Thảo luận “vấn đề dạy chữ Hán trong nhà trường“ (12)

Cần phải biết tiếng Hán, tiếng Việt mới trong sáng?

Nguyễn Phương

Câu chuyện phát triển tiếng Hán ở Việt Nam chắc cần nhiều giấy mực, sự tham gia của xã hội, và không thể chỉ gói gọn trong một hai hội thảo hay ý kiến của một vài cá nhân. Bài viết này, vốn được viết từ 2013 khi Bộ GD cải chính[1] việc không phổ cập tiếng Hoa, chỉ điểm lại một cách vắn tắt một số điểm nôi bật qua các tranh luận gần đây.

Trước hêt, cần phải khẳng định ngay rằng nhiều người không biết tiếng Hán (tiếng Hoa) vẫn viết và nói tiếng Việt rất trong sáng.

Tôi không rõ tác giả câu thơ “Ngoài thềm rơi chiếc lá đa/Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” có biết tiếng Hán không, nhưng câu thơ đó của anh rất Việt, rất trong và sáng! Ngôn từ trong câu lục bát đó đều thuần Việt, đâu chứa nhiều chất Hán văn. Nếu đọc Nam Cao, Nguyên Hồng, v.v… ta sẽ thấy các ông rất thuần Việt. Tiếng Việt và văn Việt đâu có “thụt lùi” khi viết bằng Quốc ngữ?

Phải công nhận rằng trong một số trường hợp, từ Hán Việt “đắt” hơn và súc tích hơn từ thuần Việt. Song, trong nhiều trường hợp khác, khi từ thuần Việt hoàn toàn có đủ khả năng chuyển tải thông điệp, thì tại sao cứ phải dùng từ Hán Việt hay trật tự từ của tiếng Hán: “trưng cầu dân ý” mà không phải “trưng cầu ý dân”, … khiến trật tự từ tiếng Việt bị lai căng. Tại sao cứ phải nói “yến sào” mà không phải là “tổ yến”, sao phải nói “mãi dâm” mà không nói “bán dâm”, … “Quốc hoa”, “quốc yến” … nghe còn được, nhưng “quốc giỗ” thì cả là sự cắm râu ông nọ vào cằm bà kia rồi – đúng kiểu “Bà cụ tẩu như phi”. Một số người cố tình néo từ gốc Hán – phải chăng để khoe chữ (?).

Lỗi sử dụng từ Hán Việt thường do những nguời sính và lạm dụng chữ gốc Hán, trong khi không hiểu cặn kẽ ý nghĩa của từ. Lẫn lộn “yếu điểm” với “điểm yếu” là một ví dụ. Có trường hợp còn tai hại như “Tại điểm giao hợp của thời đại lịch sử”[2].

Vay mượn là hiện tượng bình thường giữa các ngôn ngữ. Một khi từ ngữ vay mượn trở thành tài nguyên của ngôn ngữ mới, chúng có thể thoát khỏi ràng buộc của ngôn ngữ gốc, có thể được sử dụng theo nét nghĩa mới, theo quy luật ngữ pháp, văn hóa của tiếng vay mượn. Ví dụ, có người bắt bẻ từ “hỗ trợ” trong câu “Chính phủ hỗ trợ họ,” là chưa đúng quy chiếu theo nghĩa gốc Hán. Song, “hỗ trợ” đã là từ tiếng Việt, mang nghĩa “giúp đỡ” một chiều và được cộng đồng người Việt chấp nhận. Người ta nói “thuyên chuyển” thay cho “thiên chuyển”. Được đa số người nói tiếng Việt chấp nhận – tức là nó đã được Việt hóa. Vả lại về nhạc tính, “thuyên chuyển” dễ nghe và dễ phát âm hơn trong tiếng Việt vì hiện tượng đồng hóa hay nhược hóa.

