Từ Phát triển đến Dân chủ – Sự Biến đổi của châu Á Hiện đại (kỳ 5)

Tác giả: Dan Slater Joseph Wong

Việt dịch: Nguyễn Quang A

Nhà Xuất bản Princeton University Press, 2022

Ở lại trong Trò chơi Dân chủ

Ngay sau đó, Nhật Bản tổ chức một cuộc tổng tuyển cử khác cho Diet, mà đã giáng một đòn bất ngờ lên liên minh bảo thủ đương nhiệm. Cuộc bầu cử kết thúc là một cuộc đua tay-ba sít sao, với Đảng Tự do, Đảng Dân chủ mới được thành lập (đảng kế vị của Đảng Tiến bộ bảo thủ), và Đảng Xã hội mỗi đảng giành được chỉ hơn 26 phần trăm phiếu phổ thông. Đảng Xã hội đã tăng tỷ lệ phiếu của nó 8 phần trăm và tăng số ghế Diet của nó từ 96 lên 144, một sự tăng 48-ghế. Những người Xã hội kết thúc trở thành đảng lớn nhất trong Diet, với 31 phần trăm ghế lập pháp. Các đảng Tự do và Dân chủ mỗi đảng chiếm 28 phần trăm của cơ quan lập pháp.

Cuộc tổng tuyển cử 1947 đã đánh dấu một bước ngoặt gay go trong sự chuyển đổi sau chiến tranh sang nền dân chủ của Nhật Bản. Mặc dù hai đảng bảo thủ cùng nhau tiếp tục tạo thành một đa số của sự ủng hộ dân chúng về mặt phiếu bầu (53 phần trăm) và ghế Diet (56 phần trăm), Đảng Tự do đã không, Đảng Dân chủ cũng chẳng là đảng chi phối (lớn nhất) trong Diet vì chẳng đảng nào trong số chúng kiểm soát một đa số ghế, không giống sau cuộc bầu cử 1946. Thay vào đó, một đảng không-bảo thủ, Đảng Xã hội, kiểm soát một đa số ghế Diet, cho phép nó thành lập một chính phủ liên minh thiên tả. Trong một trong rất ít lần trong lịch sử bầu cử của châu Á kiến tạo-phát triển, cánh Tả đã thống nhất hơn cánh Hữu, chí ít trong một thời gian ngắn.

Sự đấu đá chính trị nội bộ giữa hai đảng bảo thủ đã không báo điềm tốt cho liên minh bảo thủ để phản đối một chính phủ do Đảng Xã hội-lãnh đạo. Nhiều người sợ rằng các chính trị gia bảo thủ có thể thậm chí đào ngũ khỏi trò chơi dân chủ, như một số đã đào ngũ khi trở nên khó khăn cho các chính phủ bảo thủ của các năm 1930. Nhiều người cũng lo rằng các cuộc bầu cử Diet 1947, do không có một kẻ thắng rõ ràng và với một đa số Đảng Xã hội, có thể dẫn đến sự bất ổn định chính trị. Thử nghiệm dân chủ Nhật rõ ràng đã ở trên nền dễ lung lay rồi.

Cuối cùng, các chính trị gia bảo thủ đã vẫn trung thành với nền dân chủ. Vì sao? Thứ nhất, liên minh do Đảng Xã hội-lãnh đạo đã mỏng manh và cuối cùng chết yểu. Những người Xã hội đã không thể thành lập một quan hệ đối tác ổn định với bất cứ đảng chính trị lớn khác nào. Sau một chút chậm trễ, Đảng Xã hội đã có khả năng quyến rũ phái tiến bộ của Đảng Dân chủ để hợp sức trong một liên minh. Tuy vậy, vào lúc đó đã là quá muộn. Liên minh chịu số phận bi đát ngay từ đầu. Thay cho một sự trình diễn về sự lãnh đạo quyết đoán của Đảng Xã hội, liên minh chắp vá của nó lại nêu bật tính xác đáng bền bỉ của các đảng bảo thủ và quyền lực chính trị mà chúng tiếp tục thi hành. Giống Golkar ở Indonesia (được khảo sát chi tiết trong chương 7), các đảng bảo thủ của Nhật Bản, mặc dù không còn là các đảng thống trị khác thường trong Diet nữa, tuy nhiên đã là “những kẻ dựng vua” trong việc quyết định số phận của chính phủ do Đảng xã hội-lãnh đạo.

Không có khả năng quản trị, chính phủ sụp đổ trong mùa thu 1948, chỉ vài tháng sau khi nó được thành lập. Lãnh tụ Đảng Tự do Shigeru Yoshida được chỉ định làm thủ tướng lâm thời, và ông đã triệu tập một cuộc bầu cử đột xuất cho Diet trong tháng Giêng 1949. Bằng việc ở lại trong trò chơi dân chủ, ngay cả sau sự thất bại bầu cử của họ trong 1947, những người bảo thủ đã có khả năng làm chủ mưu một cuộc bầu cử và cơ hội cho các chính trị gia bảo thủ để lấy lại sự lãnh đạo chính trị qua các phương tiện dân chủ. Việc vẫn trung thành với trò chơi dân chủ, bất chấp một thất bại ban đầu vào tay của Đảng Xã hội, đã mang lại kết quả tốt cho hai đảng bảo thủ chính của Nhật Bản. Như chúng tôi đã lập luận, nền dân chủ đã phục vụ các lợi ích chính trị bảo thủ.

Thật quan trọng, sự thống trị bảo thủ cũng phục vụ các lợi ích của các lực lượng Đồng Minh chiếm đóng. Vì các lý do địa-chính trị cũng như ý thức hệ, chính phủ Hoa Kỳ đã thích những người bảo thủ nắm quyền lực trong một Nhật Bản dân chủ, hơn là những người Xã hội thiên tả hay Cộng sản. Mối đe dọa cộng sản đang nổi lên trong khu vực đã thúc đẩy cái, mà những người Nhật gọi là chính sách “đảo-hướng” 1947 ở Washington. Với Chiến tranh Lạnh đang đến, Hoa Kỳ cần chính phủ Nhật bản trở nên vững chãi và kiên cường, và cho Nhật Bản trở thành một đồng minh và lá chắn đáng tin cậy đối với sự bành trướng cộng sản trong khu vực.23

“Đám đông Nhật Bản (Japan Crowd),” một nhóm lobby (vận động hành lang) phi chính thức tại Washington, bắt đầu thúc đẩy cho một kế hoạch cải cách dân chủ giảm-quy mô, vừa phải, và cuối cùng ít tham vọng hơn ở Nhật Bản. Các nhà vận động hành lang thân-Nhật Bản đã ưu tiên sự ổn định chính trị và kinh tế, và lo rằng chương trình nghị sự cải cách tham vọng của lực lượng chiếm đóng có thể gây bất ổn định và để Nhật Bản dễ bị tổn thương với sự thâm nhập cộng sản. Sự quan tâm tăng lên cho chính sách ngăn chặn cộng sản trong khu vực có nghĩa là chính phủ Hoa Kỳ và lãnh đạo chiếm đóng ở Nhật Bản đặt ít sự nhấn mạnh hơn lên tốc độ và phạm vi của cải cách chính trị dân chủ và thay vào đó ưu tiên sự ổn định chính trị và sự khôi phục kinh tế.

Với một sự thay đổi về chính sách Mỹ ở quê nhà, ban lãnh đạo chiếm đóng đã khuyến khích sự xây dựng lại lực lượng cảnh sát quốc gia ở Nhật Bản, thật đáng chú ý vì nó đã là lực lượng bị cấm chỉ vài năm trước. Hơn nữa, chính phủ Nhật bản bắt đầu cắt bớt những quyền của các công nhân được bảo vệ dưới hiến pháp, và với ít sự phản đối từ ban lãnh đạo lực lượng chiếm đóng. Phù hợp với chính sách Chiến tranh Lạnh của Mỹ, chẳng hạn, SCAP đã không can thiệp khi chính phủ bắt đầu trấn áp Đảng Cộng sản và những người ủng hộ của nó. Việc đánh bại Đảng Xã hội trong các cuộc bầu cử Diet trở thành một ưu tiên rõ ràng hơn của những người Mỹ sau 1947.

Sự xuất hiện của khung cảnh Chiến tranh Lạnh, chiến lược địa-chính trị của Hoa Kỳ trong khu vực, và cái gọi là chính sách đảo-hướng về mặt chính trị đã tăng cường những người bảo thủ ở Nhật Bản, đóng góp cho một sự sự hồi sinh bảo thủ ngay sau khi liên minh Xã hội sụp đổ trong 1948. Như Jennifer Miller diễn đạt, “những người Mỹ đã dựa vào—và đến lượt giúp trao quyền cho—các đảng dứt khoát cánh-hữu và bảo thủ, mà đã nhanh chóng nhận ra một sự hội tụ tăng lên với các tầm nhìn Mỹ.”24 Không thể có một tín hiệu rõ hơn và làm yên lòng hơn rằng việc duy trì hướng dân chủ được những người Mỹ ủng hộ là lựa chọn tốt nhất cho các đảng bảo thủ.25

Trong cuộc tổng tuyển cử1949, Đảng dân chủ Tự do (DLP), hỗn hợp mới của đảng Tự do bảo thủ và và các phái bảo thủ từ đảng Dân chủ, đã chi phối cuộc tranh đua. DLP giành được 44 phần trăm phiếu phổ thông và 58 phần trăm ghế Diet, một phần thưởng ghế 14 phần trăm và sự chênh lệch chiến thắng lớn nhất cho bất kể đảng chính trị nào trong thời kỳ sau chiến tranh. Lần đầu tiên trong thời kỳ sau chiến tranh, các cuộc bầu cử cũng đánh dấu rằng một đảng chính trị duy nhất đã kiểm soát một đa số ghế dứt khoát (và không chỉ một đa số thường) trong cơ quan lập pháp. Đảng Xã hội đã chịu một thất bại to lớn, giành được chỉ 13,5 phần trăm phiếu phổ thông và chỉ được 48 ghế Diet (hay 10 phần trăm), một sự mất 96 ghế từ năm 1947.

Sự hồi sinh của những người bảo thủ trong cuộc tổng tuyển cử 1949 và sự thống trị cuối cùng của họ hiển nhiên đã không chỉ là kết cục được ưa thích của các chính trị gia và các đảng bảo thủ của Nhật Bản. Nó cũng là kết cục được ưa thích của lực lượng chiếm đóng và chính phủ Hoa Kỳ. Được che chở dưới ô an ninh Mỹ, Nhật Bản—và một cách cụ thể các nhà lãnh đạo bảo thủ của nó—đã có được một nhà bảo trợ hùng mạnh ở Washington, xác nhận sự tự tin chiến thắng và sự tự tin ổn định của chính phủ DLP vào nền dân chủ. Hoa Kỳ đã muốn nền dân chủ có kết quả ở Nhật Bản và một cách cụ thể với các đồng minh bảo thủ của nó cầm tay lái.

Vì các lý do địa-chính trị tương tự, Hoa Kỳ đã có một lợi ích trong việc đảm bảo nền kinh tế mạnh sau chiến tranh của Nhật Bản. Một nền kinh tế Nhật bản được hồi sinh, định hướng-thị trường, được công nghiệp hóa, được hội nhập vào các thị trường thế giới, tạo ra một đối tác thương mại quan trọng và đồng minh kinh tế cho Hoa Kỳ. Hệt như nền dân chủ đã giúp bảo đảm cho Hoa Kỳ một đồng minh chính trị ở Nhật Bản, một Nhật Bản mạnh về kinh tế cũng bảo đảm một thành lũy hiệu quả chống lại sự bành trướng cộng sản.

