Chương năm
Kiến nghị:
Cải cách để chấn hưng và phát triển
I. CCGD là yêu cầu tất yếu
Những yếu kém, bất cập và lạc hậu trong lĩnh vực giáo dục đang làm giảm thiểu năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, dẫn đến nguy cơ đất nước ngày càng tụt hậu xa hơn trong tương quan so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Hơn nữa, nếu nền giáo dục cứ trong tình trạng như hiện nay thì kết quả sẽ là di hại lâu dài vì nhà trường Việt Nam không đào tạo được những con người và thế hệ đủ năng lực và ý chí kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Bởi vậy, nhiều nhà giáo, nhà khoa học đã cho rằng, yêu cầu bức bách lúc này là cần chấn hưng giáo dục nước nhà. Muốn vậy, không thể tiếp tục tiến hành các đề án đổi mới giáo dục theo kiểu chắp vá, thiếu hiệu quả như hơn hai chục năm vừa qua mà nhất thiết phải thực hiện một tổng thể các giải pháp mang tính toàn diện, đồng bộ, được tính toán một cách căn cơ, khoa học. Một cuộc cải cách như vậy là thực sự cần thiết và không thể nấn ná được nữa.
II. Đề nghị thành lập Uỷ ban CCGD
Cuộc cải cách sắp tới phải được coi là công trình lớn của quốc gia, cần chuẩn bị trong một vài năm với sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và Chính phủ mà việc đầu tiên phải làm là thành lập Uỷ ban Cải cách giáo dục.
Nhiệm vụ của Uỷ ban Cải cách giáo dục:
Nhiệm vụ của Uỷ ban Cải cách giáo dục là soạn thảo chiến lược cải cách và phát triển giáo dục 2011 – 2020[1] với tầm nhìn đến 2030 và xa hơn. Văn bản này (Đề án CCGD) sẽ được Trung ương Đảng và Chính phủ xem xét, trên cơ sở đó, Thủ tướng chính phủ sẽ trình để Quốc hội thông qua theo quy định của pháp luật[2].
Thành phần và chế độ làm việc của Uỷ ban Cải cách giáo dục:
Để có bản đề án cải cách giáo dục đúng tầm một công trình lớn của quốc gia, ủy ban này cần bao gồm các chuyên gia có kinh nghiệm và quyết tâm đổi mới, am hiểu về giáo dục và những lĩnh vực liên quan đến giáo dục. Các thành viên ủy ban cần tham gia với tư cách cá nhân, không đại diện cho một tổ chức nào để tránh bị những ràng buộc khi trình bày chính kiến. Thành viên ủy ban sẽ thực hiện nhiệm vụ theo chế độ toàn thời gian, tập trung vào công việc cải cách giáo dục, không kiêm nhiệm một công tác nào khác. Uỷ ban cần bảo đảm tính độc lập đối với Bộ GDĐT để có thể giữ được thái độ khách quan khi xem xét các vấn đề đang đặt ra và đề xuất được các giải pháp thật sự có tác dụng thúc đẩy quá trình phát triển giáo dục.
III. Đổi mới tư duy – Bước khởi đầu của CCGD
1/ Như đã trình bày ở phần cơ sở lý luận, muốn tiến hành cải cách HTGD, trong đó có nhiều việc phải làm từ gốc, thì bước khởi đầu là thay đổi tư duy giáo dục để thoát khỏi quán tính của cách nghĩ, cách làm cũ kỹ. Đổi mới tư duy giáo dục trước hết là thay đổi quan niệm về sứ mạng giáo dục, đối tượng giáo dục, mục tiêu và yêu cầu đào tạo, để căn cứ vào đó, xác định những gì cần thay đổi về cơ cấu HTGDQD, về nội dung, phương pháp của từng bậc học và, cuối cùng nhưng có ý nghĩa quyết định sự thành bại, là tổ chức quản lý như thế nào để đạt được mục tiêu giáo dục.
Khi thảo luận về sứ mạng và mục tiêu giáo dục, một số tác giả đã cảnh báo về khả năng dễ dàng sa vào quan niệm thiển cận và thực dụng, nếu khu trú nhiệm vụ của giáo dục chỉ còn là đáp ứng yêu cầu xã hội về mặt nhân lực. Điều cần phải nhấn mạnh về sứ mạng của giáo dục, chính là phát triển con người, rèn đúc các thế hệ và đổi mới cả dân tộc. Phải chăng, đây chính là cái bất biến để từ đó ứng vạn biến, theo như nguyên tắc xử lý ở tầm chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đối với giáo dục phổ thông, căn cứ vào xu thế phát triển giáo dục (trình bày ở Chương một) phải từ bỏ quan niệm sai lầm về đối tượng, coi trẻ em là tờ giấy trắng để rồi (tùy tiện) vẽ lên những mẫu hình theo ý muốn chủ quan. Thay vào đó, nhà trường/ nhà giáo cần hành động trên cơ sở nhận thức rằng, mỗi học sinh vừa là đối tượng vừa là chủ thể của một quá trình đồng nhất giáo dục và tự giáo dục, để từ đó tôn trọng sự phát triển nhân cách ở mỗi em, khơi dậy những tiềm năng của từng em. Đồng thời, phải khắc phục tình trạng nhầm lẫn, coi tất cả các trường phổ thông đều như nhau, quan niệm thống nhất là duy nhất, từ đó áp dụng cứng nhắc một chương trình tiểu học, một bộ sách giáo khoa từ mũi Cà Mâu cho đến đỉnh Đồng Văn[3], bất chấp những khác biệt về điều kiện kiện kinh tế, văn hóa, xã hội nơi đứa trẻ đang sống cùng cha mẹ. Thay vào đó, cần quan niệm thống nhất trong đa dạng, để trên cơ sở những chuẩn mực chung, xây dựng một số chương trình phù hợp với các loại đối tượng.
Khi thảo luận về vấn đề nên dạy những gì ở trường trung học, Edgar Morin và một số nhà khoa học cho rằng, mục đích cuối cùng của giáo dục là: 1/ Hình thành những khối óc được rèn luyện tốt, đào tạo những con người đủ năng lực tổ chức các tri thức chứ không phải tích lũy các hiểu biết theo kiểu chất đầy vào kho; 2/ Giáo dục về hoàn cảnh con người, làm cho mỗi người có ý thức sâu sắc thế nào là một con người; 3/ Học cách sống, chuẩn bị cho thế hệ trẻ biết đối mặt với những khó khăn, bất trắc và những vấn đề tồn tại con người; 4/ Thực tập tư cách công dân, có năng lực đối thoại, khoan dung trong một thế giới đa dạng hơn bao giờ hết[4]. Có thể còn có những tranh cãi, rằng đấy là chuyện của nước Pháp, nhưng chắc chắn những ý kiến đó phản ánh tư duy mới về giáo dục, rất bổ ích khi xác định mục đích, mục tiêu của nền giáo dục phổ thông ở nước ta. Để hình thành những khối óc được rèn luyện tốt, đào tạo những con người có đủ năng lực, chắc chắn không thể đơn giản hóa quá trình giáo dục. Càng không thể ỷ nại vào một thực tế là “tri thức nhân loại có đầy rẫy trên mạng” chỉ cần clic là có. Sarkozy đã có lý khi cho rằng, “Công nghệ thông tin phải nằm ở trung tâm suy nghĩ của chúng ta về giáo dục trong thế kỷ 21, nhưng cũng không được xem nhẹ sự thực rằng, mối quan hệ nhân văn giữa giáo dục và trẻ em vẫn là cơ bản và giáo dục cũng phải làm cho trẻ em thấm nhuần được mùi vị của những nỗ lực, để chúng phát hiện ra rằng, niềm vui hiểu bài sau những giờ học dài là một phần thưởng.”
