Nhất Linh – Giai đoạn cuối đời với Hội BÚT VIỆT và Giai phẩm VĂN HÓA NGÀY NAY ( trích)
Nhật Tiến
Hội Bút Việt
Theo nhà biên khảo Đoàn Thêm (1915-2005), tác giả bộ sách Hai Mươi Năm Qua (1945-1964), việc từng ngày thì Hội Văn Bút Việt Nam được chính thức thành lập ở Sài Gòn vào ngày 21-10-1957.
Và đáng ngạc nhiên thay, cũng theo tác giả Đoàn Thêm thì Hội Văn Bút Việt Nam đã xin gia nhập và được Hội Văn Bút Quốc Tế chấp nhận trong Đại hội Văn Bút QuốcTế lần thứ 29 tại Tokyo (Nhật Bản) ngày 2-9-1957, tức là trước ngày chính thức thành lập ở VN tới gần 2 tháng !
Ta có thể lý giải sự kiện tréo cẳng ngỗng này như sau: “Một nhóm nhà văn, nhà báo vào thời kỳ đó đã tự động ngồi lại với nhau, lập thành một nhóm cầm bút để xin gia nhập Tổ chức Văn Bút Quốc Tế (tên gọi chính thức hồi đó là PEN Club International, với ý nghĩa PEN là cây bút, mà cũng là chữ mang 3 mẫu tự đầu liên quan đến giới cầm bút, như P = Poets, Playwrights, E= Essayists, Editors, N=Novelists).
Hẳn cũng vì muốn dịch chữ PEN trong tên gọi mà Nhóm lấy tên là Hội Bút Việt.
Rồi sau khi được sự chấp thuận của Văn Bút Quốc Tế, Hội Bút Việt mới xin giấy phép hoạt động ở trong nước và do đó mới có ngày chính thức thành lập trễ gần 2 tháng như tác giả Đoàn Thêm đã ghi lại.
Văn nghệ sĩ thành lập Nhóm Bút Việt bao gồm nhiều cây bút lão thành. Có thể kể: Nhất Linh, Đỗ Đức Thu, Vũ Hoàng Chương, Vi Huyền Đắc, Đông Hồ Lâm Tấn Phác, Đào Đăng Vỹ, Nguyễn Hoạt, Mặc Thu, Nguyễn Thiệu Lâu, Bùi Xuân Uyên, Lê văn Siêu, Mai Lâm Nguyễn Đắc Lộc, Phạm Việt Tuyền, Nghiêm Xuân Việt, Lê văn Hoàn…v..v…
Nhóm tự nhận mình là “Một cây cầu vòng nối hai chân trời”, đó là chân trời văn hóa dân tộc với chân trời thế giới. Trong bài nhận định đăng trên Kỷ Yếu Bút Việt (mà Văn Hóa Ngày Nay in lại), trong có đoạn nói:
“Chiến tranh thứ hai chấm dứt. Những chân trời mới đã mở rộng ra cho những con người văn hóa chúng ta. Thế giới tự do đã dần dần tiến tới cuộc sinh hoạt cộng đồng về mọi mặt, vậy không có lý gì chúng ta chỉ thiên trọng phần tìm hiểu mà sao lãng phần tự giới thiệu. Chính vì mục đích đó mà Trung Tâm Bút Việt của tổ chức Văn Bút Quốc Tế được thành lập”.
Khi thành lập, Nhóm Bút Việt tuyên bố :
“Nhóm không phải là một tổ chức có hệ thống chặt chẽ, có chủ trương cương lĩnh hoặc đường lối nhất định nào hết. Nó không phải là một văn đoàn, văn phái. Cũng không phải là một hội ái hữu. Bút Việt chỉ là một câu lạc bộ của các nhà cầm bút muốn gặp nhau để trao đổi ý kiến về sáng tác, về công phu tìm hiểu cũng như công phu giới thiệu”.