Đảng DLP đã làm sống lại nhà nước kiến tạo-phát triển của Nhật Bản, và tốc độ tăng trưởng kinh tế đã tăng nhanh ngay sau đó. Vào cuối các năm 1950, năng suất công nghiệp tổng thể đã quay lại hầu như 80 phần trăm của các mức năng suất trước chiến tranh. Các ngành khai mỏ và chế tác, hai đầu tàu chính của nền kinh tế công nghiệp Nhật bản, được khôi phục ở các mức trước chiến tranh vào giữa các năm 1950. Chính phủ Nhật bản, thay vì đàn áp thẳng tay chống lại các hãng zaibatsu, đã tăng gấp đôi các tập đoàn thương mại trước chiến tranh mà GHQ chiếm đóng ban đầu đã thử tháo dỡ, để thúc đẩy sự tăng trưởng công nghiệp. Nhà nước kiến tạo-phát triển, được chính phủ do DLP-lãnh đạo làm sống lại, đã thành lập Bộ Thương mại Quốc tế và Công nghiệp (MITI) trong năm 1949, việc tăng cường năng lực quan liêu của nhà nước để thiết kế và thực hiện các chính sách công nghiệp có mục tiêu.

Chắc chắn, sự bảo trợ Mỹ đã đóng góp cho sự phục hồi kinh tế của Nhật Bản. Một cách cụ thể, thương mại và các chính kinh tế Mỹ đã làm lợi trực tiếp cho Nhật Bản. Chính sách đảo hướng 1947 đã buộc Hoa Kỳ để xóa các khoản bồi thường chiến tranh của Nhật Bản. Việc xóa các khoản bồi thường chiến tranh đã cho chính phủ Nhật bản một dịp may tài khóa khổng lồ và giải phóng các nguồn lực cho các khoản đầu tư do nhà nước-chỉ đạo vào nền kinh tế. Hơn nữa, với sự cổ vũ của các quan chức thương mại Mỹ, chính phủ Nhật bản đã thực hiện một tỷ giá hối đoái cố định và được định giá thấp trong 1949, mà đã làm tăng xuất khẩu Nhật bản, nhất là vào các thị trường Mỹ, một lợi thế thương mại mà nền kinh tế Nhật đã có được mãi đến các năm 1980.

Có lẽ lợi ích lớn nhất nền kinh tế Nhật bản đạt được—và do sự mở rộng chính phủ bảo thủ Nhật bản—qua sự bảo trợ Hoa Kỳ đã xảy ra với sự dính líu của nước Mỹ vào xung đột Chiến tranh Lạnh trên bán đảo Triều Tiên. Khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra trong 1950, nhu cầu Mỹ cho các hàng hóa công nghiệp do các nhà chế tạo Nhật cung cấp đã kích thích một sự bột phát kinh tế. Các khoản mua sắm Mỹ giữa 1951 và 1953 đã chiếm gần hai phần ba các mặt hàng xuất khẩu của Nhật Bản, khởi động chiến lược định hướng-xuất khẩu của Nhật Bản cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh. Sự kích thích thương mại do Chiến tranh Triều Tiên gây ra đã tăng tốc sự phục hồi kinh tế của Nhật Bản trong các năm 1950, mà đã phản ánh các ưu tiên địa-chính trị Mỹ và các lợi ích chính trị trong nước giữa những người bảo thủ cầm quyền ở Nhật Bản. Khi nền kinh tế Nhật tăng trưởng, cũng thế là sự ủng hộ cho sự lãnh đạo đảng bảo thủ, dựng sân khấu cho sự củng cố sự thống trị bảo thủ trong nền dân chủ hậu chiến của Nhật Bản.

Củng cố sự Thống trị Bảo thủ

Đảng Tự do, sự tái sinh của DLP được thành lập cho cuộc tổng tuyển cử 1949, đã lại dễ dàng thắng cuộc tổng tuyển cử 1952, kiểm soát 52 phần trăm ghế trong Diet. Đảng Xã hội, trong khi đó, bị vỡ ra từng mảnh sau thất bại thảm hại của nó trong cuộc tổng tuyển cử 1949 và đã tranh đua trong tổng tuyển cử 1952 như hai đảng chính trị tách biệt. Ngay cả khi kết hợp phiếu của hai Đảng Xã hội, các đảng cánh tả giành được chỉ 23 phần trăm phiếu phổ thông và 25 phần trăm ghế của cơ quan lập pháp, một sự phục hồi khá lớn từ cuộc bầu cử 1949 mặc dù vẫn kém xa DLP bảo thủ, đứng đầu.

Bất chấp vẻ bề ngoài của sự ổn định đảng phái, tuy vậy, thành phần đảng phái trong Diet đã báo trước một sự thay đổi trong đầu các năm 1950. Mặc dù hai đảng bảo thủ tiếp vẫn đã tục nắm tay lái chính trị, hệ thống đảng của Nhật Bản đang bị lung lay. Sự phân mảng trong Đảng Tự do và phe bảo thủ nói chung đã làm mất dần sự thống trị bầu cử của chúng. Các Đảng Xã hội bên tả, trong khi đó, đưa ra một lời cáo buộc khác tại các thùng phiếu. Cuộc tổng tuyển cử 1953 đã đặc biệt gây lo lắng cho các đảng bảo thủ, khi Đảng Tự do, dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Yoshida, đã mất 40 ghế Diet, trong khi hai Đảng Xã hội đạt được thêm 22 ghế. Đảng Tự do tiếp tục là đảng thống trị duy nhất trong Diet, như đảng lớn nhất duy nhất trong cơ quan lập pháp sau năm 1953, mặc dù sự nắm quyền lực của nó đã dứt khoát bị nới lỏng.

Trong cuộc bầu cử 1955 bước ngoặt, Đảng Tự cầm quyền được chỉ 27 phần trăm phiếu phổ thông, giảm từ 40 phần trăm trong 1953, giành được chỉ 114 ghế Diet. Trong khi đó, Đảng Dân chủ, đảng bảo thủ khác có nguồn gốc của nó trong thời Taisho và đã tái xuất hiện chỉ trước cuộc bầu cử 1955, giành được 37 phần trăm phiếu phổ thông và 185 ghế lập pháp. Hai Đảng Xã hội, trên đầu kia của phổ chính trị, giành được tổng cộng 29 phần trăm phiếu và 156 ghế lập pháp, hay khoảng một phần ba Diet.

Trong 1955 hệ thống đảng chính trị của Nhật Bản có bốn đảng chính: hai Đảng Xã hội và các đảng Tự do và Dân chủ bảo thủ. Chẳng đảng nào trong bốn đảng đã thống trị về mặt bầu cử. Một diễn giải về cuộc bầu cử 1955 và hệ thống bốn-đảng nảy sinh đã báo trước một sự đổ vỡ đảng phái quan trọng trong nền chính trị dân chủ của Nhật Bản, có lẽ tới hệ thống đảng bất ổn định hơn. Tuy vậy, một diễn giải khác đã thấy các điều kiện cho sự tái liên kết đảng phái. Lịch sử cho thấy sự diễn giải sau là đúng.26

Cuộc tổng tuyển cử 1955 thực sự đã củng cố hệ thống đảng ở Nhật Bản. Bất chấp sự phân mảnh đảng phái cả ở bên tả và bên hữu, tuyệt đại đa số cử tri Nhật bản đã bỏ phiếu của họ cho hai đảng bảo thủ trong năm 1955. Hai đảng bảo thủ lớn, Đảng Tự do và Đảng Dân chủ, đã chiếm 64 phần trăm ghế trong cơ quan lập pháp, còn phe xã hội kiểm soát 33 phần trăm của Quốc hội. Ngay sau cuộc tổng tuyển cử 1955, hai Đảng Xã hội hợp nhất để hình thành một Đảng Xã hội Nhật Bản (JSP) duy nhất. Sự thành lập JSP, đến lượt, đã thúc đẩy sự hợp nhất của hai đảng bảo thủ để hình thành Đảng Dân chủ Tự do (LDP). Được biết đến như “Hệ thống1955,” sự tái liên kết đảng phái nhanh chóng sau cuộc tổng tuyển cử đã dẫn đến một hệ thống lưỡng-đảng (hai-đảng) gồm có JSP ở bên tả đối lại LDP bảo thủ. Sự tái liên kết 1955 cũng đã dẫn đến một hệ thống đảng-thống trị, trong đó LDP kiểm soát một đa số oai vệ trong Diet và sẽ tiếp tục duy trì sự kiểm soát chính phủ trong gần bốn thập niên đến tận các năm 1990. LDP bắt đầu củng cố sự thống trị bảo thủ của nó trong nền dân chủ.

Sau 1955, đảng LDP cầm quyền đảm nhiệm sự lãnh đạo bộ máy nhà nước kiến tạo-phát triển của Nhật Bản. Kiểm soát gần hai phần ba Diet, LDP chủ trì một cơ quan lập pháp hiệu quả, không bị sự cãi lộn về các ưu tiên và hướng chính sách kinh tế. Để tăng cường năng lực hoạch định chính sách, đảng LDP đã tạo ra Hội đồng Nghiên cứu các Vấn đề Chính sách, mà đã phát triển tài chuyên môn chính sách nội địa của đảng và đã cho phép đảng LDP để đóng một vai trò lãnh đạo sát cạnh và nối đuôi nhau với bộ máy quan liêu nhà nước kiến tạo-phát triển. Phản chiếu nhà nước kiến tạo-phát triển, hội đồng đã tuyển các nhà kỹ trị giỏi nhất và sáng giá nhất để hướng dẫn chính sách chính phủ, thường tuyển mộ từ bộ máy quan liêu theo chế độ nhân tài.

Chính phủ LDP cũng cộng tác mật thiết với các nhà công nghiệp Nhật bản. Trong một tục lệ được biết đến như amakudari, các quan chức chính phủ và đảng đã về hưu chiếm các vai trò lãnh đạo trong các hãng công nghiệp chủ chốt. Như Chalmers Johnson chứng minh bằng tư liệu trong tờ MITI and the Japanese Miracle (MITI và Phép Màu Nhật bản), các thứ trưởng đã về hưu hùng mạnh trong bộ máy quan liêu nhà nước kiến tạo-phát triển được bổ nhiệm làm các phó chủ tịch, chủ tịch, và chủ tịch hội đồng quản trị trong các hãng zaibatsu của Nhật Bản.27 Sự luân chuyển các elite giữa đảng LDP, bộ máy quan liêu nhà nước kiến tạo-phát triển, và các công ty công nghiệp hàng đầu ở Nhật Bản đã tạo ra một liên minh kiến tạo-phát triển rất khăng khít.

Nhà nước kiến tạo-phát triển do đảng LDP-lãnh đạo đã tăng tốc sự phục hồi và sự phát triển kinh tế của Nhật Bản sau 1955. Các ngành cơ sở hạ tầng và công nghiệp nặng của Nhật Bản được LDP nhắm mục tiêu, phân bổ tuyệt đại đa số đầu tư chính phủ để phát triển các ngành điện năng, đóng tàu, than đá, và thép. Các khoản đầu tư đã mang lại kết quả nhanh chóng. Giữa năm 1955 và 1965, sản lượng thép chế tác của Nhật Bản đã tăng hơn bốn lần, mà đến lượt đã hỗ trợ sự phát triển của các khu vực cơ sở hạ tầng và công nghiệp nặng khác. Nhờ những trợ cấp chính phủ, những khoản đầu tư có mục tiêu, và các chính sách công nghiệp chiến lược, nhà nước kiến tạo-phát triển đã nuôi dưỡng sự củng cố các hãng zaibatsu hàng đầu của Nhật Bản, nhất là trong các khu vực chế tạo thâm dụng-lao động, định hướng-xuất khẩu.