Đối với giáo dục nghề nghiệp, cần xác định nhiệm vụ trung tâm đột xuất hiện nay là đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, song không thể quan niệm chất lượng của nhân lực chỉ giới hạn ở kiến thức, kỹ năng, tay nghề mà xem nhẹ việc bồi dưỡng lương tâm nghề nghiệp, kỷ luật lao động cũng như rèn luyện các thói quen chu đáo, ngăn nắp. Chính những biểu hiện yếu kém về đạo đức, ý thức, thái độ đang là một nhân tố quan trọng làm giảm chất lượng của nguồn nhân lực nước ta. Về vĩ mô, cần xác định quan hệ liên thông/ liên thuộc giữa GDNN với GDPT và GDĐH đồng thời, định vị cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề một cách chính xác. Nếu nhiệm vụ chính là phát triển nguồn nhân lực thì phải bảo đảm sự thống nhất trong việc quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, còn nếu nhiệm vụ chính là giải quyết các vấn đề xã hội (dạy nghề để xóa đói giảm nghèo, để giúp những người phạm pháp hoàn lương …) thì nên để như hiện nay. Nên cân nhắc kinh nghiệm Hàn Quốc và một số nước về việc hinh thành một cơ quan nhà nước thống nhất quản lý về giáo dục và phát triển nguồn nhân lực.
Đối với giáo dục đại học, tiền đề của những cải cách là xác định đúng vị trí, vai trò, sứ mạng của cấp học này. Đại học là bậc học cao nhất, là giai đoạn cuối cùng của quy trình học tập theo trường lớp nhưng lại đóng vai trò đầu tầu trong sự nghiệp đổi mới và cải cách HTGD của một nước. Phải từ bỏ những hệ lụy của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, xin – cho bao cấp (không chỉ về chỉ tiêu đào tạo và kinh phí mà cả về chương trình, nội dung, phương pháp) khiến cho đến nay đại học vẫn chưa ra khỏi tình trạng yếu kém mà nhiều tác giả coi là cấp 4 của giáo dục phổ thông. Thay vào đó, cần có những ứng xử phù hợp vị thế của đại học, nơi đào tạo tầng lớp trí thức, cái nôi của những ý tưởng mới, của những phát minh, sáng chế. Trung thực, sáng tạo và trách nhiệm là ba phẩm chất quan trọng người trí thức, rất cần bồi dưỡng cho các thế hệ sinh viên. Trung thực, sáng tạo và trách nhiệm phải được xem là nguyên tắc cần quán triệt trong việc xác định mục tiêu, xây dựng chương trình, lựa chọn nội dung và phương pháp giáo dục ở cấp học này. Trên cơ sở đó, nhà trường đại học phải tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên rèn luyện thói quen suy nghĩ độc lập, không ngại trình bày những điều trái ngược với những điều được nghe giảng một khi thấy không hoặc chưa ổn so với những gì mình chiêm nghiệm từ cuộc sống, từ sách vở. Sinh viên phải được đối xử với thái độ tôn trọng như những thành viên đã trưởng thành và có học vấn của một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh chứ không phải như với trẻ vị thành niên cho đến tận khi được trao bằng tốt nghiệp. Giáo sư, phó giáo sư là các chức vụ khoa học của một trường đại học, cao đẳng cụ thể, do người đứng đầu nhà trường bổ nhiệm, không phải là một học hàm. Đào tạo tiến sĩ chủ yếu nhằm tạo nguồn lực nghiên cứu khoa học và giảng dạy đại học, cao đẳng, cần bãi bỏ những chính sách khuyến khích cán bộ quản lý (những người không có ý định cống hiến trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và giáo dục – đào tạo) đi học để lấy bằng tiến sĩ. Gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học không chỉ là công việc của riêng các “đại học nghiên cứu” hoặc những đại học đầu đàn mà phải là hoạt động thường xuyên của mọi đại học. Và điều quan trọng, nghiên cứu phải là công việc thường xuyên của mọi giảng viên đại học, cao đẳng. Chỉ có với thái độ như vậy trong một không gian tự do về học thuật nhà trường đại học mới đào tạo được những nhà khoa học chân chính, những nhà kỹ thuật thực thụ, những nhà quản lý chuyên nghiệp.
Trong quá trình đổi mới tư duy, việc học hỏi kinh nghiệm của các nước phát triển là cần thiết, song không thể dễ dàng lâm vào tình trạng vọng ngoại một cách máy móc. Thực tế đã xẩy ra một số trường hợp bắt chước mô hình giáo dục nước khác mà chưa tìm hiểu kỹ thực chất, chưa rõ được những điều kiện KTXH và lịch sử hình thành mô hình đó. Chính người Mỹ đã cho rằng đã có một số lầm lẫn khi tìm hiểu mô hình giáo dục Mỹ để định áp dụng vào Việt Nam[5], điển hình là việc “đồng nhất hóa” trường tư của Mỹ vào cùng một loại do tư nhân (một người, một nhóm, một tổ chức) đầu tư và làm chủ rồi gộp những trường tư danh tiếng như Đại học Harvard vào đó để đi đến kết luận “nhiều trường đại học hàng đầu của Mỹ là trường tư” từ đó đi đến một định hướng không chính xác: “tư nhân hóa” đại học để phát triển quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Với cách nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài hời hợt, đã có không ít trường hợp ta cố áp dụng cái người ta đang tìm cách loại bỏ, kết quả là đi theo lối mòn, không thể tiến kịp các nước phát triển.
Vì giáo dục là một vấn đề xã hội cực kỳ nhạy cảm nên đổi mới tư duy giáo dục của các nhà hoạch định chính sách và quản lý phải được chuyển hoá thành đổi mới tư duy giáo dục của toàn xã hội. Muốn làm được điều đó, mọi sự thay đổi phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, nhằm mục đích phục vụ lợi ích lâu dài của đông đảo nhân dân; công khai, minh bạch phải được xem là yêu cầu hàng đầu trong phong cách hoạch định chính sách và quản lý giáo dục. Có một thách thức lớn phải vượt qua là, mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định. Để không làm mất tính ổn định cần thiết đối với quy trình giáo dục, những đổi thay phải theo lộ trình hợp lý, phải được chuẩn bị chu đáo, hội đủ các điều kiện, trong đó điều kiện quan trọng bậc nhất là sự đồng thuận và quán triệt của đông đảo nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, của cha mẹ học sinh, rộng ra là của toàn xã hội, nhờ đó giữ vững được nền nếp, kỷ cương trong quá trình đổi mới.
IV. Kết quả mong đợi từ cuộc CCGD
Việc xác định những định hướng của cuộc CCGD (tầm nhìn, mục tiêu, giải pháp cải cách…) thuộc trách nhiệm của Uỷ ban CCGD và chỉ Uỷ ban CCGD mới có đủ điều kiện (về năng lực trách nhiệm và quyền hạn) thực hiện điều đó. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu khoa học, các tác giả quan niệm rằng, những phần trình bày dưới đây về cuộc CCGD chỉ mang tính khuyến cáo, hay ít hơn nữa, chỉ là những mong đợi sẽ đạt được trong cuộc CCGD.