Như vậy trong buổi khởi đầu, Nhóm Bút Việt đã hình thành trong một ý niệm hết sức rộng rãi và tự do. Các thành viên của Bút Việt sinh hoạt như một Câu lạc bộ và không có sự bầu bán nào. Mọi chức vụ điều hành hầu như chỉ theo cung cách phân công. Theo nhà báo Hiếu Chân Nguyễn Hoạt thì nhà văn Nhất Linh nhận chức vụ Cố vấn theo lời thỉnh cầu của nhiều người và chức vụ Chủ Tịch đầu tiên của Bút Việt là nhà văn Đỗ Đức Thu. Qua năm 1959, Bút Việt đã tham dự Hội Nghị Văn Bút Quốc Tế lần thứ 30, họp tại Francfurt (Tây Đức). Phái đoàn Việt Nam gồm có Chủ tịch Đỗ Đức Thu và một hội viên là nhà biên khảo Lê Văn Siêu.
………….
Trở lại sinh hoạt của Bút Việt, vào khoảng đầu năm 1959 sau khi tôi đã cho in tác phẩm đầu tay Những Người Áo Trắng do nhà xuất bản Huyền Trân ấn hành thì nhà văn Nhất Linh đã giới thiệu tôi gia nhập Hội. Vào thời gian đó thì danh xưng không còn là Nhóm nữa mà trở thành Hội, Hội Bút Việt, mà công việc tổ chức đã vào quy củ, như có trụ sở riêng, có con dấu riêng, có nhân viên thường trực được trả lương để trông nom trụ sở, hồ sơ, giấy tờ. Việc quản trị mọi thứ được giao cho ông Tổng thư ký Phạm Việt Tuyền khi ấy đang là Chủ nhiệm nhật báo Tự Do.
Theo nhà báo Nguyễn Hoạt trong bài “Hoài Niệm Nguyễn Tường Tam” in trên báo Văn số 156, ra ngày 15-6-1970 tại Sài Gòn thì trụ sở đầu tiên của Hội Bút Việt là ở đường Phan Đình Phùng, nhưng khi tôi gia nhập thì Hội đã dọn về số 39 đường Cô Bắc Sài Gòn. Đây là một con phố hẹp, tọa lạc ở ngay khu Chợ Cầu Ông Lãnh, đi khỏi Chợ, tới đường Đề Thám thì có lối rẽ vào.
Căn phố này có 2 tầng, tầng dưới dành cho gia đình ông Nguyễn Văn Hinh, là thư ký của Hội cư ngụ. Vị thư ký này không thuộc giới nhà văn, chỉ là thư ký hành chánh, nhưng cũng đã gắn bó với công việc của Hội bền bỉ cho tới tháng 4 -1975 (tôi đã có dịp nhắc tới công lao của vị này trong một bài viết năm 2009 nói về Trung Tâm Văn Bút)
Tầng trên của trụ sở Văn Bút chỉ kê vỏn vẹn có một cái bàn dài để hội họp, bên vách tường có một tủ kính đựng sách báo và hồ sơ.
Vào thời gian này, việc gia nhập Hội cũng rất giản dị. Tôi cứ y hẹn tới tham dự một kỳ họp của Ban Thường Vụ và được các vị hiện diện hôm đó bắt tay chào mừng. Thế là xong! Tôi đã trở thành một Hội viên của Văn Bút! Dù vậy, sau buổi họp thì tôi cũng phải điền vào một cái đơn xin nhập Hội, trong kê khai đầy đủ tên, họ, địa chỉ, năm sinh, nơi sinh, bút hiệu, các báo đã từng cộng tác và tác phẩm đã xuất bản.