Đúng hơn phải nói rằng biết và sử dụng tốt ngoại ngữ, chứ không chỉ riêng tiếng Hán, sẽ làm tiếng Việt của người nói và viết THÊM trong sáng.

Chữ Hán Nôm giúp hình thành và phát triển nhân cách tốt hơn?

Nhận định đó mang tính phiến diện, chủ quan và vội vã. Nghiên cứu khoa học không thể tiến hành trong phạm vi một trung tâm ngoại ngữ nào đó. Để kết luận khoa học có sức thuyết phục, không thể lấy hiện tượng đơn lẻ thay thế hay đại diện cho cho đa số. Hệt như lấy phát biểu của một vài người rồi bảo đó là “toàn dân”.

Nhân cách được hình thành và phát triển đòi hỏi nhiều yếu tố rộng hơn rất nhiều – từ môi trường gia đình, xã hội đến cá tính mỗi đứa trẻ, … Các nghiên cứu về giáo dục học, tâm lý học, đạo đức học đã khẳng định như vậy. “Nhân cách” hình thành và phát triển tốt không chỉ vì những học sinh này đươc học Hán nôm!

Vả lại, thế nào là nhân cách tốt để hình thành cũng cần được định nghĩa? Những gì một số người cho là tốt chưa hẳn đã là tốt.

Học sinh không hứng thú với việc học tiếng mẹ đẻ

Kết luận rằng học sinh không hứng thú với việc học tiếng mẹ đẻ là do “chưa nắm vững nghĩa của những yếu tố cấu thành từ Hán Việt” là ngộ nhận và khiên cưỡng.

Giao tiếp hàng ngày và văn bản bằng tiếng Việt trong các tình huống khác nhau, từ giảng đường, công sở hành chính đến đường phố, … ngày càng vắng từ Hán Việt. Thay vào đó là từ thuần Việt hoặc được Việt hóa đến nhuần nhuyễn. Những “lệch chuẩn” với Hán Việt không làm giao tiếp bị đảo lộn, không làm văn bản pháp luật, khoa học, văn học … viết bằng Quốc ngữ bị hiểu sai.

Học sinh không hứng thú với ngữ văn và cả những môn xã hội khác không phải vì không được học tiếng Hán … mà vì những nguyên nhân sâu xa hơn thế nhiều: Các môn KHXH đã đánh mất vai trò của mình là môn khoa học, học sinh bị gò theo những khuôn mẫu cả về phương pháp cảm thụ, tư duy, … lẫn hình thức. Vấn nạn này đã được nói đến nhiều rồi.

Đọc tác phẩm bằng nguyên tác là lý tưởng. Song, để làm được việc đó đòi hỏi trình độ ngoại ngữ, văn hóa, … của tiếng bản gôc rất cao. Không có bản dịch nào có thể chuyển tải được hoàn hảo những ý nghĩa là ‘máu thịt’ của của ngôn từ bản gốc. Chơi chữ, một thủ pháp sử dụng những thuộc tính chỉ thuộc về ngôn ngữ, văn hóa nhất định, là một ví dụ, do vậy nghĩa của nó hầu như không thể diễn đạt được ở ngôn ngữ khác. Thử hỏi bao nhiêu người học tiếng Hán có thể chẻ sợi tóc làm tư để hiểu cái phép ẩn dụ, hoán dụ khi phân tích nét ngang nét dọc của Hán tự; bao nhiêu người có thể thưởng thức được Shakespeare, Molière, Cervantes, v.v… bằng nguyên tác? Chắc vì không có khiếu, người viết bài này sau ba năm học tiếng Hoa chỉ còn nhớ được vài từ.

Những việc này nên để dành cho các nhà chuyên môn, chứ không thể cho tất cả mọi người.

Nhật, Nam Hàn, … phát triển nhờ có tiếng Hán?