1. Kết quả mong đợi – Mục tiêu tổng quát của cuộc CCGD
Kết quả mong đợi của cuộc cải cách là, hệ thống giáo dục quốc dân sẽ trở thành một hệ thống mở[6], thể hiện rõ tính nhân dân, dân tộc, khoa học và hiện đại, thích ứng với điều kiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hoàn thiện; có cơ cấu phù hợp với nguyên tắc phân hóa, phân luồng và liên thông; hoạt động có chất lượng và hiệu quả nhằm mục tiêu phát triển nhân cách ở mỗi cá nhân và phát triển nguồn lực con người cho toàn xã hội.
Rõ ràng, muốn đạt được các tiêu chí trên, hệ thống giáo dục quốc dân cần được cơ cấu lại căn cứ vào nguyên tắc “Học tập suốt đời mà nhà trường là giai đoạn khởi đầu” để từ đó xác định hợp lý về nội dung, phương pháp và thời gian đào tạo từng trình độ, tạo ra sự tương thích giữa cung và cầu về đào tạo nhân lực. Đồng thời, phải xác định lại mục tiêu giáo dục nhằm vào cái đích giúp học sinh học được cách học để biết, để làm việc, để làm người, để chung sống. Mặc dù nhân lực là cực kỳ cần thiết và trên thực tế đất nước ta đang đứng trước tình trạng thiếu nhân lực chất lượng cao đến mức nghiêm trọng, song cuộc cải cách phải bảo đảm ý nghĩa nhân văn của hoạt động giáo dục, để trong tương lai, mục tiêu giáo dục phải đặt trọng tâm vào phát triển con người Việt Nam, chủ thể của một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, với đầy đủ bản lĩnh, thể lực và phẩm chất. Với mục tiêu giáo dục như vậy, chẳng những kinh tế sẽ đạt được tốc độ tăng trưởng lớn hơn, mà đất nước ta sẽ phát triển nhanh chóng, hài hòa và bền vững trong kỷ nguyên thông tin, kinh tế tri thức và toàn cầu hóa.
2. Tiêu chí cần đạt – Các mục tiêu chí cụ thể của cuộc CCGD
Dựa vào kinh nghiệm phát triển giáo dục các nước có đặc điểm tương đồng với nước ta và đạt trình độ phát triển cao hơn nước ta, có thể hình dung vào giai đoạn cuối của cuộc cải cách (khoảng 2020-2025), hệ thống giáo dục quốc dân nước ta đạt được các tiêu chí sau:
a) Hầu hết trẻ em trước tuổi đi học tiểu học dù ở gia đình hay ở cơ sở giáo dục mầm non đều được nuôi dạy, chăm sóc theo phương pháp khoa học. Tại các khu dân cư tập trung đều có cơ sở giáo dục mầm non. Nhà nước tổ chức thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển trí tuệ và thể lực trẻ em từ khi lọt lòng.
b) Trường công ở bậc giáo dục cơ sở 9 năm bảo đảm đủ chỗ cho mọi trẻ em 6-15 tuổi đến học theo chế độ miễn phí và học sinh được sử dụng sách giáo khoa dùng chung. Chương trình giáo dục cơ sở bảo đảm cho học sinh phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, biết tôn trọng những giá trị đạo đức của dân tộc và loài người, có tư duy hợp lý, có kiến thức và kỹ năng cần thiết để sống với tư cách một thành viên trưởng thành của xã hội Việt Nam ở thập niên 20 của thế kỷ 21.
c) Sau khi tốt nghiệp bậc cơ sở 9 năm, hơn 50% học sinh có thể học tiếp ở trường trung học nghề, non nửa còn lại học ở trường trung học phổ thông. Chương trình trung học nghề giúp học sinh tiếp tục hoàn thiện và phát triển những kết quả đã đạt được ở bậc giáo dục cơ sở, đồng thời được đào tạo về nghề nghiệp để có kiến thức, kỹ năng ở mức có thể đi làm ở các doanh nghiệp hoặc tự mình lập ra các doanh nghiệp nhỏ cung cấp các dịch vụ hoặc hàng hóa đơn giản. Chương trình trung học phổ thông cũng tiếp tục hoàn thiện và phát triển những kết quả đã đạt được ở bậc giáo dục cơ sở nhưng là bước chuẩn bị theo định hướng nghề nghiệp để sau khi tốt nghiệp học sinh có thể học tiếp các chương trình sau trung học ở trường cao đẳng hoặc đại học.
d) Hệ thống các trường sau bậc trung học phân thành hai nhánh: nhánh định hướng nghiên cứu (một số ít các trường/ các khoa đại học) và nhánh định hướng ứng dụng (gồm tất cả các trường cao đẳng và số đông các trường, các khoa đại học kỹ thuật/ công nghệ). Hệ thống này đủ khả năng thu hút hầu hết học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, trong đó các trường đại học đảm nhiệm đào tạo cho khoảng 30%, số còn lại có thể theo học các trường cao đẳng nghề trong 2 năm học. Chương trình đào tạo cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ đạt chất lượng tương đương các chương trình đào tạo cùng cấp ở các trường hàng đầu trong khu vực.
đ) Giáo viên tất cả các cấp mẫu giáo và phổ thông đều được đào tạo ở các trường đại học, được tuyển chọn chặt chẽ căn cứ vào các tiêu chuẩn cao về kiến thức giáo dục học, tâm lý học và các bộ môn khoa học cũng như về kỹ năng làm việc với thanh thiếu niên. Giáo viên các trường dạy nghề có năng lực sư phạm đồng thời có tay nghề cao, thành thạo trong việc tổ chức hoạt động giáo dục đồng thời có khả năng tổ chức sản xuất. Các giảng viên đại học, cao đẳng đều có trình độ trên đại học, thường xuyên gắn đào tạo với hoạt động nghiên cứu khoa học. Nhà giáo ở mọi cấp học, ngành học đều được đãi ngộ thỏa đáng về vật chất và tinh thần, toàn tâm toàn ý dành cho hoạt động giáo dục và có uy tín cao trong xã hội. Cán bộ quản lý giáo dục các cấp phải được đào tạo chuyên sâu, tinh thông nghiệp vụ và trong sạch.
e) Tất cả các trường cơ sở và trường trung học trong toàn quốc đều được xây dựng kiên cố, khang trang, có đủ phòng học, thiết bị dạy học, phòng thí nghiệm, thư viện. Sách giáo khoa ở các bậc giáo dục phổ thông đủ để cho học sinh mượn (ở trường công cấp giáo dục cơ sở) hoặc thuê (ở trường công cấp trung học). Thiết bị thông tin và truyền thông trở thành dụng cụ dạy học thông thường của mọi giáo viên. Các trường dạy nghề đều có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật bảo đảm cho học sinh, sinh viên thực hành và đều có quan hệ gắn bó với các cơ sở sản xuất, kinh doanh để bảo đảm chế độ thực tập. Trường sở, thiết bị ở đại học đạt mức trung bình trong khối ASIAN, trong đó một số khoa mũi nhọn đạt mức tương đương với các khoa cùng nhiệm vụ đào tạo của các trường hàng đầu khu vực.
g) Song song với hệ thống các trường học – cơ sở giáo dục chính quy, có một hệ thống cơ sở giáo dục không chính quy hoạt động nhằm mục đích cung ứng các dịch vụ giáo dục thường xuyên để bảo đảm m
ọi công dân có nguyện vọng học tập đều có thể thực hiện nguyện vọng của mình thông qua một trong những hình thức học tập tại nơi làm việc hoặc qua phương tiện truyền thông đại chúng.
h) Hệ thống giáo dục bên cạnh nhà trường (thư viện, nhà văn hóa, viện bảo tàng, sân vận động, trại hè) và các tổ chức giáo dục thanh thiếu niên (Đội Thiếu niên và Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên,…) đều được kiện toàn, thu hút học sinh, sinh viên tham gia một cách tự giác, đạt hiệu quả rõ rệt trong hoạt động, phối hợp chặt chẽ với ngành giáo dục và nhà trường tạo ra sức mạnh tổng hợp trong việc giáo dục thế hệ trẻ.