Theo đúng chủ trương nhận mình là “Một cây cầu vòng nối hai chân trời”, Hội Bút Việt rất chú trọng đến công việc dịch thuật, nhất là việc dịch một số truyện ngắn của các nhà văn VN ra Anh và Pháp ngữ. Truyện dịch xong thì đăng trong tập Kỷ Yếu của Hội. Cũng có vài truyện được gửi đi dự Giải Truyện Ngắn của các nhà văn trong khu vực Á Châu và Thái Bình Dương (Pacific Rim). Hai tác giả VN có tác phẩm được gửi đi dự giải mà tôi còn nhớ là nhà văn Bình Nguyên Lộc (Ba Con Cáo) và nhà văn Linh Bảo (dường như là Tầu Ngựa Cũ). Về dịch giả thì phải kể tới hai người vẫn tham gia việc phiên dịch bền bỉ cho tới năm 1975. Đó là luật sư Nghiêm Xuân Việt, người chuyên dịch ra Pháp ngữ và dịch giả Lê Văn Hoàn chuyên dịch ra Anh ngữ.
Hội Bút Việt cũng tổ chức nhiều buổi nói chuyện về Văn học-Nghệ thuật thí dụ trong năm 1958 có vài buổi như Ông Vũ Huy Chấn, trong ban Chèo Cổ Đào Duy Từ thuyết trình về Chèo Cổ, nhà báo Phạm Việt Tuyền nói về “Vấn đề nghiên cứu Văn Hóa Á Châu với ý thức hệ Dân tộc”, nhà thơ Vũ Hoàng Chương nói về “Giấc mộng giải thoát của Thi nhân” . Khi Hội chưa có trụ sở riêng khang trang thì các buổi nói thường được tổ chức tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ hay Hội trường của Đại Học Văn Khoa, còn những năm về sau thì các buổi nói chuyện hàng tháng được tổ chức tại trụ sở của Hội ở số 107 Đoàn thị Điểm Sài Gòn.
Hội Bút Việt về sau đổi danh xưng thành Trung Tâm Văn Bút Việt Nam kể từ nhiệm kỳ Chủ tịch là thi sĩ Vũ Hoàng Chương kế nhiệm nhà văn Đỗ Đức Thu, và Chủ tịch sau cùng là LM Thanh Lãng. Trong những nhiệm kỳ sau này, ban Thường Vụ tăng cường thêm nhân sự, bao gồm Chủ tịch, 2 Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và một số Ủy viên như Dịch thuật (Anh, Pháp ngữ), Xuất bản (nguyệt san Tin Sách). Riêng các chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ Tịch và Tổng Thư ký thì đều phải thông qua một cuộc bầu phiếu tại Đại Hội Văn Bút được tổ chức cứ 2 năm một lần. Những văn hữu ở xa có thể gửi giấy ủy quyền để tham dự bầu cử. Chương trình hoạt động của Văn Bút do đó ngày càng phong phú với sự tham gia đông đảo của nhiều văn nghệ sĩ trong các hoạt động.
Có thể kể như Hội mở Câu Lạc Bộ Văn Nghệ Sĩ để các nhà văn, nhà thơ, nhà báo lui tới gặp gỡ nhau bàn chuyện văn nghệ riêng tư; rồi tổ chức các buổi nói chuyện hàng tháng, ra tờ nguyệt san Tin Sách chỉ chuyên loan những tin tức về sách hay các bài phê bình sách, các bài nói chuyện trong tháng. Văn Bút còn lập Giải Văn Chương hằng năm, như năm đầu (1970) dành cho thể Thi Ca (hai nhà thơ Tường Linh với Sầu Tuổi Đá và Hoàng Lộc với Trái Tim Còn Lại chiếm giải đồng hạng), qua năm sau, thể loại Biên Khảo, tác giả Lê Hương với cuốn Lịch Sử Người Việt tại Kampuchea từ năm 1853 đến 1970 đoạt giải, rồi những năm kế tiếp có thể loại Truyện Ngắn (nhà văn Minh Quân đoạt giải với truyện ngắn Những Ngày Cạn Sữa), thể Truyện Dài (nhà văn Nguyễn Mộng Giác đoạt giải với truyện dài Bóng Thuyền Say). Cho đến năm 1975 dự tính trao giải cho thể loại Kịch thì biến cố 30-4 xẩy đến, Hội đã phải hoàn toàn ngưng hoạt động.