Nói về sự tiến bộ của Nhật, Nam Hàn, … thì cần phải nhớ rằng Nhật vươn lên thành cường quốc chính nhờ tư tưởng Meiji, du nhập cách quản trị xã hội của phương Tây. Người Nhật còn bỏ luôn Tết Trung Hoa. Cũng là quốc gia trong khu vực đồng văn, tại sao Bắc Hàn ‘lận đận’ như vậy?

Trong hệ thống giáo dục của Nam Hàn, “tiêng Anh được dạy từ lớp 3 và phát triển đến THPT, cũng như trong hầu hết các trường đại học. Học sinh cấp 3 ngày càng tích cực học tiếng Anh để vào các trường đại học danh tiếng trong nước hoặc học ở nước ngoài.” [3]

Tại Nhật, “Các môn học cơ bản bắt đầu cấp trung học cơ sở là tiếng Nhật, tiếng Anh, toán, và khoa học”.[4] Về ngôn ngữ, vì tiếng Nhật và tiếng Hán sử dụng chung tới 70-80% chữ tượng hình kanji và có nghĩa tương tự (nhưng phát âm hoàn toàn khác nhau), học sinh Nhật cần học chữ kanji là điều tất nhiên. Việc dạy tiếng Hán (như một ngoại ngữ) ở Nhật thì sao? Tổ chức phi lợi nhuận Diễn đàn, có trụ sở ở Tokyo, với muc đích thúc đẩy việc dạy tiếng Hán ở Nhật, cho biết chỉ có 10 trong số 5550 trường cấp 3 ở Nhật tổ chưc dạy tiếng Quan thoại, và Bộ Giáo dục Nhật không chủ trương xây dựng một chương trình chuẩn hóa cho tiếng Quan thoại như đối với tiếng Anh.”[5]

Không có chữ Hán, không nghiên cứu khoa học được?

Trong bảng xếp hạng đại học thế giới hàng năm theo ngành học, các trường đại học của Hoa Kỳ, Anh, Đức, Bỉ, … , là những trường dẫn đầu ngành XH-NV [6] chứ không phải trường của TQ hay các nước dưới ảnh hưởng Hán văn.

Trong bảng xếp hạng top-100 trường ĐH theo ngành XHNV năm học 2015-16, điều trớ trêu là ĐH Tokyo và ĐH Hong Kong xếp thứ 44, trong khi ĐH Bắc Kinh xếp thứ 84. Nếu cần có tiếng Hán nghiên cứu khoa học XHNV mới tốt thì lẽ ra ĐH Bắc Kinh phải tốt hơn hai trường kia vì nó “Hán xịn”!

Như vậy nghiên cứu XHNV không phụ thuộc tiếng Hán. Nghiên cứu khoa học, đặc biệt nghiên cứu ngành XH-NV, đòi hỏi tự do học thuật, điều kiện, phương tiện tiếp cận vấn đề, và quyền được công bố. Đây rất có thể là nguyên nhân quan trọng nhất để ĐH Tokyo và ĐH Hongkong xếp trên ĐH Băc Kinh.

Chỉ một vài dẫn chứng đã cho thấy những nhận định về vai trò tiếng Hán là phiến diện và vội vàng, thể hiện phương pháp tư duy có vấn đề. Ngôn ngữ và tư duy có quan hệ qua lại mật thiết. Nhưng tôi không có ý nói rằng cách tư duy ấy có vấn đề là do học và đọc tiếng Hán (?)

Học ngoại ngữ nào?

Theo thống kê chính thức, ở Việt Nam, người thuộc dân tộc Hoa có chỉ có khoảng hơn 800.000 người[[7]]. Ngay tại Singapore, nơi 74,1% dân số là Hoa kiều, những người đã tìm cách chuyển ngôn ngữ học đường tại đây sang tiếng Hoa đã thất bại. Sinh thời, ông Lý Quang Diệu của Singapore, người gốc Hoa kiên quyết khước từ khi người Trung Quôc tiếp cận và vận động ông đưa tiếng Hoa vào nhà trường. Theo ông, “tương lai con trẻ phụ thuộc vào việc thông thạo dùng ngôn ngữ của những sách giáo khoa mới nhất – đó là tiếng Anh”.