i) Hằng năm các số liệu thống kê phản ánh thực trạng quy mô, chất lượng, tài chính về giáo dục, đào tạo được báo cáo Quốc hội và được công bố công khai như quy định tại Khoản 1, Điều 100, Luật giáo dục. Đồng thời, hệ thống dữ liệu được tập hợp và công bố phải theo những tiêu thức tương thích với các dữ liệu của các tổ chức quốc tế có uy tín để có thể so sánh, đánh giá, xếp hạng cùng với các nước khác. Riêng về mặt tài chính, cần công bố các báo cáo kết quả kiểm toán để bảo đảm tính minh bạch trong việc sử dụng mọi nguồn đóng góp của nhân dân cho sự nghiệp giáo dục.
k) Các cơ quan quản lý giáo dục có tính chuyên nghiệp cao và đều thực hiện đúng chức trách. Các tổ chức làm chức năng đánh giá, kiểm tra, giám sát độc lập với các tổ chức làm chức năng đào tạo và chỉ đạo hoạt động đào tạo. Nhà trường mỗi cấp đều có quyền tự chủ theo quy định của pháp luật và đều thực hiện cơ chế công khai, minh bạch để xã hội giám sát. Nhân sự trong bộ máy quản lý, quản trị giáo dục đều trong sạch, thạo việc, có trách nhiệm. Những người đứng đầu cơ quan quản lý giáo dục có đủ bản lĩnh biến chủ trương cải cách giáo dục thành hiện thực. Trách nhiệm quản lý giáo dục theo ngành và theo lãnh thổ được xác định rõ ràng, cấp ủy đảng và cấp chính quyền địa phương thể hiện sự quán triệt quan điểm quốc sách hàng đầu bằng hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo.
V. Những vấn đề chủ yếu cần giải quyết trong cuộc CCGD sắp tới
1. Tái cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân
Như đã trình bày ở trên, để đạt được mục tiêu phát triển nhân cách ở từng cá nhân và phát triển nguồn lực con người cho toàn xã hội, cần cơ cấu lại HTGDQD.
a) Những yêu cầu đối với việc cơ cấu lại HTGDQD:
– Tăng tính mở của hệ thống, nghĩa là: (i) làm cho hệ thống đủ sức cung ứng cơ hội học tập cho mọi thành viên trong xã hội, (ii) tạo điều kiện dễ dàng về thủ tục nhập học, (iii) bảo đảm cho người học sau khi hoàn thành giai đoạn giáo dục cơ sở, càng học lên, càng có thêm cơ hội lựa chọn phương án học tập phù hợp với khả năng và điều kiện cá nhân.
– Tạo thuận lợi cho việc phân luồng sau giáo dục cơ sở (9 năm học bắt buộc) và sau từng cấp học tiếp theo (sau trung học và sau đại học).
– Tăng tính liên thông giữa các phân hệ để bảo đảm người học, dù chọn phương án học tập nào, nếu có năng lực học tập, thì cũng có thể học tiếp để đạt được trình độ cao nhất trong thang học vấn.
– Hợp lý hóa về thời gian đào tạo, tăng thời lượng giáo dục phổ thông (học 2 buổi/ ngày) và rút ngắn thời gian đào tạo sau trung học bằng việc tăng quyền lựa chọn quy trình và tiến độ học tập cho người học (áp dụng hệ thống tín chỉ).
b) Hình dung đại thể về HTGD sau khi tái cơ cấu:
– Giáo dục mầm non (hay giáo dục trước tiểu học) gồm nhà trẻ (dành cho trẻ em trước 3 tuổi) và trường/ lớp mẫu giáo (dành cho trẻ em 3-5 tuổi). Lớp mẫu giáo lớn (5 tuổi) có chức năng chuẩn bị tâm thế, những thói quen cần thiết cho trẻ vào lớp 1.
– Cấp giáo dục cơ sở là sự gắn kết giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Đây là cấp giáo dục bảo đảm để học sinh có một nền học vấn cơ bản (tối thiểu cần thiết) và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật, được định hướng về nghề nghiệp. Đối với giáo dục cơ sở, có thể thực hiện hai mô hình: (i) tách tiểu học và trung học cơ sở (2 trường riêng biệt), hoặc (ii) tổ chức một trường chung gọi là trường phổ thông cơ sở (9 năm). Việc áp dụng mô hình nào tùy thuộc điều kiện và hoàn cảnh địa phương.
– Cấp trung học gồm 3 loại trường: (i) trung học phổ thông, (ii) trung học nghề, (iii) trung học kỹ thuật. Trường trung học nghề tuyển học sinh hoàn thành giáo dục cơ sở (tốt nghiệp THCS), thực hiện mục tiêu kép: khi tốt nghiệp học sinh có học vấn tương đương THPT, đồng thời biết làm một nghề. Loại trường này phải mở rộng quy mô để thực hiện phân luồng sau THCS đồng thời tăng tính thực nghiệp của HTGD. Trường trung học kỹ thuật
– Cấp sau trung học gồm 3 loại trường: (i) đại học, (ii) cao đẳng công nghệ, (iii) cao đẳng cộng đồng. Trường cao đẳng cộng đồng: thực hiện 3 loại chương trình: a/ các chương trình dạy nghề (ngắn hạn, sơ cấp, trung cấp, cao đẳng) b/ đại học đại cương (sẽ đào tạo tiếp ở đại học), c/ phổ cập kiến thức, kỹ năng
– Đào tạo sau đại học gồm hai trình độ: cao học (đào tạo thạc sỹ) và nghiên cứu sinh (đào tạo tiến sỹ). Rất cần tạo ra sự phân luồng sau cao học: một số theo định hướng nghiên cứu (giảng viên đại học/ làm nghiên cứu sinh lấy bằng tiến sỹ), số còn lại ngày càng đông sẽ trở thành các nhà quản lý làm nhiệm vụ điều hành cơ quan/ doanh nghiệp. Đào tạo tiến sỹ chủ yếu bổ sung lực lượng làm công tác nghiên cứu và giảng dạy đại học. Nhà nước rỡ bỏ các chính sách khuyến khích những người làm công tác quản lý lấy bằng tiến sỹ.
– Hệ thống giáo dục không chính quy/ giáo dục thường xuyên các trung tâm giáo dục cộng đồng, các trung tâm giáo dục thường xuyên (dạy ngoại ngữ, dạy tin học, cập nhật về khoa học/ công nghệ, bồi dưỡng tri thức/ kỹ năng văn hóa, rèn luyện thể lực…) gắn với địa phương, gắn với doanh nghiệp, gắn với các trường đào tạo sau trung học.
2. Thực hiện chiến lược phát triển thể lực và trí tuệ trẻ em Việt Nam
Vấn đề cơ bản cần giải quyết đối với giáo dục mầm non là xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện chiến lược phát triển thể lực và trí tuệ trẻ em Việt Nam. Yêu cầu của việc thực hiện thực hiện chiến lược này là:
a) Tăng cường truyền bá các kiến thức và kỹ năng nuôi dạy trẻ thơ theo phương pháp khoa học cho cha mẹ, ông bà các cháu; đào tạo bổ sung đội ngũ bảo mẫu/ giáo viên mầm non; bảo đảm để mọi trẻ em trước tuổi đi học tiểu học dù ở gia đình hay ở cơ sở giáo dục mầm non đều được nuôi dạy, chăm sóc theo phương pháp khoa học.
b) Mở rộng hệ thống mạng lưới giáo dục mầm non: trước hết, phấn đấu để đủ sức thu hút hầu hết trẻ 5 tuổi (mẫu giáo lớn) sau đó tiến dần đến chỗ đủ sức thu hút trẻ 4-5 tuổi, rồi tiến đến phổ cập hóa mẫu giáo 3-5 tuổi.
c) Xây dựng và thực hiện các chính sách hỗ trợ trẻ em thuộc các gia đình nghèo khắc phục tình trạng suy dinh dưỡng, bảo đảm hiệu quả và công bằng xã hội trong việc thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em.
