng quân ở đó khiến quần đảo này nhất thời trở thành không người ở. Nhưng điều này hoàn toàn không có nghĩa là Đài Loan, Việt Nam (Pháp) đã “từ bỏ” (abandon) quần đảo Trường Sa. Nói cách khác, quần đảo Trường Sa khi đó không hề là đất vô chủ, nói Cloma chiếm nó trước là không có cơ sở theo luật quốc tế. Thứ tư, sự gần gũi với Philippines hoàn toàn không là một lí do chính đáng để có được lãnh thổ. Dù các đảo ở biển Đông hoang vu nhưng các đảo do Philippines chiếm giữ hầu như đều là nổi lên mặt nước quanh năm, và theo nguyên tắc đất quyết định biển, những đảo này không thể tự động trở thành lãnh thổ của một nước nào đó chỉ vì chúng nằm trên thềm lục địa của nước đó (chỉ có bãi ngầm là có thể như vậy). Còn tính trọng yếu đối với an ninh và lợi ích cũng không phải là lí do phù hợp với nguyên tắc của luật quốc tế. Cuối cùng, mặc dù “Hòa ước San Francisco” quy định rằng Nhật Bản phải từ bỏ quần đảo Trường Sa nhưng không hề nói đến Trường Sa như là lãnh thổ uỷ trị.

Ưu thế pháp lí của Philippines đối với Trường Sa ở chỗ:

Thứ nhất, vào đầu thời kì sau Thế chiến thứ hai Philippines đã công khai yêu sách lãnh thổ của mình đối với quần đảo Trường Sa ngay sau khi giành được độc lập (1946), chỉ 13 năm sau khi Pháp công khai yêu sách lãnh thổ của họ (1933), vẫn còn trong thời hạn hiệu lực để đưa ra phản đối. Hơn nữa, khi xét đến việc Philippines là thuộc địa của Mĩ trước Thế chiến thứ hai, không có quyền tự chủ về ngoại giao, và người bản địa Philippines cũng đã đưa ra đòi hỏi lãnh thổ với Trường Sa, chỉ vì Mĩ không đồng ý nên không có cách nào đưa ra quốc tế, thì đây là lí do có thể hiểu được.

Thứ hai, Philippines (đặc biệt nước Sulu với tư cách là một bộ phận của Philippines hiện nay) có liên hệ lịch sử với quần đảo Trường Sa, nhưng trong những năm 1970, Philippines hoàn toàn không chú ý đến điểm này để lí giải thêm. Philippines cũng chưa thể đưa ra bằng chứng có sức thuyết phục cho thấy rõ ngư dân Philippines có quan hệ mật thiết với quần đảo Trường Sa.

Thứ ba, khi xét đến việc Philippines chiếm đóng một số đảo ở Trường Sa từ những năm 1970 đến nay thì việc chiếm đóng đó đã trở thành một hiện trạng. Mặc dù không thể hoàn toàn hình thành “thời hiệu” do bị các nước khác liên tục phản đối, nhưng nếu như đưa ra Tòa án Quốc tế thì “hiện trạng” này vẫn là một điểm pháp lí đáng để cân nhắc.


[525] Shepard, F.P., Emery, K.O., and Gould, H.R., 1949, Distribution of sediments on East Asiatic continental shelf: Allan Hancock Found. Occasional Paper 9, p.64.

[526] Hiroshi Niino, K.O.Emery, Sediments of Shallow Portions of East China Sea and South China Sea, Geological Society of America Bulletin, 1961, Vol.72, tr..731-762.

[527]Đại sự kí”, tr.11-16.

[528] https://www.gjs.jp/data/ccop-bull/2-01/pdf

[529] Tiêu Hi Thanh “Lịch sử quan hệ ngoại giao Trung Quốc-Philippines”, Chính Trung thư cục, 1995, tr. 766.

[530]Tuyển tập hiệp định pháp luật”, tr.40-61.

[531]Tuyển tập điều ước pháp luật”, tr. 62.

[532] Mật “Về tình hình Philippines quấy nhiều quần đảo Nam Sa của ta”, Điện Bộ Ngoại giao gửi Đại sứ quán Philippines, ngày 4/5 năm Dân Quốc 57 (1968), “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.962.

[533] Mật “Tàu chiến Philippines xâm nhập vùng biển Nam Sa của ta”, Điện Đại sứ quán tại Philippines gửi Bộ Ngoại giao, ngày 24/5 năm Dân Quốc 57 (1968), “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.963. Vấn đề Sabah là tranh chấp lãnh thổ giữa Philippines và Malaysia, liên quan đến lãnh thổ phía Bắc Sabah.

[534] Tiêu Hi Thanh, Lịch sử quan hệ ngoại giao Trung Quốc- Philippines, Chính Trung thư cục, 1995, tr.848-849.

[535] Nghị quyết số 2758 của Đại hội Liên Hợp Quốc, https://www.un.org/chinese/ga/ares2758.html

[536] Vương Ý Huy, “Chuyện lương của Lục chiến”, Bộ tư lệnh Thuỷ quân lục chiến, năm 2005, tr.155.