Trong khi mỗi thứ tiếng có vị trí nhất định trong đời sống quốc tế và được xác định là quan trọng đến mức độ nào, cảm tính chủ quan hay ý thích của chúng ta không làm thay đổi vị thế của nó.

Ngoại ngữ nào ích nước, lợi dân thì chúng ta hãy cố gắng dạy và học ngoại ngữ đó cho thật tốt, cho dù đó là tiếng của một bộ lạc thổ dân ở châu lục xa xôi.

Một số ít người, xuất phát từ những động cơ và cảm xúc riêng, vẫn hoài công tranh cãi cố tìm cách chứng minh rằng ngoại ngữ này là quan trọng hay ngoại ngữ kia kém quan trọng, đôi khi dẫn đến đố kị.

Dạy tiếng Hán là một trong các ngoại ngữ thứ hai là một chuyện, nhưng phổ cập nó lại là chuyện hoàn toàn khác. Rất có thể ai đó vừa tài trợ? Hãy sử dụng vào khai thác kho tư liệu Hán Nôm! Nhưng định thí nghiệm trên lưng con trẻ thì phải hết sức cẩn trọng.

Tuy không phải một tiểu luận khoa học, để có được cái nhìn khách quan hơn, bài viết này xin điểm qua một vài số liệu về việc dạy-học ngoại ngữ ở VN và trên thế giới.

Ngoại ngữ trong trường phổ thông Việt Nam

Theo số liệu điều tra của VKHGD năm 2001[8], tỷ lệ học sinh phổ thông chọn học ngoại ngữ là: 0,3%, 2,0% và 97,7%, lần lượt cho các tiếng Nga, Pháp, và Anh ở khắp lãnh thổ Việt Nam. Xu hướng này vẫn tiếp theo chiều này, và sự lựa chọn học ngoại ngữ không bị áp đặt như trước.

Các trường phổ thông, trung cấp dạy nghề được lựa chọn dạy ít nhất một trong bốn ngoại ngữ. Tuy vậy, tỷ lệ người học tiếng Anh chiếm tới 98,6%. Tỷ lệ học sinh học tiếng Pháp, Nga và một số các thứ tiếng khác chiếm số còn lại [9].

Số liệu từ kỳ thi Học Sinh Giỏi Quốc Gia môn Ngoại ngữ năm 2015 vừa qua cho thấy số thí sinh (từ các trường PTTH chuyên của mỗi tỉnh) tham dự là 64, 69, 169, và 474 lần lượt cho tiếng Hoa, Nga, Pháp, và Anh.

Các nước học gì?

Sau khi Liên Xô sụp đổ và khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu, nơi “từ Praha đến Hà Nội, các trường đều phải học tiếng Nga” tan rã và sự áp đặt tỉ lệ cơ cấu ngoại ngữ bị bãi bỏ, tiếng Anh được xã hội và các nhà hoạch định chiến lược lựa chọn làm ngoại ngữ số một cho toàn bộ các trường phổ thông của các nước này. Tại chính nước Nga, trên 70% học sinh và cha mẹ học sinh chọn học tiếng Anh. Theo số liệu của British Council tại Nga (2005), 85%, 70% và 60% học sinh phổ thông lần lượt ứng với thành phố lớn, thành phố nhỏ, và nông thôn chọn học tiếng Anh. Thời của sự áp đặt đã qua rồi.

Hiện tại, chính phủ Pháp đang kêu gọi tăng cường dạy tiếng Anh ngay từ bậc tiểu học.

Các nước châu Á-Thái Bình Dương và trong khu vực, kể cả Trung Quốc cũng có chính sách tương tự.