3. Xây dựng chương trình và sách giáo khoa mới cho giáo dục phổ thông
Vấn đề cơ bản cần giải quyết đối với giáo dục phổ thông là hiện đại hóa nội dung và phương pháp giảng dạy – học tập trong nhà trường. Muốn vậy, phải khẩn trương xây dựng các bộ chương trình và sách giáo khoa mới, chẳng những khắc phục những thiếu sót hiện có mà phải thể hiện được các nguyên tắc giáo dục hiện đại, phù hợp với thành quả khoa học – công nghệ cũng như những tiến bộ trong nhận thức của dân tộc và nhân loại.
Chương trình giáo dục cơ sở 9 năm cần hình thành và phát triển ở trẻ em (6 đến 15 tuổi) những nguyên tắc đối xử đúng đắn đối với bản thân, người khác, cộng đồng, xã hội và môi trường, giúp các em có được những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho cuộc sống (cuộc sống hiện tại của các em và cuộc sống khi trưởng thành với tư cách một công dân bình thường trong xã hội). Điều coi trọng trước hết là phát triển năng lực đọc, viết, nói tiếng Việt, hình thành những thói quen tốt về rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh, những thói quen tốt về suy nghĩ và hành động (hợp lý và hợp pháp), có hiểu biết đại cương về lịch sử, địa lý nước nhà, về nhân loại và thế giới, cũng như những hiểu biết cơ bản về khoa học.
Chương trình mới ở trung học cơ sở và trung học phổ thông cần được xây dựng trên cơ sở quan niệm mới về môn học, theo đó, có thể không còn sự chia cắt sâu (căn cứ vào các bộ môn khoa học như vật lý, hóa học, sinh học, lịch sử, địa lý…) mà sẽ có các môn học mới thể hiện nguyên tắc tích hợp các khoa học và liên kết các tri thức.
Nói chung, chương trình giáo dục phổ thông có thể có nhiều phương án thực hiện để tạo ra nhiều cơ hội lựa chọn cho học sinh nhằm phù hợp với khả năng, sở thích và điều kiện học tập cụ thể của các em. Một trong những hướng xử lý có thể là, giáo dục phổ thông có một khung chương trình thể hiện các yêu cầu cụ thể về kiến thức, kỹ năng và thái độ, để trên cơ sở đó, xây dựng các phương án áp dụng và nhiều bộ sách giáo khoa bảo đảm yêu cầu phù hợp đặc điểm từng vùng lãnh thổ, từng nhóm đối tượng.
4. Tăng tốc phát triển nguồn nhân lực.
Giáo dục nghề nghiệp phải được xem là trọng tâm trước mắt của công tác đào tạo, trên cơ sở đó, cần phát triển mạnh mẽ mạng lưới trường lớp ở cả sơ cấp, trung cấp và cao đẳng theo hướng đại chúng hóa hệ thống đào tạo sau trung học để đáp ứng yêu cầu nhân lực nhằm phát triển công nghiệp, dịch vụ và xuất khẩu lao động. Đồng thời kết hợp chặt chẽ việc đào tạo nghề nghiệp với việc bồi dưỡng kiến thức về sản xuất và đời sống cho nhân dân lao động, đặc biệt là nông dân, hiện đang chiếm gần 70% lao động xã hội. Các chương trình đào tạo nghề nghiệp phải liên thông giữa các trình độ đào tạo, phù hợp cơ cấu ngành nghề trong xã hội, tiếp cận và thích ứng yêu cầu thị trường lao động. Cụ thể:
a) GDNN tập trung vào ba nhiệm vụ chủ yếu:
– Đào tạo các ngành nghề phục vụ sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước, kể cả các doanh nghiệp hợp tác với người nước ngoài hoặc do người nước mở;
– Đào tạo ngành nghề phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, góp phần CNH nông nghiệp, giải quyết công ăn việc làm cho nông dân trong quá trình CNH, đô thị hóa;
– Đào tạo ngành nghề phục vụ xuất khẩu lao động.
b) Mục tiêu GDNN phải được thể hiện thành yêu cầu cụ thể về kiến thức, kỹ năng và thái độ trong chuẩn đào tạo và chương trình đào tạo, bảo đảm phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động, của cơ sở sản xuất, tạo thuận lợi cho học sinh sau khi tốt nghiệp có nhiều cơ hội để tìm được việc làm. Trong việc cụ thể hóa mục tiêu đào tạo, cần coi trọng các yêu cầu về phát triển nhân cách (tính trung thực, lương tâm nghề nghiệp, tôn trọng kỷ luật lao động, chấp hành các quy phạm kỹ thuật…).
c) Quy trình đào tạo phải tập trung hình thành năng lực hành nghề và cập nhật được các tiến bộ khoa học và đổi mới công nghệ trong sản xuất/dịch vụ để đạt được mục tiêu đào tạo và giúp cho người học nhanh chóng thích ứng với việc làm sau khi tốt nghiệp.
d) Các chương trìnhđào tạo phải được thiết kếmềm dẻo, linh hoạt, cấu trúc theo học phần, mô đun, bảo đảm liên thông giữacáctrình độ đào tạo, tạo điều kiện cho người lao động có thể học suốt đời để không ngừng nâng cao năng lực nghề nghiệp.
đ) Đối với những ngành, nghề mũi nhọn và những ngành nghề có chương trình hợp tác quốc tế cần khuyến khích áp dụng chương trình đào tạo của các nước tiên tiến.
5. Xây dựng không gian đại học khoáng đạt, đào tạo những trí thức trung thực, sáng tạo, có trách nhiệm xã hội
Đối với giáo dục đại học, cần mau chóng cụ thể hóa những chủ trương đúng đắn trong Nghị quyết 14/2005/NQ-CP, tăng cường liên kết quốc tế trong đào tạo nhân lực trình độ cao trên cơ sở bảo đảm truyền thống dân tộc và chủ quyền quốc gia nhằm đào tạo những trí thức trung thực, sáng tạo, có trách nhiệm đối với xã hội. Chương trình giáo dục đại học cần được cập nhật thường xuyên, giảm bớt những phần chưa thật sự cần thiết để phù hợp với sự phát triển mạnh mẽ về khoa học và công nghệ do các trường tự xác định. Cụ thể:
Trước mắt, không tiếp tục mở trường đại học, chỉ cho mở các trường cao đẳng theo hướng nghề nghiệp ứng dụng. Đồng thời, xây dựng và củng cố mạng lưới các trường cao đẳng/ đại học cộng đồng với ba mảng chương trình: chương trình chuyển tiếp, chương trình đào tạo nghề và chương trình giáo dục thường xuyên (đáp ứng nhu cầu cập nhật tri thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ…) phục vụ yêu cầu phát triển của địa phương. Đối với các đại học cộng đồng, điều khác biệt so với cao đẳng cộng đồng là ở chỗ có một số ngành có thể đạo tạo ở trình độ đại học, nhưng đa số ngành vẫn phải sử dụng cơ chế chương trình chuyển tiếp. Ngoài ra, vẫn phải tích cực xây dựng hệ thống đào tạo nghề trong hệ thống đại học-cao đẳng cộng đồng.