[537] Hiến pháp năm 1943 ra đời trong thời kì Nhật chiếm đông, sau Thế chiến thứ hai Philippines khôi phục Hiến pháp năm 1935. Trong Hiến pháp năm 1943 quy định lãnh thổ Philippines là: “Lãnh thổ trong quy định của Hiến pháp hiện hành” (The Republic of Philippines shall exercise sovereignty over all the national territory as at present defined by law). Xem https://en.wikisource.org/wiki/Constitution_of_the_Philippines_(1935)

[538] https://en.wikisource.org/wiki/Constitution_of_the_Philippines_(1935)

[539] Một nguyên nhân khác mà Philippines sửa đổi điều luật lãnh thổ trong Hiến pháp là muốn quy định phạm vi vùng nội thuỷ.

[540] Sabah là lãnh thổ tranh chấp giữa Philippines và Malaysia. Marian là lãnh thổ uỷ trị của Liên Hợp Quốc (Mĩ quản lí). Đảo Guam là lãnh thổ hải ngoại của Mĩ. Đảo Batam thuộc về Philippines, nhưng nằm ngoài giới hạn Hiệp ước 1898.

[541] http://www.colonia.asia/hisrory%20-%20the%20history%20of%the%20kingdom%20of%20colonia%20st%20john.htm

[542] Virginia A.Greiman, A Model for Collaborative Development in the South China Sea, The Journal of Asian Finance, Economics and Business, Vol.1 No.1 pp.31-40, DOI: http://dx.doi.org/10/13106/jafeb.2014.vol1.no1.31

[543] Juan Arreglado, Kalayaan, Historical, legal, political background, Foreign Service Institute (Manila), 1982, p.14.

[544] http://www.colonia.asia/hisrory%20-%20the%20history%20of%the%20kingdom%20of%20colonia%20st%20john.htm

[545] Như trên.

[546] Quách Diệu Hổ. “Khảo sát lịch sử chính sách của Mĩ đối với tranh chấp Trung-Philippines đối với quần đảo Nam Sa – dựa vào giải thích hồ sơ ngoại giao giải mật gần đây của Mĩ”, Nghiên cứu Lịch sử Trung Quốc đương đại, số 2 năm 2013.

[547] Cho đến đầu thập niên 1970 Philippines vẫn có số lượng lớn Hoa kiều chưa gia nhập quốc tịch, một khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, những người này liền sẽ trở thành công dân của Trung Quốc (Đại lục), điều này là một đe dọa nghiêm trọng đối với Philippines, sau đó trước khi Trung Quốc và Philippines thiết lập quan hệ ngoại giao, Philippines đã áp dụng phương pháp xử lí cho toàn bộ họ gia nhập quốc tịch mới loại bỏ trở ngại này.

[548] Tiêu Hi Thanh. “Lịch sử quan hệ ngoại giao Trung Quốc- Philippines”, Chính Trung thư cục, 1995, tr.402.

[549]Khởi nguồn và phát triển”, tr. 127.

[550] “Nhân dân nhật báo”, ngày 10/6/1975, “Đại sự kí”, tr.49.

[551] CPTTD, p.148.

[552] CPTTD, p.148.

[553] CPPTD, p.149. “Tuyển tập Việt Nam”, tr.182.

[554] CPPTD, p.149.

[555] CPPTD, p.152.

[556] CPPTD, p.152.

[557] “Tuyển tập điều ước pháp luật”, tr. 67-68.

[558] “Tuyển tập điều ước pháp luật”, tr.96.

[559] “Đại sự kí”, tr.64.

[560] “Tuyển tập điều ước pháp luật”, tr.69.

[561] Rodney Tasker, Stake-out in the Spratlys, FEER, 1978/02/24. From CPTTD, p.150.

[562] “Tình trạng chiếm đóng và xây dựng của Philippines ở cái gọi là Lãnh thổ Tự do”, Điện của Đại diện tại Philippines gửi Bộ Ngoại giao, ngày 4/5 năm Dân Quốc 71 (1982), “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 963-964.

[563]Trả lời chất vấn có liên quan quần đảo Trường Sa của Uỷ ban Lập pháp”, Thư Viện Hành chính gửi Viện Lập pháp, ngày 18/6 năm Dân Quốc 71 (1982), “Tuyển tập Hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 964-966.

[564]Đại sự kí”, tr.61.

[565] CPTTD, p.150.

[566] CPTTD, p. 151.

[567]Báo cáo bằng thư tín tình hình Philippines khoan thăm dò dầu khí ở Nam Sa”, ngày 9/7 năm Dân quốc 65 (1976), Thư Bộ Ngoại giao gửi Bộ Kinh tế, “Tuyển tập Hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.1334.

[568]Khởi nguồn và phát triển”, tr.134.

[569]Báo cáo bằng thư tín tình hình Philippines khoan thăm dò dầu khí ở Nam Sa”, ngày 9/7 năm Dân quốc 65 (1976), Thư Bộ Ngoại giao gửi Bộ Kinh tế, “Tuyển tập Hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.1334.

[570] “Khởi nguồn và phát triển”, tr.134.

[571] John G.Buthcer, The closing of the frontier: a history of the marine fisheries of Southeast Asia c 1850-2000, Institute of Southeast Asian Studies, 2004, p.192.

[572] “Đại sự kí”, tr. 72-73.

Comments are closed.