Trong lĩnh vực truyền thông, Pháp phát kênh France 24, Nga mở kênh Russia Today (RT), Trung Quốc phát kênhCCTV9, Nhật có NHK,… bằng tiếng Anh.

Cơ sở để lựa chọn

Sự lựa chọn phải dựa trên cơ sở a) yêu cầu phát triển lâu dài của đất nước, b) ý nguyện của người học, c) thái độ, cách nhìn bình tĩnh, khách quan và công bằng, và d) không có động cơ gắn với quyền lợi cá nhân, thậm chí cả lòng tự ái cá nhân, hay ý chí chính trị.

Để có một lựa chọn đúng đắn và khách quan, chúng ta cần học cách chấp nhận thực tế khách quan để có cách nhìn thực tế, tránh gây lãng phí xã hội.

Truyền thông Trung Quốc quảng bá cho chiến lược bành trướng tiếng Hoa khá rầm rộ, nhưng thực tế không hẳn như mong đợi. Xin dẫn một ví dụ điển hình nhất: tại Hoa Kỳ, có khoảng 250.000 đến 300.000 học sinh tiểu học tiếng Hoa, nhưng các lớp này chủ yếu là các lớp ngoài giờ dành cho con em Hoa kiều định cư tại đây.[[10]]

Tại sao tiếng Anh?

Tiếng Anh đã trở thành Lingua franca trong lĩnh vực khoa học vượt biên giới quốc gia. Theo Bordons và Gomez (2004), số lượng ấn phẩm khoa học [11] được xuất bản bằng tiếng Anh trên thế giới ngày càng tăng – từ 84,5% (năm 1980) lên 95,9% (2000). Xu hướng đó khiến việc dạy và học các môn khoa học bằng ngôn ngữ này ngày càng tăng trong thế giới toàn cầu hóa.

Thống kê về các nhóm ấn phẩm trong các lĩnh vực chuyên môn khác nhau cũng cho những con số theo xu hướng này. Lobachev (2008) cho biết thống kê của UNESCO (2007)[[12]] với nhóm tạp chí có tính học thuật (scholarly journal) cho thấy 45,24% bằng tiếng Anh; 11,1% bằng tiếng Đức; 6,51% bằng tiếng Hoa; 4,94% bằng tiếng Pháp; 3,46% bằng tiếng Nhật; … và 1,30% bằng tiếng Nga.

Theo Huntington, tác giả Sự va chạm của các nền văn minh, tiếng Anh đã “trở thành lingua franca, giúp con người vượt qua chứ không phải để tiêu diệt khác biệt về ngôn ngữ và văn hoá. Nó là một công cụ để giao tiếp chứ không phải nguồn tạo ra bản sắc hay một cộng đồng.”[13]

Học ngoại ngữ vì ai?

Còn nhớ, trong buổi thăm và làm việc của đại diện ngoại giao Anh tại một trường ĐH chuyên ngoại ngữ cách đây 25 năm, một quan chức của Viêt Nam đã gợi ý Anh xây khu học tiếng Anh như “người Pháp đã xây và người Nga sắp xây. Bằng cách đó, Việt Nam sẽ quảng bá cho đất nước Anh”.

Vị khách người Anh lịch sự đáp: “Cảm ơn các bạn, nhưng các bạn hãy học tiếng Anh vì Việt Nam, chứ đừng học vì nước Anh. Người Pháp và người Nga làm như thế vì họ cần phải làm thế. Chúng tôi sẽ giúp cái cần câu và cách câu cá”.

Vậy hãy chọn học ngoại ngữ trên cơ sở khoa học, chứ không vì ý muốn nhất thời để chiều lòng ai đó hay vì ý thức hệ, mà vì sự phát triển lâu bền của đất nước …

Đừng vì ai cho một ít tiền làm “dự án” là sẵn sàng mang con trẻ ra thí nghiệm và kết thúc bằng việc “thui chó nửa mùa hết rơm” rồi “đem con bỏ chợ” như đã từng xảy ra.