Cần tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho hai đại học mở để phát triển hệ thống giáo dục từ xa nhằm mở rộng quy mô, đáp ứng nhu cầu học đại học của thanh niên. Cần sử dụng hệ thống đánh giá chuẩn của 2 đại học mở để đánh giá và cấp văn bằng cho những người tự học và những người học ở các trường đại học tư chưa được quyền cấp bằng.
Để bảo đảm chất lượng đào tạo, cần hoàn thiện hệ thống đảm bảo chất lượng và kiểm định công nhận chất lượng, thành lập cơ quan điều phối việc kiểm định công nhận chất lượng độc lập với Bộ GD-ĐT và khuyến khích việc thành lập các tổ chức chuyên nghiệp kiểm định chất lượng và đo lường đánh giá trong giáo dục nói chung. Có thể nới lỏng điều kiện cho phép chuẩn bị mở trường, nhưng nhất thiết phải thắt chặt điều kiện cho phép tuyển sinh và chỉ cho phép cấp bằng sau khi nhà trường đã đạt yêu cầu qua quy trình kiểm định chất lượng.
Đối với các trường ngoài công lập, nhà nước hỗ trợ đất đai, cho vay vốn xây dựng trường, miễn thuế cho các trường không vị lợi, cho giáo chức được cử đi học theo các chương trình của nhà nước, cấp học bổng cho sinh viên như ở các trường công…
Các trường đại học được tự quyết định tiêu chí tuyển sinh (tự quy định mức điểm tối thiểu để xét tuyển, nhưng phải thông báo công khai mức điểm). Đồng thời với việc bảo đảm quyền tự chủ cho các trường đại học, cần xây dựng một hệ thống hỗ trợ để nâng cao trách nhiệm của nhà trường trước xã hội. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế tự chủ bằng việc thúc đẩy việc thành lập và hoạt động của Hội đồng trường đúng như Điều lệ trường đại học quy định và từng bước áp dụng cơ chế quản lý nhà trường như quản lý doanh nghiệp.
6. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục – Đổi mới cơ chế tuyển dụng và chính sách đãi ngộ.
Xây dựng và thực hiện đề án phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý để nhanh chóng khắc phục tình trạng yếu kém, bất cập hiện nay của lực lượng này về trình độ, cơ cấu và một phần về phẩm chất chính là tăng cường nhân tố quyết định sự thành công của CCGD. Yêu cầu của việc thực hiện thực hiện đề án này là:
– Tái xác định chuẩn giáo viên/ giảng viên đối với các cấp giáo dục cũng như các loại hình hoạt động giáo dục. Chuẩn giáo viên không chỉ quy định trình độ được đào tạo mà phải quy định cụ thể các kiến thức, kỹ năng và thái độ mà người giáo viên/ giảng viên cần phải có để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ giáo viên của mình.
– Đổi mới công tác đào tạo giáo viên/ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục. Theo đó, trường đại học sư phạm thực hiện chức năng của một trường đại học khoa học giáo dục: (i) Đào tạo giáo viên cho toàn ngành. với hệ thống chương trình bao gồm: Chương trình đào tạo giáo viên mầm non (Đại học 4 năm), Chương trình đào tạo giáo viên cho các cấp giáo dục cơ sở (Đại học 4 năm), Chương trình đào tạo giáo viên cho các trường trung học phổ thông, trung học nghề (học 1 năm với đầu vào là cử nhân khoa học chuyên ngành/ kỹ sư); (ii) Đào tạo cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ khoa học tâm lý, khoa học giáo dục; (iii) Đào tạo cán bộ quản lý/quản trị trường học. Đồng thời, trường đại học sư phạm cũng được giao trách nhiệm chủ trì công tác đào tạo bổ sung (cập nhật tri thức, kỹ năng) cho giáo viên và cán bộ quản lý/quản trị trường học.
Đổi mới công tác tuyển dụng giáo viên/ giảng viên. Theo đó, giáo viên/ giảng viên làm việc theo chế độ hợp đồng dài hạn, việc tuyển dụng được phân cấp cho hiệu trưởng với sự giám sát của hội đồng trường. Nhà nước ban hành chính sách mới về tiền lương, về đãi ngộ vật chất và tinh thần đối với nhà giáo phù hợp với yêu cầu cao và sự trọng thị của xã hội đối với nghề dạy học.
7. Nâng cấp và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của hệ thống giáo dục quốc dân
Về cơ sở hạ tầng giáo dục, nhiệm vụ của cuộc cải cách là vừa phải khắc phục tình trạng thiếu thốn, vừa phải nâng cấp để đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa. Tư tưởng chỉ đạo việc nâng cấp và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng giáo dục là: Thiết lập cảnh quan sư phạm, tạo điều kiện thực hiện phương pháp giáo dục mới, bảo đảm để mỗi mét vuông đều có tác dụng xây dựng và phát triển nhân cách. Những mục tiêu cụ thể của việc nâng cấp và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng giáo dục là:
a) Đủ chỗ học cho học sinh/ sinh viên (ở trường phổ thông: để thực hiện học 2 buổi/ ngày; ở trường dạy nghề: để có chỗ thực hành/ thực tập; ở đại học: để học theo nhóm nhỏ/ sêmina)
b) Có điều kiện hỗ trợ giảng dạy, học tập (thư viện, phòng bộ môn, phòng thí nghiệm, nhà xưởng thực hành/ thực tập).
c) Thiết lập cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin và truyền thông trong giáo dục, tạo điều kiện để nền giáo dục quốc dân thích nghi với xã hội tri thức toàn cầu hóa (global, knowledge–based society)
8. Khai thác, huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực phát triển giáo dục
Nguồn lực cho giáo dục là điều kiện cực kỳ quan trọng để phát triển cả về quy mô và chất lượng. Sự đóng góp của nhân dân cho sự nghiệp giáo dục thông qua ngân sách nhà nước và các hình thức trực tiếp như học phí, lệ phí … là rất lớn. Phải làm rõ việc sử dụng các nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục. Dự toán chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, số liệu về phân bổ và kết quả thực hiện ở tất cả các cấp đều phải được minh bạch, rõ ràng.
Cần làm rõ chi phí đơn vị ở các cơ sở giáo dục/giá thành của các chương trình đào tạo các ngành nghề và trình độ, kết quả huy động sự đóng góp của nhân dân, trên cơ sở đó, xây dựng chính sách tài chính giáo dục, gắn kết đầu tư phát triển giáo dục với phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả, công bằng trong lĩnh vực giáo dục.
Đổi mới cơ chế cấp ngân sách nhà nước cho cơ sở giáo dục theo hướng căn cứ vào kết quả đào tạo/ “chỉ số hoàn thành nhiệm vụ”, tiến đến cấp trực tiếp cho học sinh, sinh viên bằng phiếu chi trả học phí (voucher) nhằm bảo đảm công bằng trong giáo dục (miễn phí ở các cấp giáo dục cơ sở, thu hồi một phần chi phí ở các cấp giáo dục còn lại).
Việc điều chỉnh chính sách học bổng và trợ cấp xã hội, cải tiến tín dụng đào tạo phải bảo đảm hiệu quả (đúng mục đích, đúng đối tượng)và chủ trương được duy trì được lâu dài nhằm tăng thêm cơ hội học tập cho con em các gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, góp phần thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục.