Tổng thể, các ngành chế tác của Nhật Bản đã tăng sản lượng của chúng gần bốn lần trong thập niên sau khi LDP nắm quyền. Sự tăng trưởng kinh tế trung bình tại Nhật Bản đã là hơn 9 phần trăm hàng năm giữa năm 1955 và 1965. Phần lớn của sự phát triển kinh tế của nó đã là do sự hội nhập của Nhật Bản vào các thị trường quốc tế, như chính phủ LDP đã khuyến khích một chiến lược tăng trưởng do xuất khẩu-dẫn dắt. Ban đầu được Chiến tranh Triều Tiên khởi động, giá trị xuất khẩu của Nhật Bản đã tăng mười lần giữa 1950 và 1965. Trong 1965 Nhật Bản thông báo một thặng dư thương mại và cán cân thanh toán dương, một thành tựu đáng chú ý xét đến tình trạng của nền kinh tế Nhật bản ngay sau Chiến Tranh Thế giới II. Các nền kinh tế tăng trưởng nhanh khác trong khu vực, nhất là Đài Loan và Hàn Quốc, chấp nhận các chiến lược phát triển của LDP, kể cả một sự thúc đẩy công nghiệp hóa định hướng-xuất khẩu.

Vào các năm 1960, Nhật Bản đã tái xuất hiện như một trung tâm sức mạnh kinh tế, một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới và một mô hình được mô phỏng trong khu vực Á châu. Đảng LDP được công trạng vì sự quản lý nền kinh tế và sự lãnh đạo nhà nước kiến tạo-phát triển của Nhật Bản. Không ngạc nhiên, các công dân Nhật, được hưởng lợi từ sự phục hồi kinh tế, đã luôn luôn thưởng cho đảng cầm quyền đương nhiệm tại các cuộc bầu cử. LDP đã tăng sự thống trị chính trị của nó suốt hai thập niên đầu tiên của nó như đảng cầm quyền của Nhật Bản, giành được các đa số lập pháp oai vệ trong mỗi cuộc bầu cử cho đến 1976.

Bên cạnh việc phát triển doanh nghiệp lớn và việc nhắm mục tiêu các khu vực công nghiệp chủ chốt để tăng trưởng, chính phủ LDP ưu tiên sự tăng trưởng nhanh với tính công bằng.28 Chiến lược có chủ ý này do LDP áp dụng đã mở rộng và củng cố một cơ sở ủng hộ rộng của cử tri. Bất chấp nguồn gốc bảo thủ của nó, đảng cầm quyền nhận ra nó cần là một đảng “bao quát (catch-all)” nếu nó phải tiếp tục ngăn chặn Đảng Xã hội đối lập. Bằng việc hợp nhất các sáng kiến chính sách phúc lợi xã hội, đảng bảo thủ dẫn đầu đã cắt sự ủng hộ cử tri mà lẽ ra đã thuộc về các đảng chính trị thiên tả.

Đảng cầm quyền đã thành công tăng sự hấp dẫn của nó vượt ra ngoài các cử tri bảo thủ truyền thống của nó. LDP vẫn là một đảng chính trị cho các doanh nghiệp lớn, nhưng không hoàn toàn. Chẳng hạn, các nông dân ở các vùng nông thôn tạo thành một khối cử tri then chốt cho LDP và các đảng tiền bối bảo thủ của nó. Ngay từ đầu thời kỳ chiếm đóng, chính phủ bảo thủ lâm thời đã thực hiện cải cách đất đai, giống với Đài Loan và Hàn Quốc sau chiến tranh. Cải cách đất đai và sự phá vỡ sự kiểm soát địa chủ đối với đất phát canh đã khuyến khích sự phát triển các hoạt động canh tác quy mô nhỏ hơn. Suốt các năm 1950 và các năm 1960 dân chủ, LDP đã phân phát ngày càng nhiều trợ cấp nông nghiệp cho các nông dân, một chiến lược thô nhưng hiệu quả về phân chia rổ thịt chính trị (political pork, hay pork barrel-chi tiêu chính phủ để lấy lòng dân trong khu vực nào đó) nhắm tới việc giành được phiếu nông thôn. Trong khi đó tại các thành phố, chính phủ LDP cung cấp các trợ cấp và tín dụng tương tự cho các chủ doanh nghiệp và các nhà kinh doanh để khuyến khích sự tăng trưởng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Chính phủ LDP đã thực hiện Kế hoạch Ikeda trong 1960, được đặt tên theo thủ tướng–khi đó Hayato Ikeda. Sự tăng trưởng với tính công bằng đã là trung tâm cho Kế hoạch Ikeda, và một cách cụ thể chương trình “tăng gấp đôi-thu nhập” cho các công nhân đô thị. Thông qua các chính kinh tế có mục tiêu để thúc đẩy sự tăng trưởng công nghiệp và sự đa dạng hóa ngành, kế hoạch tăng gấp đôi-thu nhập dựa vào một chiến lược công ăn việc làm đầy đủ để giảm nghèo, một chiến lược được kích thích bởi một nền kinh tế quốc tế tăng trưởng và các dàn xếp thương mại thuận lợi với các nước nhập khẩu như Hoa Kỳ. Bằng việc nuôi dưỡng khu vực công nghiệp định hướng-xuất khẩu, nền kinh tế Nhật bản đã tăng quy mô thị trường lao động và đã tạo ra các việc làm công nghiệp có lương cao.

Trong một cố gắng thậm chí có tính toán hơn để mở rộng cơ sở cử tri của nó, đảng LDP đã ban hành một loạt chương trình phúc lợi xã hội được chính phủ hỗ trợ trong các năm 1960 và các năm 1970. Nhật Bản đã là nền kinh tế không-xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở châu Á kiến tạo-phát triển để thực hiện các sơ đồ bảo hiểm-xã hội phổ quát cho sức khỏe, việc làm, và an ninh thu nhập tuổi già. Đài Loan và Hàn Quốc đã sao chép mô hình chính sách phúc lợi xã hội Nhật bản mấy thập niên muộn hơn, một khi chúng trở thành các nền dân chủ trong các năm 1980 và các năm 1990. Các đảng tbảo thủ hống trị, như Quốc Dân Đảng (QDĐ) ở Đài Loan, cuối cùng dẫn đường vào cải cách chính sách xã hội, không phải không giống đảng LDP ở Nhật Bản.29

Các kết quả kinh tế và chính trị từ chiến lược tăng trưởng-với-tính công bằng đã hóa ra là to lớn cho LDP. Sự phát triển do nhà nước-lãnh đạo đã công bố các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bất thường cùng với một phân bổ thu nhập công bằng. Hệ số Gini của Nhật Bản trong thời kỳ tăng trưởng-cao của các năm 1960 và các năm 1970 đã phù hợp với các mức thu nhập quân bình chủ nghĩa tại các nhà nước phúc lợi bắc Âu. Về mặt chính trị, chiến lược tăng trưởng công bằng đã mở rộng sự hấp dẫn của LDP, giành được sự ủng hộ cử tri cho đảng từ các cử tri bảo thủ truyền thống, cũng như những người mà khác đi có lẽ đã bỏ phiếu cho các đảng bên tả như Đảng Xã hội bị bao vây sau 1955. Sự tăng trưởng với tính công bằng đã củng cố sự thống trị bầu cử của LDP ở Nhật Bản dân chủ, mà đã kéo dài gần bốn thập niên mà không có sự gián đoạn. Giữa 1955 và 1993, LDP đã thành lập mọi chính phủ được bàu, với các đa số tuyệt đối trong Diet hay như đối tác hàng đầu trong một chính phủ liên minh được bàu trong nền dân chủ lớn nhất, ổn định nhất, và giàu nhất của của châu Á kiến tạo-phát triển.

Cẩm nang Nhật bản

Một mục tiêu của chương này là để thêm và xét lại, không phải gạt bỏ, sự hiểu biết thông thường về chuyển đổi dân chủ sau chiến tranh của Nhật Bản, và một cách cụ thể vai trò quyết định đặc biệt mà sự chiếm đóng Mỹ đã đóng trong sự biến đổi này. Cuộc chiếm đóng đã là quyết định cho sự chuyển đổi dân chủ ở Nhật Bản. Sự loại bỏ quân đội, chẳng hạn, đã là cần thiết cho các đảng để được tái sinh và thịnh vượng một lần nữa. Rằng Nhật Bản đã chấp nhận một hiến pháp do các chuyên gia Mỹ soạn thảo là bằng chứng thêm về ảnh hưởng của nước Mỹ trong dân chủ hóa của Nhật Bản. Áp lực chính trị của lực lượng chiếm đóng đã quan trọng cho việc đảm bảo sự chấp nhận hiến pháp của Nhật Bản.

Tuy vậy, đó cũng không phải là câu chuyện đầy đủ. Trong chương này, chúng tôi đã cho thấy làm thế nào Nhật Bản hậu chiến, một quốc gia bị đánh bại, đã không phải là một tabula rasa (bảng trống, tờ giấy trắng) mà trên đó một tầm nhìn Mỹ về nền dân chủ có thể được in dấu vào và áp đặt một cách dễ dàng. Chuyển đổi dân chủ của Nhật Bản đã không là kết quả của một sự kiện riêng rẽ, duy nhất, như sự thiết lập sự chiếm đóng Mỹ, mà đúng hơn là một loạt các sự kiện được kết nối và các sự liên tục từ trước và sau chiến tranh.

Ngược với hiểu biết thông thường rằng nền dân chủ được đưa vào de novo (mới từ đầu) và in toto (hoàn toàn) sau sự đầu hàng của Nhật Bản trong 1945, thay vào đó chúng tôi cho rằng có một sợi chỉ dân chủ đã xuất hiện ở Nhật Bản trong thế kỷ thứ mười chín và sợi chỉ đó đã chật vật chuyển từ từ qua các thời kỳ khác nhau trong sự phát triển hiện đại của Nhật Bản, cuối cùng đóng góp cho dân chủ qua sức mạnh. Như sẽ xảy ra ở nơi khác trong châu Á kiến tạo-phát triển trong các thập niên tới, dân chủ qua sức mạnh ở Nhật Bản đã là một quá trình kéo dài của sự thử nghiệm có thể bị đảo ngược. Chỉ khi chúng ta nhận ra tầm quan trọng của sức mạnh bảo thủ trong việc ổn định hóa nền dân chủ thì chúng ta mới có thể hiểu đầy đủ nền dân chủ hậu chiến của Nhật Bản đã sống qua được Chiến tranh Lạnh và kéo dài cho đến hiện tại như thế nào, và vì sao thử nghiệm dân chủ có thể bị đảo ngược của nó thực ra đã chẳng bao giờ bị đảo ngược.

Như chúng tôi kể lại trong chương này, một bộ máy quan liêu hiện đại và có khả năng đã xuất hiện ở Nhật Bản Minh trị. Nhà nước kiến tạo-phát triển đã vẫn nguyên vẹn qua thời kỳ sau chiến tranh và đã cho phép ban lãnh đạo chính trị bảo thủ để làm sống lại nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá của Nhật Bản. Cũng vậy, các di sản của nền dân chủ thời-Taisho của các năm 1920 đã tỏ ra là cốt yếu cho chuyển đổi dân chủ sau chiến tranh. Nền dân chủ Taisho không chỉ đã đưa các đảng chính trị vào như một định chế dân chủ quan trọng; nó cũng đã tạo ra một nền tảng cho các chính phủ do đảng-lãnh đạo, sự tranh cãi chính trị, và sự luân phiên quyền lực. Nó cũng sinh ra một đội ngũ lớn của các chính trị gia bảo thủ, mà là những người theo chủ nghĩa quân chủ truyền thống nhưng tuy nhiên cũng là những người ủng hộ chính phủ đại diện. Mặc dù chế độ phát xít của các năm 1930 đã gạt sang bên lề và cuối cùng đã đánh bại các ý tưởng và thực hành dân chủ chớm nở này, chúng đã được hồi sinh, không phải được sáng chế ra de novo (lại một lần nữa), ở Nhật Bản sau chiến tranh.