Càng không nên cực đoan, như một viện sĩ Viện KHGD một thời đưa ra đề xuất vừa thiển cận vừa phản khoa học là bỏ tất cả ngoại ngữ khác để chỉ học tiếng Nga (!) Thật may chuyện đó không xảy ra vì lãnh đạo ngành giáo dục khi ấy biết nhìn xa. Cũng không nên khước từ tiếng Hoa chỉ vì “sáng yêu – chiều ghét”. Hơn nữa, để hiểu đối phương hay đối tác, ta càng phải biết tiếng của họ. Cac trường như lí luận chính trị, ngoại giao, công an, quân đội, … hãy tiếp tục giảng dạy tiếng Hoa.

Một lần được hỏi Việt Nam nên học ngoại ngữ nào, tôi đáp: “Tiếng Anh và tiếng Hoa.” Vì tiếng Hoa là của một nền văn hóa lớn thuộc văn minh phương Đông. Song, học tiếng Hoa không phải vì lo tiếng Việt không trong sáng, … và càng không phải từ những cách nhìn phiến diện đầy cảm tính của mấy thày Nho.

Qua cách hành xử trong đời sống quốc tế, Trung Quốc mới thể hiện mình là một nước to– chứ chưa phải là cường quốc theo ý nghĩa đầy đủ của khái niệm này – chớ vội thấy đỏ đã ngỡ là chín.

Hãy cứ để tiếng Hoa ở vị trí hiện tại của nó là một trong các ngoại ngữ thứ hai tự chọn cho đến khi học sinh Việt Nam nói được ngoại ngữ thứ nhất cho ra hồn, chứ không phải nói ‘một thứ na ná tiếng Anh’ như hiện nay.

Hãy để yên cho các cháu học sinh được học thứ tiếng mà trong đó 95,9% tài liệu khoa học, công nghệ, XH-NV của nhân loại được xuất bản. Việc bình cái nghệ thuật chơi chữ Hán, cái hình tượng liễu yếu đào tơ bị anh chàng nào đó làm cho nẩy cái nét ngang ngày nay nên dành cho các thày Đồ nhâm nhi cùng bầu rượu túi thơ.

Nguyễn Phương


[1] [1] Không dạy đại trả tiếng Hoa. <http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/63994/>

[2] Trần  Việt Tú (dịch). Các Mác, tiểu sử, Tập 2, NXBKHX, trong Dọn vườn Tập1: 1955-1989, tr380. NXB TRẺ, 2013.

[3] https://en.wikipedia.org/wiki/Education_in_South_Korea

[4] https://en.wikipedia.org/wiki/Education_in_Japan

[5] http://www.japantimes.co.jp/life/2004/01/29/language/japan-is-learning-to-love-and-loving-to-learn-chinese/#.V8aKZVt97IU

[6] https://www.timeshighereducation.com/world-university-rankings/2016/subject-ranking/arts-and-humanities-0#!/page/0/length/25/sort_by/rank_label/sort_order/asc/cols/rank_only

[7]  Tổng cục Thống kê VN, 2009.

[8]  “Một số giải pháp về tổ chức dạy-học nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ngoại ngữ ở trường phổ thông”. Viện KHGDVN, 2001.

[9]  Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”.

[10] The number of Chinese learners in the USA. <http://thelinguafranca.wordpress.com/2008/08/18/>

[11]  Maria Bordons et al. (2004) Towards a Single Language in Science: A Spanish View..

[12]  Tạp chí thư viên Partnership <https://journal.lib.uoguelph.ca/index.php/perj/article/view/826/1358#.VJgR6sAGc>

[13]  Huntington, S. Sự va chạm của các nền văn minh. NXBLĐ (dịch), Hanoi, 2003.

Nguồn: http://www.viet-studies.info/NguyenPhuong_TiengHanTiengViet.htm

Comments are closed.