Việc quản trị tài chính ở các cơ sở GDNN và GDĐH phải áp dụng mô hình tương tự như một doanh nghiệp, cho phép các trường đại học, cao đẳng công lập thành lập công ty hoạt động vì lợi nhuận, được phát hành trái phiếu, được vay vốn ưu đãi, được mở rộng các hoạt động nghiên cứu và dịch vụ để qua đó thu hút sự đóng góp của xã hội, thực hiện chính sách chia sẻ chi phí giáo dục.
9. Thực hiện chiến lược hội nhập quốc tế về giáo dục
Bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi phải có chiến lược hợp tác quốc tế tích cực và mạnh mẽ về giáo dục để, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc, tận dụng các cơ hội mà khai thác một cách hợp lý nguồn lực giáo dục nước ngoài, qua đó tiếp nhận thành quả khoa học, công nghệ và kinh nghiệm quản lý đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của nền giáo dục và của đất nước.
Chiến lược hợp tác quốc tế về giáo dục phải theo hướng tăng cường quản lý nhà nước, bảo đảm lợi ích hợp pháp của người học, giảm thiểu các tổn thất về ngoại tệ và chất xám; tập trung vào một số nội dung nhằm giải quyết các vấn đề đang đặt ra về du học, về liên kết đào tạo và về cho cơ sở đào tạo nước ngoài lập chi nhánh (brunch campuss) trên lãnh thổ Việt Nam; góp phần thúc đẩy CCGD. Cụ thể là:
– Hướng việc du học hội tụ vào các ngành kinh tế, khoa học, công nghệ mũi nhọn (những trọng điểm nhằm phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội), khắc phục tình trạng dàn trải và tự phát hiện nay.
– Tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở đào tạo trong nước tổ chức liên kết với các cơ sở đào tạo có uy tín của nước ngoài, khắc phục tình trạng tùy tiện liên doanh với các cơ sở đào tạo kém chất lượng nước ngoài.
– Tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở đào tạo có uy tín của nước ngoài lập chi nhánh ở Việt Nam, đồng thời có biện pháp ngăn chặn các cơ sở đào tạo kém chất lượng của nước ngoài lợi dụng tình trạng sơ hở trong quản lý giáo dục để khai thác thị trường giáo dục trong nước, chỉ nhằm tăng lợi nhuận.
10. Chấn chỉnh công tác quản lý giáo dục – Khâu đột phá của CCGD
Để bảo đảm thành công, cải cách giáo dục phải lấy việc đổi mới quản lý làm khâu đột phá. Cần sớm thực hiện một lộ trình khắc phục những yếu kém, bất cập trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay. Nội dung quan trọng là: (i) xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cấp Trung ương và địa phương đối với lĩnh vực giáo dục; (ii) xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các ngành trong công tác tài chính và nhân sự giáo dục; (iii) tăng cường quyền tự chủ của nhà trường đi đôi với hoàn thiện cơ chế công khai, minh bạch để bảo đảm sự giám sát của cộng đồng và xã hội; (iv) thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo vào một đầu mối, không tiếp tục duy trì tình trạng tách rời giữa cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề và cơ quan quản lý về giáo dục và đào tạo để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống giáo dục quốc dân; (v) sắp xếp, bố trí lại các cơ quan quản lý giáo dục để nâng cao tính chuyên nghiệp, bảo đảm mỗi cấp đều thực hiện đúng chức trách, bảo đảm các cán bộ chủ chốt trước hết là người đứng đầu cơ quan quản lý giáo dục có đủ phẩm chất và năng lực biến chủ trương cải cách giáo dục thành hiện thực.
Phải tuân theo những quy luật cơ bản của thị trường (quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh và quy luật giá trị), kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp dưới mọi hình thức trong lĩnh vực giáo dục, mà biểu hiện tập trung là quan hệ “xin – cho”, xây dựng cơ chế giao quyền để cơ sở giáo dục chủ động khai thác, sử dụng các nguồn tài chính đồng thời tăng cường thanh tra, kiểm tra, ngăn ngừa mọi biểu hiện tham nhũng.
Để quản lý hệ thống giáo dục một cách có hiệu quả, cần có một hệ thống thông tin hiện đại, đủ sức cung cấp các số liệu thống kê phản ánh quy mô, chất lượng, cũng như tình trạng tài chính của lĩnh vực giáo dục. Các số liệu phải bảo đảm chính xác để làm căn cứ cho việc hoạch định chủ trương, chính sách và để nhân dân có cơ sở giám sát, kiểm tra. Các chỉ số, chỉ tiêu phải được xây dựng tương thích với các dữ liệu của các tổ chức quốc tế có uy tín để có thể so sánh, đánh giá cùng với các nước khác. Trên cơ sở tập hợp cc dữ liệu chính xác, tiến hành dự báo nhu cầu nhân lực và xây dựng chương trình phát triển nhân lực quốc gia trong kế hoạch 5 năm và 10 năm. Chương trình nhân lực quốc gia cần xác định được nhu cầu nhân lực các cấp trình độ của các ngành kinh tế- xã hội để làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo nhân lực, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và thị trường lao động.
Nhanh chóng hình thành hệ thống kiểm định chất lượng thống nhất và khuyến khích các trường áp dụng mô hình quản lý chất lượng. Cùng với việc xây dựng hệ thống chuẩn, cần sớm hình thành hệ thống kiểm định chất lượng thống nhất trong HTGD và củng cố hệ thống thanh tra chuyên môn để thực hiện phương thức quản lý giáo dục theo chuẩn.
Một nhiệm vụ trọng tâm của việc đổi mới quản lý giáo dục là đổi mới quản trị nhà trường. Trong đó rất quan trọng là xây dựng những quy định để thành lập hội đồng trường ở tất cả các cơ sở giáo dục, với chức năng một hội đồng quyền lực đại diện cho những nhóm “lợi ích liên quan” đến nhà trường. Chỉ trên cơ sở thành lập hội đồng trường mới có điều kiện bảo đảm để giao quyền tự chủ cho cơ sở giáo dục nhằm quản trị hiệu quả, minh bạch và có trách nhiệm xã hội, từ đó mới có thể huy động sự tham gia của cộng đồng vào việc tạo lập môi trường giáo dục lành mạnh và động viên cha mẹ học sinh chăm lo việc học tập của con em. Đối với GDNN và GDĐH, nhà trường phải được giao quyền tự quyết định và chịu trách nhiệm phần lớn nội dung và chương trình đào tạo, về tuyển sinh, về việc mở ngành đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động và cấp bằng tốt nghiệp với uy tín và thương hiệu của mình cũng như về tài chính, tổ chức bộ máy và nhân sự.
11. Hoàn thiện hệ thống các luật về giáo dục
Để thực hiện CCGD, cần sửa đổi, bổ sung các đạo luật đã có về giáo dục (Luật phổ cập giáo dục tiểu học, Luật giáo dục 2005, Luật dạy nghề), đồng thời phải có thêm các đạo luật mới (ví dụ: Luật giáo viên, Luật giáo dục đại học…) nhằm tạo môi trường pháp lý bảo đảm sự thành công của CCGD. Các đạo luật về giáo dục phải bảo đảm thể hiện tư duy mới về giáo dục (phù hợp với xu thế phát triển giáo dục trong xã hội tri thức, toàn cầu hóa), đồng thời thể hiện tư duy mới về xây dựng pháp luật (cụ thể, rõ ràng, không cần có các văn bản hướng dẫn của chính phủ).