Các sự liên tục—hơn là các sự gián đoạn—trong bộ máy quan liêu nhà nước, các đảng, và sự chuyển qua các chính trị gia bảo thủ sau chiến tranh đã cung cấp sức mạnh và sự tự tin có trước (antecedent) cho các chính trị gia Nhật để chấp nhận hiến pháp dân chủ trong 1946, để trẻ hóa nhà nước kiến tạo-phát triển và tăng tốc sự phục hồi kinh tế của Nhật Bản ngay sau đó, và để củng cố hệ thống đảng dân chủ. Trong khi Nhật Bản như một nước đã yếu sau sự tàn phá của chiến tranh, ban lãnh đạo chính trị, bộ máy quan liêu nhà nước, và các đảng chính trị, bị chiến tranh khiến cho tập tễnh và loại ra ngoài, đã không yếu. Bất chấp thời kỳ phát xít của các năm 1930, các nguồn sức mạnh có trước này đã kéo dài. Chúng cung cấp sự tự tin chiến thắng và ổn định cho các chính trị gia đương nhiệm sau chiến tranh, những người đã thừa nhận dân chủ, không như một hành động thất bại mà với sự kỳ vọng về sự ổn định và chiến thắng bầu cử tương lai.

Như chúng tôi đã gợi ý trong chương này, kinh nghiệm dân chủ hóa dần dần từ 1946 đến 1955 của Nhật Bản có thể được hình dung như một thời gian của sự thử nghiệm có thể đảo ngược. Chế độ của Nhật Bản trong các năm đó đã giống các chế độ “độc đoán bầu cử” mà đã theo đuổi tự do hóa bầu cử từ từ trong các trường hợp như Thái Lan và Đài Loan, các ví dụ Á châu chủ chốt khác về thử nghiệm dân chủ có thể đảo ngược được. Thành công hay thất bại của các thử nghiệm có thể đảo ngược như vậy phụ thuộc, tuy vậy, vào chiến thắng tiếp tục và sự tự tin ổn định của các đảng bảo thủ và các elite đồng minh của chúng. Ở Nhật Bản, các lý do cho sự tự tin như vậy tỏ ra phong phú vào giữa-các năm 1950.

Mặc dù những người Mỹ đã đóng một vai trò hàng đầu trong việc khởi xướng thử nghiệm dân chủ có thể đảo ngược này trong các năm 1940, chính những tính toán và thành công được tích lũy của những người bảo thủ Nhật là cốt yếu nhất cho sự hoàn thành dân chủ hóa của Nhật Bản trong các năm 1950. Sự chiếm đóng Mỹ là quan trọng, mặc dù tự nó đã không có tính quyết định, trong việc xác định số phận dân chủ của Nhật Bản; rốt cuộc, như chúng tôi cho thấy trong các chương tiếp theo của cuốn sách này, nhiều thử nghiệm dân chủ khác được Mỹ-ủng hộ đã thất bại.

Phân tích của chúng tôi đưa ra những sự thấu hiểu mới vào một câu đố bị đánh giá thấp: vì sao nhà nước quan liêu Nhật bản đã chẳng bao giờ sa vào sự cai trị quan liêu độc đoán trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Trường hợp Nhật không phải là ví dụ hay nhất về dân chủ qua sức mạnh; ví dụ hay nhất về điều đó là QDĐ ở Đài Loan. Nhưng như nền dân chủ đầu tiên hình thành ở châu Á kiến tạo-phát triển, trường hợp Nhật cung cấp những sự thấu hiểu thực nghiệm và lý thuyết quan trọng vào phần còn lại của châu Á kiến tạo-phát triển dân chủ cuối cùng đã xuất hiện như thế nào.

Tại châu Á kiến tạo-phát triển dân chủ, chúng tôi nhận thấy rằng các đảng độc đoán mạnh thừa nhận dân chủ không phải để thừa nhận thất bại mà để bảo tồn sự nắm quyền lực chính trị của chúng, và có khả năng củng cố sự thống trị bền bỉ của chúng trong nền dân chủ. Chúng chọn nền dân chủ khi chúng tự tin rằng các sức mạnh trước đó được kế thừa cho chúng một lợi thế hơn đối lập và rằng sự ổn định sẽ kéo dài. Kinh nghiệm Nhật cũng ủng hộ quan niệm rằng nền dân chủ và sự phát triển có thể sóng đôi, và rằng các thử nghiệm dân chủ thành công và lâu bền có thể tăng cường các triển vọng phát triển của một quốc gia trong dài hạn.

Như phần còn lại của các chương và những nghiên cứu trường hợp lộ ra trong cuốn sách này, chúng ta sẽ thấy những kinh nghiệm của các nước dân chủ hóa muộn khác trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển phản chiếu trường hợp Nhật bản. Những sự giống nhau trong quá trình phát triển và nền dân chủ ở Nhật Bản với các nước dân chủ hóa khác muộn hơn trong khu vực là nổi bật. Những sự giống nhau như vậy, chúng tôi cho rằng, là không ngẫu nhiên: chúng tụ thành cụm.

4. Đài Loan

TẤM GƯƠNG VỀ DÂN CHỦ QUA SỨC MẠNH

NẾU NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH là trường hợp đầu tiên của dân chủ qua sức mạnh ở châu Á kiến tạo-phát triển, Đài Loan là trường hợp mẫu mực. Trong khi elite bảo thủ ở Nhật Bản đã có một cơ hội để trỗi dậy từ đống đổ nát và tro tàn của Chiến Tranh Thế giới II, Quốc Dân Đảng (QDĐ) ở Đài Loan đã khởi đầu cải cách dân chủ từ một thế mạnh bền bỉ.

Đài Loan đã dưới sự cai trị độc đoán của QDĐ trong gần bốn mươi năm khi các nhà hoạt động đối lập tuyên bố sự hình thành của một đảng chính trị mới, Đảng Dân chủ Tiến Bộ (DPP), trong năm 1986. Đài Loan lúc đó ở dưới quân luật. QDĐ đã cai trị hòn đảo với một bàn tay sắt và đã cấm sự hình thành các đảng đối lập. DPP như thế được thành lập một cách bất hợp pháp và bất chấp chế độ độc đoán. Hầu hết mọi người kỳ vọng QDĐ nghiền nát đảng đối lập mới; rốt cuộc, đó là chuyện các chế độ độc đoán thường làm.

Thay vào đó, điều bất ngờ đã xảy ra. Tổng thống Tưởng Kinh Quốc, lãnh tụ của QDĐ, đã quyết định cho phép sự hình thành đảng đối lập. Một năm sau, trong 1987, chế độ bãi bỏ quân luật, bắt đầu mở vũ đài chính trị cho nhiều sự huy động đối lập hơn, và thu nhỏ hầu hết các bộ phận đàn áp của nhà nước độc đoán. Các ứng viên đối lập được tranh đua một số hạn chế ghế lập pháp trong 1989. Các biểu ngữ đảng khác với biểu ngữ của QDĐ được cho phép lần đầu tiên. Ba năm sau đó Đài Loan tổ chức các cuộc bầu cử lập pháp hoàn toàn tự do đầu tiên của nó trong 1992, và nó tổ chức cuộc bầu cử tổng thống cạnh tranh đầu tiên trong 1996 có các ứng viên từ QDĐ và DPP. Chuỗi thừa nhận chính trị, bắt đầu với quyết định ban đầu của Tưởng để không trấn áp DPP trong 1986, khởi đầu một chuỗi sự kiện chính trị rốt cuộc đã dẫn đến chuyển đổi dân chủ của Đài Loan.

Điều đặc biệt về trường hợp Đài Loan—và vì sao nó là trường hợp mẫu mực của chúng ta về dân chủ qua sức mạnh—là QDĐ, khi nó khởi đầu quá trình dân chủ hóa trong cuối các năm 1980, đã vẫn là một đảng chính trị rất mạnh. Nó đã không phải là một đảng bị khủng hoảng trong 1986, Đài Loan cũng đã chẳng trên bờ vực sụp đổ về mặt kinh tế hay chính trị.

Nền kinh tế Đài loan đã mạnh, với không dấu hiệu chậm lại nào. Đài Loan đã trải qua vài thập niên tăng trưởng kinh tế bền vững với QDĐ cầm lái nhà nước kiến tạo-phát triển. Chế độ cũng đã ổn định về chính trị trong các năm 1980. Các cuộc biểu tình nổ ra thi thoảng, nhưng chẳng có gì chế độ QDĐ đã không thể xử lý, hoặc qua sự đàn áp do nhà nước-tài trợ hay bằng các sự thưởng-phạt kinh tế chọn lọc. Đối lập tangwai (黨外đảng ngoại, ngoài đảng) mà đã xuất hiện trong đầu các năm 1980, tiền thân của DPP đối lập, về thực chất đã là một phong trào elite chính trị gồm các chính trị gia địa phương và các trí thức bất đồng chính kiến, không phải một phong trào cách mạng có cơ sở quần chúng như chúng ta thường thấy thách thức các chế độ độc đoán khác.

Hơn nữa, các cuộc bầu cử hạn chế trong các năm 1970 và 1980, mà các ứng viên độc lập, không-QDĐ tranh đua, đã cho thấy một cách nhất quán số người đi bàu lành mạnh và sự ủng hộ dân chúng cho đảng cầm quyền. Mặc dù sự ủng hộ cử tri cho QDĐ đã giảm dần trong hai thập niên đó, QDĐ vẫn giành được 67 phần trăm phiếu phổ thông trong cuộc bầu cử 1986, duy trì sự kiểm soát cao, hầu như không thể bác bỏ được của đảng cầm quyền đối với chính phủ. Nói cách khác, khi chế độ cầm quyền bắt đầu tự do hóa và cuối cùng dân chủ hóa hệ thống chính trị trong cuối các năm 1980, QDĐ hầu như không phải là một đảng trong vòng xoáy tử thần báo trước sự sụp đổ sắp tới của nó. Thay vào đó, QDĐ, bất chấp sự giảm dần về sự ủng hộ cử tri của nó, đã vẫn là một đảng rất mạnh và lực lượng duy nhất, thống trị trong nền chính trị Đài loan.

Vì thế câu hỏi hóc búa là: Nếu nền dân chủ không bị áp đặt lên chế độ QDĐ trong các năm 1980, và quả thực nó đã vẫn là một đảng hùng mạnh, ổn định, định hướng kiến tạo-phát triển, thì vì sao nó đã thừa nhận dân chủ, và vì sao lúc đó? Diễn đạt theo cách khác, vì sao QDĐ lại thừa nhận dân chủ khi nó không phải làm vậy, khi sự sụp đổ chế độ đã thậm chí không ở trên đường chân trời có thể tưởng tượng được? Chúng tôi cho rằng QDĐ thừa nhận để lao vào con đường dân chủ một phần bởi vì nó vẫn là một đảng chính trị mạnh, tự tin đến mức các sức mạnh đương nhiệm và các cơ sở của sự ủng hộ chính trị lúc đó sẽ hầu như bảo đảm sự thống trị của nó trong ngắn hạn và sự sống sót của đảng trong nền dân chủ trong dài hạn. Các tín hiệu chế độ nhận được rằng quyền lực độc đoán của nó đang giảm đã làm yên lòng như chúng báo điềm gở, bởi vì sự tiếp tục hấp dẫn cử tri đã hầu như không thể thắng nổi. Nói đơn giản, nó đã không thừa nhận dân chủ để ra đi hay để từ bỏ quyền lực, mà đúng hơn để phục hồi sự nắm giữ quyền lực của nó bằng phương tiện dân chủ—mà nó đã làm khá dễ dàng suốt các năm 1990.

Phần còn lại của chương này kể câu chuyện về nền chính trị và sự phát triển kinh tế của Đài Loan trong thời kỳ sau chiến tranh, dẫn đến quyết định trọng đại của QDĐ để thừa nhận dân chủ qua sức mạnh. Hơn bất cứ chương nào khác trong cuốn sách này, nó kể lại lịch sử này từ quan điểm của một đảng cầm quyền duy nhất đã hướng dẫn quá trình dân chủ hóa. Như chúng ta đã thấy trong trường hợp Nhật Bản, một bộ máy quan liêu kiến tạo-phát triển hùng mạnh có thể đóng một vai trò ổn định hóa trong dân chủ hóa ngay cả trước khi một đảng mạnh thiết lập sự thống trị của nó. Theo cách này, bộ máy nhà nước quan liêu kiến tạo-phát triển cũng đã hết sức quan trọng trong câu chuyện chuyển đổi dân chủ của Đài Loan, mặc dù sân khấu trung tâm đã chủ yếu thuộc về QDĐ. Vì thế, để hiểu nền chính trị và sự phát triển kinh tế của Đài Loan có nghĩa là hiểu QDĐ trên mọi thứ khác.