Ngoài ra, Văn Bút còn đề cử Hội viên ứng cử vào Hội đồng Văn Hóa Giáo Dục, một tổ chức cấp Quốc Gia, theo quy chế Hiến Định. Nhiệm kỳ nào của Hội Đồng cũng có thành viên Văn Bút. Như nhiệm kỳ I (1972-1974) có LM Thanh Lãng, nhiệm kỳ II (1974-1976) có Nhật Tiến, cả hai đều đắc cử nhân danh đại diện cho Trung Tâm Văn Bút VN.
Trong khuôn khổ bài viết chỉ nói về Nhất Linh nhân dịp triển lãm và hội thoại về hai tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay, tôi xin tạm chấm dứt phần nhắc tới Hội Bút Việt và xin bước qua phần Giai Phẩm Văn Hóa Ngày Nay do Nhất Linh chủ trương.
Giai Phẩm VĂN HÓA NGÀY NAY
Năm 1951 nhà văn Nhất Linh từ bỏ cuộc sống lưu vong ở Hồng Kông để trở về Hà Nội. Một năm sau, tức năm 1952, Ông thành lập nhà xuất bản Phượng Giang, sau đổi tên thành Đời Nay rồi Ngày Nay. Nhà xuất bản này trong những năm đầu hoạt động hầu như chỉ chuyên tái bản các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn, mặc dù cũng in một số tác phẩm của vài cây viết mới như Nguyễn Thị Vinh với Thương Yêu, Hai Chị Em, Linh Bảo với Gió Bấc, Duy Lam với Gia đình tôi, Tường Hùng với Gió Mát. Năm 1961, cuốn Thềm Hoang của tôi được ông ấn hành dưới tên nhà xuất bản Đời Nay (xin coi hình)
Tập 1 (Tháng 6-1958) Tập 11- (Tháng 4-1959)
Số đầu Số cuối
Năm 1958, Nhất Linh chủ trương Giai Phẩm Văn Hóa Ngày Nay mà số đầu ra mắt vào ngày 17-6-1958, một ngày mà theo nhà báo Hiếu Chân thì Nhất Linh cố ý lựa chọn vì 17-6-1930 là ngày mà những liệt sĩ Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị Thực dân Pháp đưa lên đoạn đầu đài xử trảm tại Yên Bái.
Văn Hóa Ngày Nay (VHNN) không được chính phủ đương thời coi là một tờ báo. Nó chỉ được gọi tên là một Giai Phẩm. Theo dịch giả Trương Bảo Sơn, một đồng chí thân cận của Nhất Linh thì vì chính quyền lo ngại tên tuổi của Nhất Linh nên VHNN không được phép xuất bản như một tạp chí được phát hành có định kỳ. Ngoài ra, theo ông thì tờ báo còn bị Cơ quan kiểm duyệt Bộ Thông Tin cố tình giữ lâu mới trả bản thảo để mang in, gây tình trạng báo ra chậm trễ nên không thể có hạn kỳ nhất định cho ngày ra báo.
Trong bài “Văn Hóa Ngày Nay với Văn Hóa Việt Nam” mở đầu cho số ra mắt, coi như một “tuyên ngôn về văn hóa”, nhà văn Nhất Linh nhận định:
“Văn Nghệ Việt Nam hơn mười năm nay vẫn ở trong tình trạng ngưng đọng, chưa tìm được lối đi. Một số lớn bình luận gia và văn nghệ sĩ cho rằng văn nghệ chậm tiến vì không biết phụng sự thời đại; họ cố bắt mạch cho được ý thức công cộng của nhất thời để khơi xúc động trong lòng độc giả. Thế rồi nhiều tác phẩm ra đời để ướm thử, thăm dò dư luận nhưng chỉ ít lâu sau đều chìm trong lãng quên !” (VHNN tập I- trang 17)
Để khắc phục tình trạng bế tắc này, Văn Hóa Ngày Nay đề ra chủ trương :
“ Không đề cập đến vấn đề chính trị, kinh tế, khoa học: tập san của chúng tôi sẽ nặng về phần tìm sống hơn về phần tìm hiểu”(VHNN tập I- trang 18)
(phần chữ in nghiêng là của chính tòa soạn VHNN muốn nhấn mạnh).