V. Lộ trình CCGD:
Uỷ ban CCGD sẽ vạch ra lộ trình CCGD. Trong phạm vi nghiên cứu, các tác giả của đề tài căn cứ vào những nội dung đã đề xuất ở trên, hình dung lộ trình CCGD gồm các thời gian chuẩn bị (khoảng hai năm) và thời gian thực hiện (khoảng 10-15 năm), đại thể như sau:
Thời gian chuẩn bị (2008-2010):
– Lập Uỷ ban CCGD,
– Uỷ ban CCGD xây dựng Đề án CCGD, trình Trung ương Đảng và Chính phủ,
– Chính phủ trình Quốc hội.
Giai đoạn đầu (2011-2005):
– Đổi mới quản lý giáo dục;
– Tổ chức biên soạn chương trình, sách giáo khoa phổ thông mới;
– Đổi mới công tác đào tạo, tuyển dụng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, triển khai chính sách mới đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục;
– Cơ cấu lại HTGD theo hướng phân luồng, liên thông;
– Bảo đảm chất lượng GDPT; tập trung đào tạo nghề, hình thành trường trung học nghề, trung học kỹ thuật, mở rộng quy mô sau trung học; điều chỉnh, bổ sung và triển khai đề án đổi mới giáo dục đại học theo tinh thần Nghị quyết 14/2005/NQ-CP.
Giai đoạn hai (2015-2025):
– Triển khai chương trình, sách giáo khoa mới ở GDPT;
– Hoàn thiện những phần việc thuộc Đề án CCGD…
Phần III: Kết luận
Trên đây là những nội dung cơ bản của đề tài nghiên cứu B1-2 TMKHXH “Luận cứ khoa học cho việc đề xuất chủ trương, chính sách phát triển giáo dục phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu và đầy đủ” do một số nhà giáo và cán bộ giáo dục cộng tác với Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam thực hiện. Tất cả những nội dung nêu trên là kết quả đạt được thông qua bốn cuộc hội thảo, hàng chục cuộc thảo luận trong các nhóm và các cuộc trao đổi giữa Chủ nhiệm đề tài với các thành viên phụ trách từng nhánh của đề tài. Trong quá trình nghiên cứu, bộ phận nòng cốt cũng đã có cuộc làm việc với các nhóm chuyên gia am hiểu về GDPT, GDNN, GDĐH, một số vị hiệu trưởng các trường mầm non, phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học. Chủ nhiệm đề tài và nhóm nghiên cứu GDĐH cũng đã có buổi làm việc với một số giáo sư của Đại học Havard nhằm tham khảo ý kiến. Các nỗ lực nói trên đã đi đến hệ thống các kiến nghị về giải pháp, trong đó không ít kiến nghị và giải pháp kế thừa/ trùng lặp với các kiến nghị và giải pháp đã được một số nhà khoa học, nhà giáo, nhà văn hóa đề xuất trong vài năm gần đây được tập hợp trong quyển Những vấn đề giáo dục hiện nay: quan điểm & giải pháp, NXB Tri thức, 2007 bao gồm cả kiến nghị về CCGD của 23 nhà giáo, nhà khoa học, nhà văn hóa do giáo sư Hoàng Tụy chủ trì (2005) và gần đây, 2008, là Đề án CCGD Việt Nam – Phân tích và đề nghị của Nhóm nghiên cứu giáo dục Việt Nam gồm một số giáo sư người Việt ở Nhật, úc, Mỹ, Pháp và trong nước do giáo sư Vũ Quang Việt chịu trách nhiệm điều phối hoạt động nghiên cứu. Nhân đây, các tác giả đề tài nghiên cứu này xin cảm ơn các nhà khoa học, nhà giáo, nhà văn hóa đã sớm có ý kiến về thực trạng giáo dục nước nhà, trình bày các quan điểm và nêu ra các giải pháp để khắc phục những yếu kém, bất cập trong lĩnh vực giáo dục; đồng thời trước sự đồng thuận về nhiều ý kiến và giải pháp, các tác giả của đề tài nghiên cứu này càng thêm tự tin đối với các đề xuất của mình mà đề xuất quan trọng nhất là cần khẩn trương chuẩn bị tiến hành một cuộc CCGD.
Rõ ràng một cuộc CCGD như thế là cần thiết để giáo dục làm được vai trò nền tảng và động lực CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, đưa đất nước hội nhập sâu và đầy đủ vào đời sống quốc tế, sẵn sàng hợp tác và cạnh tranh với các nước trong thế kỷ 21. Vấn đề đặt ra là, một cuộc CCGD như vậy có khả thi hay không. Tuy rằng tính khả thi của CCGD phụ thuộc nhiều nhân tố song nhân tố quan trọng bậc nhất, quyết định sự thành bại của cuộc cải cách, theo như nhận thức của tất cả những người tham gia đề tài này, chính là ý chí lãnh đạo. Một khi thật sự xem đó là quốc sách hàng đầu, dành cho công cuộc phát triển giáo dục sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo lớn hơn hiện nay; tập hợp cho được những chuyên gia có tâm huyết và đủ tầm để hoạch định mục tiêu, giải pháp và lộ trình cải cách; tạo cho giáo dục cơ sở pháp lý đầy đủ và mạnh mẽ hơn; giảm bớt kinh phí ở những phần việc có thể tạm thời chưa nhất thiết phải làm ngay và kiên quyết ngăn chặn những khoản thất thoát đồng thời huy động hợp lý sự đóng góp của nhân dân để có đủ nguồn lực tài chính bảo đảm cho việc thực hiện chủ trương thì cuộc CCGD chẳng những khả thi mà còn chắc chắn thành công. Cơ sở của niềm tin ấy bắt nguồn từ nhận thức về những bài học lịch sử: không ít lần đứng trước những nhiệm vụ tưởng chừng bất khả thi nhưng cuối cùng dân tộc ta đã hoàn thành xuất sắc vì ý chí của lãnh đạo đã chung đúc được nguyện vọng của nhân dân.
[1] Nghĩa là sau khi kết thúc việc thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 của Chính phủ.
[2] Xin nhắc lại để tham khảo: 1/ Ngay khi ra Nghị quyết 14-NQ/TW về CCGD, BCT khóa IV đã quyết định thành lập Uỷ ban CCGD của Trung ương Đảng và Chính phủ do đồng chí Phạm Văn Đồng làm chủ tịch. Uỷ ban có nhiệm vụ “Chuẩn bị dự luật cải cách giáo dục để trình Quốc hội” 2/ Điều 100 của Luật giáo dục 2005 quy định: “Chính phủ trình Quốc hội trước khi quyết định những chủ trương lớn có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ học tập của công dân trong phạm vi cả nước, những chủ trương về cải cách nội dung chương trình của một cấp học; …”
[3] Ngay như một nhà giáo dục nổi tiếng ở nước ta còn quan niệm: mỗi trường đại học là một thực thể riêng biệt, còn tất cả các trường phổ thông là một (!?)
[4] Theo tổng hợp của Phạm Khiêm ích trong lời giới thiệu bản tiếng Việt cuốn sách Thách đố của thế kỷ XXI Liên kết tri thức (Edgar Morin chủ biên), NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
[5] Ý kiến của nhóm chuyên gia trường đại học Harvard – Mỹ về giáo dục tại Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam ngày 25 – 1 – 2008.
[6] Các tác giả đề tài quan niệm, HTGD mở có các tính chất sau đây: a/ đủ sức cung ứng cơ hội học tập cho mọi thành viên trong xã hội, b/ dễ dàng về thủ tục nhập học, c/ bảo đảm cho mọi người có thể lựa chọn nội dung, hình thức học tập suốt đời thích hợp với nhu cầu, khả năng, điều kiện sống và làm việc của mình.