Câu chuyện của chúng ta bắt đầu với nguồn gốc của Quốc dân Đảng ở Trung Quốc và làm thế nào QDĐ đã thành công tái tạo chính mình ở Đài Loan sau khi bị những người cộng sản Trung Quốc đánh bại trong các năm 1940. Sau đó, QDĐ bắt đầu một quá trình có chủ ý để xây dựng-đảng và xây dựng-nhà nước ở Đài Loan, sắp đặt phép màu kinh tế của Đài Loan và nuôi dưỡng sự ổn định chính trị đáng chú ý, đồng thời giành được cơ sở rộng của sự ủng hộ chính trị và kinh tế cho đảng cầm quyền như một chế độ độc đoán. Chúng tôi cũng kể về làm thế nào những thành tựu phát triển của chế độ đã gieo những hạt giống của một xã hội Đài loan đòi hỏi khắt khe hơn, và làm sao QDĐ cuối cũng đã chọn một con đường dân chủ để quản trị nó—không phải bởi vì QDĐ là một đảng bị khủng hoảng, mà thay vào đó để ngăn chặn những kẻ thách thức bá chủ của nó trong tương lai và để củng cố lại quyền lực của nó bằng việc giành lại sự ủng hộ qua các cuộc bầu cử dân chủ. Chúng tôi giải thích làm cách nào Đài Loan đã biến đổi từ một “chế độ độc tài độc-đảng thành một hệ thống đảng thống trị” trong đó QDĐ vẫn là quyền lực tối thượng của Đài Loan, ngay cả khi hệ thống chính trị dứt khoát chuyển từ chủ nghĩa độc đoán sang nền dân chủ.1

Nguồn gốc và sự Lưu vong của QDĐ

Trước đầu thế kỷ thứ hai mươi, Trung Quốc đã bị các chế độ triều đại kế tiếp nhau cai trị, triều đại cuối là triều đại nhà Thanh. Các phong trào chống-Thanh nổi lên trong cuối thế kỷ thứ mười chín, lên đỉnh điểm trong sự thoái vị của hoàng đế trong 1912 và sự kết thúc của triều đại cuối cùng; thế chỗ nó, các lực lượng cộng hòa Trung quốc thành lập một chính phủ lâm thời.

QDĐ, mà chính thức được thành lập trong năm 1912, có nguồn gốc của nó trong các phong trào chống-Thanh và sớm nắm quyền kiểm soát. Tuy nhiên QDĐ ban đầu đã không phải là một đảng chính trị mạnh, ngay cả sau khi nó thành lập chính phủ trong năm 1928. Ngay sau sự sụp đổ của nhà Thanh, Trung Quốc đã không thống nhất, và QDĐ đã phải đánh vài trận chiến với những lãnh chúa vùng trong một cố gắng thất bại để củng cố nhà nước-quốc gia Trung quốc. QDĐ đã không có được sự ủng hộ rộng rãi và nội bộ đảng thối nát và đầy các xung đột bè phái. Như một kết quả, bất chấp thiện ý chống-Thanh của nó và lời xác nhận của nó để là nhà cai trị có tính chính danh của Trung Hoa Dân Quốc (Cộng hòa Trung Hoa-ROC) mới sinh, nó đã không có khả năng để thống nhất và mang lại sự ổn định cho Trung Quốc hiện đại.

Sự bất lực của QDĐ để quản trị Trung Quốc đã mở cửa cho sự lên của Đảng Cộng sản Trung quốc (ĐCSTQ), do Mao Trạch Đông lãnh đạo. Được thành lập ở Thượng Hải trong 1921, ĐCSTQ đã huy động sự ủng hộ ở nông thôn, tập hợp các nông dân xung quanh tầm nhìn về chủ nghĩa xã hội nông nghiệp và một Trung Quốc kiên cường, dân tộc chủ nghĩa có thể đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc nước ngoài. Những người cộng sản Trung Quốc, dưới sự lãnh đạo có sức thuyết phục của Mao, đã chống lại chủ nghĩa đế quốc Nhật bản trong các năm 1930. Quân đội nông dân của Mao cũng đã chiến đấu một cuộc nội chiến với QDĐ để xác định đảng tiên phong nào sẽ cai trị Trung Quốc.

QDĐ, dưới sự lãnh đạo của Thống chế Tưởng Giới Thạch, cuối cùng đã bị những người cộng sản đánh bại và buộc phải chạy trốn khỏi Trung Hoa đại lục trong cuối các năm 1940, chính phủ ROC thiết lập lại và rút lui về Đài Loan, một hòn đảo cách bờ biển phía đông của đại lục mà, từ 1895 đến 1945, đã dưới sự cai trị thuộc địa Nhật bản. QDĐ, mặc dù được công nhận chính thức như chính phủ hợp pháp của ROC, hay “Trung Quốc tự do,” về cơ bản đã là một đảng suy nhược vào lúc nó đến Đài Loan, nội bộ thối nát và suy tàn về thể chế, với không liên kết nào với xã hội Đài Loan địa phương. Tưởng đã vẫn là lãnh tụ của QDĐ và tổng thống của chính phủ ROC lưu vong.

Mặc dù QDĐ bị đánh bại và buộc phải rút lui sang Đài Loan, Tưởng đã không có ý định cho QDĐ để đóng vĩnh viễn ở đó. Ông cũng đã chẳng đoán trước QDĐ sẽ vẫn yếu lâu. Ông đã có những tham vọng lớn để tiếp sinh lực lại và xây dựng lại đảng ở Đài Loan. Sự đày ải của nó sang hòn đảo chỉ là tạm thời, và một khi QDĐ đã trẻ hóa lại mình, Tưởng lập luận, đảng sẽ lấy lại Trung Quốc từ ĐCSTQ phục hồi chính phủ ROC trên đại lục.

Sự rút lui của QDĐ sang Đài Loan đã không trơn tru. Thứ nhất, Đài Loan đã dưới sự cai trị thực dân Nhật bản kể từ 1895, khi Trung Quốc nhượng hòn đảo sau sự thất bại của nó trong Chiến tranh Trung-Nhật. Đài Loan đã không được quản trị bởi bất kể nhà chức trách Trung quốc nào kể từ sự kết thúc của thế kỷ thứ mười chín. Khi QDĐ đến trong cuối các năm 1940, vì thế, người Đài Loan địa phương đã không đặc biệt hoan nghênh cái một số người thấy là một chế độ thuộc địa nữa. QDĐ đã làm cho vấn đề tồi tệ hơn khi, và 27 tháng Hai 1947, các binh lính cộng hòa đã đánh đập dã man một phụ nữ Đài loan, mà đến lượt đã châm ngòi các cuộc bạo loạn lớn [hôm sau], đánh dấu ngày đó như “Sự cố 228” khét tiếng. Các hệ quả của Sự cố 228 đã không tầm thường cho sự phát triển chính trị của Đài Loan. Một bản sắc “Đài loan” mới sinh bắt đầu hình thành: một bản sắc (căn tính) sắc tộc, và cuối cùng chính trị, phân biệt đa số người Đài loan địa phương với thiểu số người đại lục đến với chế độ QDĐ lưu vong.

Một thứ có lợi cho Quốc Dân Đảng, tuy vậy, là QDĐ được cộng đồng quốc tế công nhận như chính phủ hợp pháp của ROC, trên danh nghĩa gồm cả toàn bộ đại lục. Những người cộng sản, trong khi đó, bị xa lánh về mặt quốc tế và bị hầu hết các nước trên thế giới coi như một chế độ phản bội. Logic sau chiến tranh của chính sách ngăn chặn cộng sản đã có lợi cho QDĐ, cũng nhiều như có lợi cho các đảng cầm quyền ở Nhật Bản và Hàn Quốc, bằng việc tìm được Hoa Kỳ như siêu cường bảo trợ của nó. Như chúng ta sẽ thấy, địa chính trị đã đóng một vai trò quan trọng trong sự tiến hóa của QDĐ.

Củng cố QDĐ

Việc củng cố quyền lực của QDĐ ở Đài Loan, để nói ít nhất, đã không phải là nhiệm vụ dễ, đòi hỏi đảng bị yếu để củng cố bản thân mình bên trong và bên ngoài trong các quan hệ của nó với người Đài loan địa phương. Nhiều nhà lãnh đạo bị khai trừ khỏi cơ quan nội bộ cao nhất của đảng, Ban Thường vụ Trung ương, kể cả vài người trong giới thân cận của Tưởng trong khi ở Trung Quốc. Trong tháng Năm 1949 Tưởng tập hợp mười quan chức QDĐ cấp cao, tất cả đều trung thành với ông, để bắt đầu phác họa các cải cách nội bộ của đảng. Muộn hơn trong năm đó, ủy ban lãnh đạo đã phác họa các nguyên tắc hướng dẫn cho sự tổ chức lại QDĐ. Cái không thay đổi, tuy vậy, là sự kỳ vọng tường minh rằng QDĐ sẽ vẫn là quyền lực chính trị tối cao duy nhất ở Đài Loan, và rằng quyền lực phải được thực hành qua đảng theo cách độc đoán. QDĐ đã không sắp dân chủ hóa hay dẫn đầu một quá trình tự do hóa chính trị ở Đài Loan; có thể, chiến dịch tổ chức lại đã có ý định để tăng cường QDĐ độc đoán.

Chiến dịch xây dựng lại Đảng bắt đầu trong 1950 và được Ban (tái) Tổ chức Trung ương giám sát. Ủy ban đã gồm những người trung thành do Tưởng chọn, tất cả đều có xuất xứ đại lục. Chiến dịch đã có vài mục tiêu. Quan trọng nhất, QDĐ ở Đài Loan ngay lập tức bắt đầu tập trung hóa quyền lực bên trong đảng. Tưởng cảm thấy đảng đã bị làm yếu từ nội bộ trong nội chiến, cho phép tham nhũng và chủ nghĩa bảo trợ lan tràn khắp và cuối cùng làm xói mòn khả năng cai trị của đảng.2 Chiến dịch đã nhắm để loại bỏ chủ nghĩa bè phái bên trong đảng, một nguồn được cảm nhận khác của sự yếu kém của đảng và một nguyên nhân hàng đầu của việc QDĐ thua những người cộng sản.

Một mục tiêu khác của ủy ban là để tạo ra các cơ chế thể chế mới nhúng đảng vào bên trong xã hội. Sau khi suy ngẫm, QDĐ thừa nhận ĐCSTQ đã làm công việc tốt hơn để giành được sự ủng hộ cấp cơ sở giữa giai cấp nông dân Trung quốc, tỏ ra có tính quyết định trong việc huy động những người cộng sản chống lại QDĐ. Tưởng và ban lãnh đạo QDĐ lập luận rằng nếu QDĐ muốn quản trị hữu hiệu và tạo ra sự ủng hộ dân chúng ở Đài Loan—và cuối cùng ở Trung Quốc—đảng cần các cơ chế cho phép nó thực hiện quyền lực từ trên xuống trong khi tạo ra sự phản hồi từ dưới lên cho đảng.

Nó hoàn thành việc này bằng nhiều cách. Thứ nhất, QDĐ thấm vào tất cả các định chế chính quyền qua các mạng lưới chi bộ đảng, các nhóm nhỏ gồm các đảng viên trung thành. Vào lúc kết thúc chiến dịch tổ chức lại trong 1952, hơn 2.700 cán bộ đảng được tổ chức thành gần 300 chi bộ đảng trong các nhánh chính phủ trung ương khác nhau. Văn phòng Tổng thống và nhánh hành pháp đã có gần 1.500 cán bộ đảng hoạt động trong 155 chi bộ. Các chính trị gia QDĐ trong nhánh lập pháp cũng được tổ chức tương tự thành các chi bộ đảng. Các cơ quan hành chính nhà nước, như Viện Hành pháp (nội các) và Viện Tư pháp, được “các nhóm nhỏ” chính trị thâm nhập, chịu trách nhiệm với Ban (tái) Tổ chức Trung ương của đảng. Vào lúc kết thúc chiến dịch tổ chức lại, tỷ lệ của các đảng viên trên thành viên trong bộ máy chính phủ trung ương đã là 5 trên 1. Hơn một phần ba quan chức chính quyền địa phương cũng đã là các đảng viên.

Thứ hai, đảng cầm quyền đã thiết lập sự kiểm soát chặt của nó đối với quân đội. Trong tháng Tư 1950 Tưởng Giới Thạch đã chỉ định con trai ông, Tưởng Kinh Quốc, đứng đầu Tổng cục Chính trị trong quân đội. Tưởng trẻ đã tái lập hệ thống chính ủy bị bãi bỏ trong các năm 1920 khi QDĐ vẫn ở đại lục. Qua hệ thống chính ủy, đảng đã thiết lập các chi bộ bên trong đội ngũ quân đội và áp đặt kỷ luật đảng nghiêm ngặt giữa các binh lính, cụ thể qua các chương trình giáo dục chính trị. Những người bị nghi là cộng sản cũng bị xử lý, hoặc bị thanh trừng hay bị bỏ tù. Hệ thống chính ủy được dùng như “những chiếc tai và những con mắt của đảng trong quân đội.” Trong 1952 khoảng 145.000 đảng viên được tuyển vào quân đội và các nhánh an ninh của chính phủ. Con số này đã tăng nhanh trong hai năm tiếp theo khi 95.000 đảng viên mới được quân đội tuyển mộ. Vào 1954 hơn một phần ba lực lượng vũ trang đã là các đảng viên QDĐ.3

Thứ ba, QDĐ bắt đầu xây dựng cơ sở dân chúng của nó bên trong xã hội Đài loan, giải phóng sự vận động đảng viên quần chúng. Các đảng viên dân sự của QDĐ trong 1950 đã chỉ hơn 80.000; và hai năm sau, nó đã tăng hơn gấp đôi lên khoảng 170.000. Hầu như một nửa đảng viên mới trong 1952 đã là nông dân và công nhân, và không từ tầng lớp chuyên nghiệp hay trung lưu, phản ánh chiến lược cố ý mở rộng cơ sở ủng hộ của nó. Các đảng viên mới cũng đã trẻ hơn nhiều, và một số bất cân đối của họ đã sinh ra ở Đài Loan, một dấu hiệu sớm về chiến lược của QDĐ để địa phương hóa “Đài Loan hóa” đảng.

Vào lúc bắt đầu chiến dịch tái tổ chức đảng, tỷ lệ đảng viên trên dân số khoảng một trên một trăm, hay chỉ 1 phần trăm; vào 1952, hai năm sau tỷ lệ này tăng lên 3,5 phần trăm; và 5 năm sau, QDĐ khoe khoang hơn nửa triệu đảng viên, hay 5,3 phần trăm dân số. Các đảng viên dân sự được tổ chức thành 30.000 chi bộ nơi làm việc và nơi cư trú, cho đảng độc đoán một sự hiện diện ở cả các làng nông thôn và các trung tâm đô thị. Các chi bộ và các chi nhánh QDĐ cũng đã phát triển nhanh khắp các định chế khu vực-công, từ các trường công đến các cơ quan chính quyền. Mặc dù lúc đó QDĐ đã không tin nó sẽ cai trị Đài Loan trong thời gian dài—mục tiêu, rốt cuộc, cho đảng là đắc thắng trở về Trung Quốc—nó đã thành công tổ chức lại, về nội bộ và trong quan hệ với xã hội địa phương, mà đã thiết lập nền tảng vững chắc cho sự phát triển phi thường của Đài Loan.4

Nhà nước kiến tạo-phát triển và QDĐ

Sự tổ chức dọc của bộ máy nhà nước kiến tạo-phát triển phản ánh sự tổ chức độc đoán của QDĐ. Các bộ hành chính bên trong nhà nước, kể cả những bộ hùng mạnh giám sát nền kinh tế, ngoại giao, và tài chính của Đài Loan, được gộp vào dưới và bị chỉ huy bởi Hội đồng Kế hoach hóa Kinh tế và Phát triển, mà đến lượt do các quan chức QDĐ cấp cao đứng đầu. Quyền lực hành chính và chính trị được tập trung vào hội đồng, hay cái Chalmers Johnson gọi là một tổ chức “hoa tiêu,” được giao nhiệm vụ hướng dẫn và định hình các chính sách công, kể cả các chính kinh tế của Đài Loan.5

Nhà nước kiến tạo-phát triển, bất chấp được tập trung, đã không tham nhũng tràn lan, không giống nhà nước QDĐ ở Trung Quốc. Mặc dù bị các đảng viên QDĐ và ban lãnh đạo đảng thâm nhập hoàn toàn, bộ máy quan liêu nhà nước được tổ chức theo đường lối trọng dụng nhân tài hơn là các sự kiên kết người đỡ đầu-người được bảo trợ (patron-client). Các nhà kỹ trị tạo thành nhân viên của các bộ, chẳng hạn, được chọn từ các đại học hàng đầu của Đài Loan và qua một kỳ thi công chức hết sức cạnh tranh. Các nhà quan liêu kiến tạo-phát triển có khuynh hướng được đào tạo trong lĩnh vực kỹ thuật, chiếm ưu thế về kỹ nghệ. Nói cách khác, bộ máy nhà nước của Đài Loan đã tinh gọn, hiệu quả, và có các nhân viên giỏi nhất và thông minh nhất. Noi theo tấm gương kinh nghiệm Nhật bản, nhà nước kiến tạo-phát triển ở Đài Loan được giao nhiệm vụ lãnh đạo công nghiệp hóa và sự phát triển kinh tế của Đài Loan từ trên xuống.6

Đài Loan bắt đầu tăng tốc sự tăng trưởng công nghiệp của nó trong các năm 1950, qua một nền tảng kinh tế vững chắc được đặt trước đó với các cải cách đất đai và nông nghiệp mạnh mẽ. Trong cuối các năm 1940, khi QDĐ đầu tiên đến Đài Loan, hơn một nửa dân số Đài loan là nông dân, và tuyệt đại đa số đã là các tá điền canh tác trên đất của các địa chủ, một di sản của sự thuộc địa hóa Đài Loan sớm hơn của Nhật Bản. QDĐ, với sự giúp đỡ của các cố vấn Mỹ, đã bắt đầu một chiến dịch cải cách đất đai chu đáo bắt đầu trong 1949. Phần đầu tiên của chiến dịch đã tập trung vào việc giảm tô cho các tá điền cũng như việc nhà nước chiếm đoạt đất hoàn toàn. Trong đầu các năm 1950, đất được chiếm đoạt từ các địa chủ được bán hay chuyển giao trực tiếp cho các nông dân không có ruộng. Trong cố gắng đất-cho-dân cày bắt đầu trong 1953, đất được chuyển giao từ các địa chủ cho các dân cày, đến mức vào các năm 1960 hầu hết đất có thể canh tác của Đài Loan được các hộ gia đình cá thể sở hữu.

Bằng việc canh tác đất của riêng họ, các nông dân đã không chỉ tăng năng suất nông nghiệp và đảm bảo an ninh lương thực cho những người sống ở nông thôn mà cũng đã tạo ra thu hoạch dư thừa, như gạo, được bán trong nước và muộn hơn được xuất khẩu ra các thị trường nước ngoài. Thu nhập ngoại thương ban đầu của Đài Loan đã chủ yếu là từ hàng xuất khẩu nông nghiệp, mà đến lượt được đầu tư vào việc khởi động công nghiệp hóa của Đài Loan. Về khía cạnh này, cải cách đất đai đã kích Đài Loan cho sự cất cánh công nghiệp của nó.7

Thật quan trọng, cải cách đất đai sớm ở Đài Loan đã tổ chức lại nông thôn về mặt chính trị sao cho các elite sở hữu đất lớn sẽ không trở thành một rào cản của dân chủ hóa muộn hơn, mà chúng ta biết đã cản trở sự chuyển đổi dân chủ trong các vùng khác, nhất là ở châu Mỹ Latin. Vào thời dân chủ hóa bắt đầu trong cuối các năm 1980, nông thôn Đài loan được cai trị bởi các chính trị gia QDĐ nuôi dưỡng các cơ sở ủng hộ địa phương, và không phải các elite nhiều đất giữ giai cấp nông dân trong sự kìm kẹp cưỡng bức của họ.

Trong các năm 1950, các hãng công nghiệp Đài Loan địa phương bước vào các khu vực chế tạo công nghiệp nhẹ thâm dụng-lao động. Các hãng này, như được chờ đợi, đã không có tính cạnh tranh trong các khu vực công nghiệp tinh vi hơn về mặt kỹ thuật. Cái chúng có, tuy vậy, đã là sự tiếp cận đến lao động dư dả và rẻ, như trong nhiều nền kinh tế đang phát triển. Nhà nước kiến tạo-phát triển QDĐ đã hiệu quả trong việc hướng dẫn sự phát triển kinh tế từ trên xuống bằng việc nuôi dưỡng sự tăng trưởng của các doanh nghệp mới. Chính phủ Đài loan cung cấp sự ổn định kinh tế vĩ mô qua các cơ chế như các chính sách quản lý tỷ giá hối đoái và định giá nhập khẩu cố định, cùng với một loạt quy định kiểm tra đối với khu vực tài chính để cung cấp các khoản vay và các khuyến khích thuế cho các ngành và các hãng tăng trưởng.

QDĐ cũng đã đặt ưu tiên để ngăn chặn loại lạm phát phi mã mà đã trải qua ở Trung Hoa đại lục và đã góp phần cho suy sụp của đảng ở đó. Nhà nước kiến tạo-phát triển QDĐ đã theo đuổi chính sách tiền tệ bảo thủ để giảm nhẹ các áp lực lạm phát lên giá tiêu dùng và đầu vào công nghiệp. Vốn đầu tư, như các khoản vay và tín dụng công nghiệp, được khu vực tài chính và ngân hàng do nhà nước kiểm soát quản lý một cách chiến lược. Ngay cả thị trường cho vay thứ cấp phi chính thức—cái gọi là thị trường lề đường—đã bị nhà nước giám sát chặt chẽ.

Các ngành công nghiệp sau chiến tranh của Đài Loan đã là độc đáo giữa các nhà nước kiến tạo-phát triển Á châu ở chỗ hầu hết các hãng công nghiệp là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME). Còn các hãng khổng lồ ở Hàn Quốc và Nhật Bản—các chaebol ở nước trước, và zaibatsu ở nước sau—được quản lý tài sản bởi các ngân hàng cấp tín dụng hào phóng ưu tiên các hãng lớn và tiết kiệm do quy mô, ở Đài Loan, chính phủ chọn một chiến lược đầu tư thay thế tận dụng các khuyến khích tài khóa (tức là, dựa vào thuế) để gieo hạt giống và nuôi dưỡng các hãng nhỏ và lanh lợi. Chiến lược tăng trưởng SME của QDĐ phản ánh những di sản của chế độ thuộc địa Nhật bản tại Đài Loan, và đặc biệt sự phát triển của các hãng nông thôn, quy mô-nhỏ. Từ một lập trường ý thức hệ, sự tăng nhanh của các SME cũng phản ánh “định kiến chống-tư bản chủ nghĩa lớn” lâu đời của QDĐ.8 Về mặt chính trị, chiến lược SME đã làm lợi cho QDĐ bằng việc cản trở sự tập trung sự giàu có kinh tế trong các khu vực công nghiệp, mà chế độ sợ có thể trở thành một nguồn của sức mạnh đối lập.

Chiến lược SME cũng có ý nghĩa kinh tế cho công nghiệp hóa của Đài Loan. Các hãng nhỏ và lanh lợi được gắn vào các chuỗi cung toàn cầu, mà chính phủ khuyến khích bằng việc thu hút một cách chiến lược sự đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những khu vực công nghiệp được nhắm mục tiêu. Nhà nước đặc biệt chú ý đến những ngành chế tác thâm dụng-lao động. Nó đã thực hiện các chính sách công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, nâng các thuế quan nhập khẩu trong các khu vực cạnh tranh để bảo vệ các ngành và các hãng non trẻ của Đài Loan. Theo thời gian, khi các hãng địa phương trưởng thành trở thành các nhà cung cấp và các nhà lắp ráp có tính cạnh tranh về các sản phẩm chế tác, các SME địa phương được khuyến khích, lại lần nữa với các khuyến khích tài khóa, để cạnh tranh trên các thị trường toàn cầu.

Sự chuyển sang công nghiệp hóa định hướng-xuất khẩu đã tăng tốc trong các năm 1960. Vào cuối các năm 1950, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm của Đài Loan đã chỉ dưới 3 phần trăm; sau 1960, sự tăng trưởng xuất khẩu đã tăng lên 25 phần trăm mỗi năm. Suốt các năm 1960, xuất khẩu đã tăng giữa 33 và 55 phần trăm hàng năm, và Đài Loan đã trở thành một nền kinh tế thương mại lớn trong các thị trường toàn cầu.

Đầu các năm 1970 là một điểm ngoặt quan trọng khác trong phép màu kinh tế Đài loan. Đến thời điểm đó, các công ty công nghiệp Đài loan đã chủ yếu là các hãng chế tạo công nghiệp nhẹ, thâm dụng-lao động. Các nhà lập kế hoạch kinh tế của QDĐ cảm thấy Đài Loan cần đa dạng hóa cơ sở công nghiệp của nó và tập trung vào các ngành và các hãng tăng giá trị-gia-tăng-cao hơn, nhất là trong khu vực điện tử. Nếu Đài Loan muốn tiếp tục nâng cấp lực lượng lao động của nó và vẫn có tính cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu, các hãng của nó phải leo lên chuỗi giá trị toàn cầu.

Để tạo thuận lợi cho việc này, nhà nước kiến tạo-phát triển đề xuất một kế hoạch để nuôi dưỡng “Mười Dự án Lớn” bắt đầu trong đầu các năm 1970, một chiến dịch đầu tư cơ sở hạ tầng lớn do chính phủ-lãnh đạo. Mười Dự án Lớn—mà đã gồm các sáng kiến cơ sở hạ tầng trong sản xuất năng lượng, các cảng và đường sắt, sản xuất thép, và sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp nặng khác—được dự định để tăng cường tính cạnh tranh xuất khẩu của Đài Loan và để ủng hộ sự tăng trưởng của các khu vực công nghiệp thâm dụng-vốn, trong một sự cố ý di chuyển khỏi sự dựa sớm hơn của Đài Loan vào các ngành chế tác công nghiệp nhẹ, thâm dụng-lao động, có kỹ năng-thấp hơn.

Kế hoạch Mười Dự án Lớn đã suýt nữa bị trượt đường ray, tuy vậy, trong tháng Mười Một 1973 khi khủng hoảng năng lượng OPEC (Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ) đã đẩy giá dầu nhập khẩu lên bốn lần. Ngay lập tức nền kinh tế Đài Loan đã bị sốc vào đình lạm. Chỉ số giá tiêu dùng đã tăng từ 8 phần trăm lên gần 50 phần trăm giữa 1973 và 1974, và chỉ số giá bán buôn gần gấp đôi từ 23 phần trăm lên 41 phần trăm. Sự tăng trưởng kinh tế đình trệ và đã chậm lại chỉ còn 1 phần trăm trong 1974, và lần đầu tiên trong một thời gian dài, Đài Loan đã trải nghiệm một sự thâm hụt thương mại.

Phản ứng lại, chính phủ đã thực hiện một chương trình tiền tệ khắt khe. Cách tiếp cận chính sách tiền tệ bảo thủ đã ổn định nền kinh tế và hấp thụ các áp lực lạm phát do giá tăng vọt gây ra. Chắc chắn, sự đau điều chỉnh đã buốt, nhưng cuối cùng đã ngắn, và nền kinh tế mau chóng trở lại đúng hướng.9

Ngay sau khủng hoảng OPEC, chính phủ đã lại tiến về phía trước với Mười Dự án Lớn. Nhà nước đã tăng gấp đôi sự phát triển các khu vực không-thâm dụng-năng lượng mà cuối cùng trở thành nền tảng cho Đài Loan để quay sang các khu vực công nghiệp high-tech (công nghệ cao), mà đã tận dụng các năng lực khoa học và công nghệ đang phát triển nhanh của Đài Loan. Nhà nước kiến tạo-phát triển do QDĐ-lãnh đạo đã là quan trọng trong việc gieo hạt giống và nuôi dưỡng sự tăng trưởng của các ngành thâm dụng-công nghệ-cao của Đài Loan. Trong 1973 chính phủ đã thành lập Viện Nghiên cứu Công nghệ Công nghiệp (ITRI) ở Hsinchu, ngay bên ngoài Đài Bắc, mà ngày nay vẫn là trung tâm thương mại hóa khoa học và công nghệ đứng đầu của Đài Loan. Trung tâm nghiên cứu và triển khai (R&D) được nhà nước-tài trợ đã nhấn mạnh nghiên cứu ứng dụng (R) và sự triển khai thương mại (D), với một tiêu điểm ban đầu vào khu vực điện tử. Cuối cùng ITRI đã tập trung các hoạt động R&D và thương mại hóa của nó vào công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) tinh vi hơn.

Ví dụ hay nhất về nhà nước kiến tạo-phát triển của Đài Loan đã lái thế nào các ngành của nó tới khu vực ICT là sự tăng trưởng của năng lực sản xuất của nó về bán dẫn và các mạch tích hợp. Trong đầu các năm 1980, ITRI là cốt yếu trong việc tạo ra Công ty Chế tác Bán dẫn Đài Loan (TSMC), khai phá mô hình kinh doanh chỉ gia công thuần túy [cho các hãng có thiết kế sẵn] (pure-play foundry model) trong chế tác bán dẫn và sản xuất-chip. Với mô hình sản xuất sáng tạo, TSMC đã trở thành nhà dẫn đầu công nghiệp và thị trường toàn cầu về sản xuất bán dẫn và mạch tích hợp, một phần cốt yếu và béo bở của chuỗi giá trị công nghệ cao ICT toàn cầu. Sự tạo ra và thành công của TSMC là kết quả của việc licensing công nghệ được tài trợ công (công nghệ gốc được cấp phép cho ITRI là từ một nhà sản xuất chip Mỹ) ở thượng nguồn, và đầu tư chính phủ trực tiếp vào việc tạo ra hãng hạ lưu (downstream).

TSMC đã không phải là ví dụ duy nhất về nhà nước kiến tạo-phát triển của Đài Loan đã giảm nhẹ các rủi ro của công nghiệp high-tech như thế nào bằng việc nâng cấp và chọn và tạo ra những kẻ thắng công nghiệp. Những thành đạt công nghiệp high-tech cho các hãng Đài loan, trong các khu vực như quang tử, chế tác phần cứng máy tính, và thậm chí các dụng cụ y tế, đã theo một chiến lược nâng cấp tương tự, mà đối với chúng nhà nước kiến tạo-phát triển đã dẫn đường.10

Đỉnh cao của sự Thống trị Độc đoán

Trong chỉ ba thập niên, Đài Loan đã trở thành một trung tâm kinh tế năng động. Không ngạc nhiên, sự phát triển kinh tế sau chiến tranh của nó và vai trò nhà nước kiến tạo-phát triển do Quốc Dân Đảng-lãnh đạo, mà đã đóng trong việc chỉ huy sự biến đổi kinh tế của Đài Loan, đã mang lại cho chế độ độc đoán này tính chính danh thành tích to lớn. Như trong những hệ thống độc đoán khác nơi các quyền dân sự và chính trị của các công dân bị hiến tế trên bàn thờ phát triển kinh tế quốc gia, tính chính danh thành tích đã là một nguồn quan trọng của sự ủng hộ chính trị cho Quốc Dân Đảng.

Dưới sự cai trị độc đoán của QDĐ, Đài Loan đã đi từ một trong các nền kinh tế nghèo nhất trên thế giới để trở thành một trong những nước kiến tạo-phát triển đi đầu của châu Á. Trong các năm 1960 tốc đô tăng trưởng kinh tế trung bình của Đài Loan đã đạt gần 11 phần trăm một năm. Suốt các năm 1970 và các năm 1980, khi các ngành công nghiệp của Đài Loan bước vào các khu vực chế tạo high-tech, nền kinh tế Đài loan tiếp tục thông báo tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm 8 phần trăm. Đặt điều này vào viễn cảnh so sánh, trong 1962 Đài Loan đã xếp hạng như một trong các nền kinh tế nghèo nhất trong thế giới đang phát triển, cùng vói Zaire và các nước hạ-Sahara khác. Trong thời kỳ từ 1962 đến 1986, Đài Loan nổi lên từ thứ 85 trên thế giới lên thứ 38 về mặt độ lớn của nền kinh tế. Tính bằng dollar, thu nhập trên đầu người ở Đài Loan đã đi từ US$50 trong 1952 trong đêm trước của sự cất cánh kinh tế của Đài Loan lên gần $5,000 trong 1987, tăng gần một trăm lần.

Khi nền kinh tế của Đài Loan trở nên giàu hơn, cuộc sống của nhân dân cũng đã thay đổi, trở nên hiện đại hơn. Sự sở hữu xe hơi, một chỉ số về xã hội hiện đại hóa-kinh tế, đã tăng hơn năm lần trong các năm 1970. Sự tiếp cận đến các báo hàng ngày và các tạp chí đã tăng gấp đôi trong thập niên đó, và sự kết nối điện thoại đã tăng 5-lần. Cấu trúc của nền kinh tế đã biến đổi. Tỷ lệ phần trăm của những người làm việc trong các ngành chế tác đã tăng hơn hai lần giữa năm 1953 và năm 1983, đạt gần một nửa lực lượng lao động. Trong khi đó phần của các công nhân nông nghiệp đã giảm đột ngột từ 55 phần trăm xuống chỉ còn 18 phần trăm. Xã hội Đài Loan đã trở nên ngày càng đô thị và trung lưu. Đồng thời, sự tiếp cận đến giáo dục đã mở rộng khi chính phủ phổ quá hóa giáo dục cấp một và cấp hai trong các năm 1960.

Quá trình hiện đại hóa Đài loan đặc biệt phi thường vì nó đã xảy ra nhanh đến thế nào. Để đặt kinh nghiệm của nó vào viễn cảnh so sánh, Hung-mao Tien, trong cuốn sách của ông Great Transition (Sự Chuyển đổi Vĩ đại), lưu ý rằng trong khi “hiện đại hóa của châu Âu và Bắc châu Mỹ đã xảy ra trong một thời kỳ của hai thế kỷ hay dài hơn,” ở Đài Loan “khoảng thời gian đó đã bị nén vào vài thập niên.”11

Sự cất cánh kinh tế—bền vững và có tính biến đổi trong ba thập niên từ các năm 1950 đến các năm 1980—tại Đài Loan không ngạc nhiên đã là quan trọng cho vận may chính trị của QDĐ. Kết cục chính trị về mặt tính chính danh thành tích của QDĐ và sự ủng hộ chính trị cho chế độ, tuy vậy, đã không hạn chế ở chỉ các lợi ích của sự phát triển kinh tế tổng thể của Đài Loan. Ngoài sự tăng trưởng kinh tế tổng hợp từ các năm 1950 trở đi, nhà nước kiến tạo-phát triển do QDĐ-lãnh đạo cũng được công trạng vì sự thúc đẩy tăng trưởng với sự công bằng xã hội-kinh tế. Phân bố thu nhập ở Đài Loan thực sự đã trở nên bình quân hơn trong các năm 1960 và 1970 trong thời gian cất cánh công nghiệp của Đài Loan, chính xác trong thời kỳ khi chúng ta kỳ vọng các mức bất bình đẳng cao hơn, không phải thấp hơn. Thực ra, cho đến cuối các năm 1980, hệ số Gini (một số đo chuẩn về phân bố thu nhập) của Đài Loan đã lơ lửng quanh 0,3, đưa Đài Loan ngang với các nền kinh tế Bắc Âu bình đẳng nhất.

Việc tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng với tính công bằng có ý nghĩa chính trị tốt liên quan đến những triển vọng của QDĐ độc đoán cho sự sống sót chính trị, đặc biệt khi đối mặt với những căng thẳng sắc tộc tăng lên ở Đài Loan. Đặc biệt đáng lo ngại cho QDĐ là sự xuất hiện của một bản sắc dân tộc Đài loan giữa đa số người dân sống ở Đài Loan. Một cách cụ thể, đảng cầm quyền đã lo lắng về những căng thẳng sắc tộc sắp sôi, quay lại Sự cố 228 khét tiếng giữa thiểu số sinh tại đại lục và những người Đài loan địa phương, chiếm đa số dân cư. Khi QDĐ chạy trốn khỏi Trung Quốc và đến Đài Loan trong cuối các năm 1940, dòng chảy vào của những người Trung quốc đại lục (đến cùng với QDĐ) đã chiếm chỉ 13 phần trăm dân số của hòn đảo. Việc bảo đảm một sự phân bố công bằng các thành quả tăng trưởng đã chia cổ tức chính trị cho chế độ độc đoán bằng việc ngăn chặn sự tập trung sự giàu có kinh tế vào tay những người đại lục. Sự tăng trưởng với sự công bằng cũng làm trệch một cách phòng ngừa bất kể sự chỉ trích chế độ nào vì sự bất lợi của những người Đài loan địa phương để ưu ái những người Trung quốc đại lục gắn với chính phủ QDĐ.

Hãy nhớ lại rằng tại Nhật Bản, sự tăng trưởng với tính công bằng đã mở rộng cơ sở cử tri của Đảng Dân chủ Tự do (LDP) bảo thủ trong các năm 1950 và đã củng cố sự hấp dẫn “bao quát” của nó. Tương tự, sự phát triển công bằng ở Đài Loan đã hỗ trợ sự ủng hộ chính trị cho chế độ QDĐ độc đoán. Như đã thế ở Nhật Bản sau chiến tranh, sự tăng trưởng với tính công bằng ở Đài Loan đã là kết quả của những sự lựa chọn chính sách cố ý của chính phủ. Chẳng hạn, cải cách đất đai trong đầu các năm 1950 đã không chỉ làm tăng năng suất nông nghiệp; nó cũng đã đóng góp cho một sự phân bố đất công bằng hơn cho các nông dân và các cơ hội kinh tế bằng việc phá hủy các tàn dư của hệ thống địa chủ thời thuộc địa. Chiến lược thúc đẩy các SME, hơn là các hãng lớn, đã hạ thấp các rào cản gia nhập cho các doanh nhân địa phương, mà đến lượt lại dẫn đến nhiều tính di động xã hội-kinh tế hơn giữa những người Đài loan. Sự đưa giáo dục phổ quát vào trong các năm 1960 đã đóng góp cho một lực lượng lao động lành nghề hơn và các cơ hội việc làm có lương cao hơn trên mọi lĩnh vực. Những cố gắng của QDĐ để làm nhẹ bớt sự bất bình đẳng to lớn cũng đã hiển nhiên trong các thời khắc khủng hoảng. Như chúng tôi đã mô tả sớm hơn, khi sự tăng vọt giá dầu OPEC cuối 1973 đã đe dọa lạm phát phi mã, chính phủ do QDĐ-lãnh đạo đã áp dụng một chính sách tiền tệ nghiêm ngặt và bảo thủ và đã phân bổ các trợ cấp từ các hãng sở hữu nhà nước để kiềm chế lạm phát tiêu dùng, bảo đảm khoảng cách giữa những người-có và những người-không-có không mở rộng ra.

Mặc dù chính phủ do QDĐ-lãnh đạo được công trạng vì đã tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng kinh tế với tính công bằng ở Đài Loan sau chiến tranh, điều này không có nghĩa rằng nhà nước Đài loan là cái chúng ta gọi là một nhà nước phúc lợi vững chãi. Sự tăng trưởng với tính công bằng đã là kết quả của các chính sách kinh tế vĩ mô nhắm tới sự tăng trưởng, việc làm đầy đủ, và sự nâng cấp kỹ năng lao động. Trong khi đảng LDP ở Nhật Bản dân chủ đã tạo ra các chương trình phúc lợi xã hội phổ quát bắt đầu trong các năm 1960, các chính sách xã hội và những chương trình bảo trợ xã hội ở Đài Loan đã bị phân mảnh và được các bộ phận khác nhau của bộ máy quan liêu quản lý. Các chương trình phúc lợi xã hội đã không được tích hợp vào một nhà nước phúc lợi hào phóng, duy nhất. Các chương trình xã hội hiện hành khác hẳn nhau đã mang tính chọn lọc về những người thụ hưởng của chúng và phần lớn được tài trợ qua các sơ đồ đóng góp bảo hiểm, hơn là qua các quỹ chính phủ.

Tuy nhiên, các chương trình xã hội đã phục vụ một mục đích chính trị cho chế độ, vì chúng đã giúp duy trì sự thống trị độc đoán của QDĐ qua sự dùng các phúc lợi chọn lọc để lôi kéo hay duy trì các cơ sở ủng hộ chính trị quan trọng. Các chương trình phúc lợi chọn lọc, như chương trình bảo hiểm lao động, được cố ý mở rộng trong các thời khắc khủng hoảng chính trị đối với chế độ. Đấy là cách QDĐ mua chuộc các đối thủ chính trị tiềm năng, một chiến lược khủng hoảng và đền bù chọn lọc. Khi các phúc lợi xã hội được chính phủ mở rộng, chúng đầu tiên được mở rộng cho các cử tri chính trị của chế độ QDĐ, như các sĩ quan quân đội, binh lính, và các công chức. Các công nhân trong các hãng nhỏ hơn, các nông dân, và những người phụ thuộc của họ đã bị loại trừ khỏi sơ đồ chính sách xã hội cho đến các năm 1980 và 1990 khi Đài Loan đã dân chủ hóa. Các sơ đồ chính sách xã hội ban đầu đã nhắm mục tiêu đến những người là quan trọng cho sự sống sót của chế độ độc đoán.12

Các thập niên sau các năm 1950 đã là thời hoàng kim của sự thống trị độc đoán của QDĐ ở Đài Loan. Song các sức mạnh của đảng không chỉ là một sản phẩm phụ-tự nhiên của thành tích kinh tế và tính chính danh thành tích của QDĐ. Sức mạnh QDĐ cũng liên quan nhiều đến các cố gắng có chủ ý của đảng để củng cố cơ sở chính trị của nó ở Đài Loan. Trong các năm 1970, QDĐ đã tích cực thay đổi hình thức tư cách đảng viên và thành phần của cả ban lãnh đạo đảng và công chức chính phủ. Đảng trở nên trẻ hơn về mặt tư cách đảng viên sau khi nó lập ra Ủy ban Thanh niên của đảng. Sự tăng trưởng kinh tế với tính công bằng ở Đài Loan cũng đã ngăn chặn sự tập trung của cải, mà phân tán sức mạnh kinh tế của một đối lập chính trị tiềm năng.

Thật quan trọng, QDĐ đã ngày càng và tích cực tuyển mộ những người địa phương sinh ở Đài Loan vào hàng ngũ đảng và bộ máy quan liêu chính phủ. Vào cuối các năm 1970, những phần đáng kể của ban lãnh đạo chính phủ cũng như ban lãnh đạo QDĐ đã gồm những quan chức địa phương Đài loan. QDĐ đã chủ ý “địa phương hóa” và “Đài Loan hóa” đảng để biến đổi hình ảnh của nó từ hình ảnh của một đảng đại lục lưu vong thành một đảng địa phương. Sự Đài Loan hóa đã mở rộng cơ sở ủng hộ chính trị của QDĐ. Nói cách khác, trong khi đảng áp dụng các chiến thuật độc đoán để đàn áp các kẻ thù của nó, nó cũng tích cực tạo ra sự ủng hộ giữa toàn thể công dân Đài loan.13

Chiến thuật này về tạo ra sự ủng hộ chính trị bên trong Đài Loan đã đặc biệt rõ trong các cố gắng của QDĐ để hợp pháp hóa sự cai trị của nó qua các cuộc bầu cử địa phương. Trong 1966 chính phủ QDĐ đã sửa các quy tắc bầu cử để cho phép các cuộc bầu cử bổ sung cho các cơ quan lập pháp, trong khi các cuộc bầu cử trước đã chỉ là thủ thuật làm đẹp bề ngoài chính trị cho chế độ độc tài QDĐ. Phản ánh bản chất độc đoán của QDĐ, các cuộc bầu cử bổ sung bị hạn chế về quy mô, vì các đảng đối lập bị cấm dưới quân luật. Tuy nhiên, các ứng viên độc lập (tức là, không-QDĐ) có thể tham gia trong các cuộc tranh đua bầu cử bổ sung sau 1966.

Tuy vậy, những sự sửa đổi bầu cử của QDĐ không nên được nhầm lẫn với sự tự do hóa chính trị đích thực. Những sự thay đổi 1966 đã không phải là một sự báo trước về dân chủ hóa chính trị. Ngược lại, những cuộc bầu cử hạn chế là một công cụ được QDĐ dùng để tăng cường, không phải làm yếu, sự độc quyền của nó về quyền lực chính trị, một phần bởi việc tạo ra một hiệu ứng hào quang tích cực của việc đã “thắng” tranh đua bầu cử. Vì sự phát triển kinh tế nhanh của Đài Loan từ các năm 1950 trở đi và tính chính danh thành tích kinh tế của QDĐ, kết hợp với sự thực rằng các đảng đối lập bị cấm, khả năng của một nhà lập pháp độc lập, không-QDĐ được bàu trong các cuộc bầu cử bổ sung này đã rất thấp. QDĐ đã thắng tám trong mười một ghế trong các cuộc bầu cử bổ sung đầu tiên trong 1969. Nó cũng đã dễ dàng lướt qua các cuộc bầu cử lập pháp bổ sung 1972 và 1975, giành được 73% và 78% phiếu phổ thông một cách tương ứng, và giành được hầu hết các ghế tranh cử.

Các cuộc bầu cử lập pháp bổ sung đã không có ý định là các cuộc tranh đua tự do và công bằng, mà đúng hơn là một cơ hội cho QDĐ để củng cố quyền lực chính trị của nó qua lá phiếu. Các cuộc bầu cử hạn chế nhưng đều đặn đã cung cấp một tín hiệu rõ về sự ủng hộ của nhân dân cho chế độ. Các cuộc bầu cử địa phương cho các pháp quan và các thị trưởng cũng cung cấp một cơ chế phản hồi được thể chế hóa cho chế độ, kết nối QDĐ với các cộng đồng địa phương và kích hoạt thường lệ các chi bộ đảng địa phương của nó. Không ngạc nhiên, QDĐ đã phát triển một bộ máy chính trị mạnh khắp hòn đảo bởi vì các cuộc bầu cử này. Nó có được kinh nghiệm trong các cuộc bầu cử tranh đua, từ việc nuôi dưỡng và bổ nhiệm các ứng viên đến việc làm sâu sắc các ràng buộc bảo trợ chủ nghĩa. Nói cách khác, các cuộc bầu cử tranh đua thường xuyên đã cho đảng cầm quyền một lợi thế chiến lược và tổ chức áp đảo đối với đối lập, đến mức vào lúc một đảng đối lập chính thức xuất hiện ở Đài Loan trong các năm 1980, QDĐ đã là một đảng đã trải nghiệm và được luyện tập rồi trong việc chiến thắng các cuộc bầu cử.14

Comments are closed.