Hẳn cũng đã có nhiều độc giả thấy khó nắm vững được ý tưởng của tòa soạn trong chủ trương này, vì hiểu như thế nào là tìm sống? Và tại sao lại gắn chuyện tìm sống với chuyện tìm hiểu để có chủ trương tìm sống sẽ đặt nặng hơn tìm hiểu. Mà nếu coi nhẹ việc tìm hiểu thì thành quả của sự tìm sống sẽ có được tốt đẹp không?
Tuy nhiên, suy nghĩ kỹ thì ý nghĩa của hai chữ “tìm sống” hình như đã được giải thích thêm trong đoạn dưới của bài nhận định :
“Về tư tưởng, chúng tôi sẽ giải quyết những thắc mắc thời đại và cố đi đến một nhận định đúng đắn về vũ trụ, về đời người; đã đến lúc loài người phải giở sổ soát lại vốn tư tưởng quá khứ để định hướng đi tương lai, tìm chân lý làm kim chỉ nam cho người đời giữa biển khơi sóng gió.” (VHNN -Tập I-trang 19)
Đoạn văn này cho người đọc cái cảm tưởng như đấy là một chủ trương của một tổ chức tôn giáo hơn là đường lối chỉ đạo cho nội dung của một tờ báo. Nhưng ở nhiều trang khác, nhà văn Nhất Linh lại đã luôn luôn nhấn mạnh đến quan điểm nghệ thuật của Văn Hóa Ngày Nay là: “Văn chương phải có giá trị vượt thời gian và không gian”.
Quan điểm này không có gì phải thắc mắc. Trong gia tài văn hóa dân tộc đã có đầy dẫy những tác phẩm có giá trị “vượt không gian và thời gian”. Nhưng trong sinh hoạt chữ nghĩa, dù là sách hay báo, nhiều khi những vấn đề nhỏ nhặt thời sự hàng ngày – hay nói theo ngôn từ của Giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay là ý thức công cộng của nhất thời – sẽ cũng vẫn là những nhu cầu của độc giả. Nhất là trong bầu không khí khởi sắc của những năm cuối thập niên 50’s, dân chúng miền Nam bắt đầu tạo dựng cho mình một đời sống tự do khác biệt với miền Bắc CS.
Ở thời điểm đó, sau cuộc chia đôi đất nước mới chỉ vài ba năm nên có thể coi như một vết chém chia lìa dân tộc chưa ngưng rỉ máu. Cuộc di cư khổng lồ với cả triệu con người từ Bắc vô Nam tất gây xáo trộn trong cả nước và như thế thì hẳn đời sống có rất nhiều vấn đề thời sự nóng hổi bầy ra trước mắt. Vậy thì việc từ bỏ ý thức công cộng của nhất thời để chỉ đi tìm những đề tài vĩnh cửu sẽ có khiến cho người sáng tác quay lưng lại với thực tế hay không?
Nói thế không phải tôi phủ nhận quan điểm làm báo của VHNN. Thế giới chữ nghĩa là cả một rừng hoa với nhiều mầu sắc. Văn Hóa Ngày Nay đương nhiên là một tạp chí tô điểm thêm cho sinh hoạt báo chí thời đó vốn đã vô cùng sôi nổi với nhiều tờ báo danh tiếng khác như Đời Mới, Vấn Đề, Sáng Tạo, Bách Khoa, Văn Hóa Á Châu, Quê Hương v..v..
Tuy nhiên, sau vài số đã phát hành, có vẻ như Văn Hóa Ngày Nay đã hiện diện như một bông hoa tuy nhiều hương sắc nhưng lại có vẻ như lạc lõng giữa dòng đời đang trôi đi hối hả. Đọc những trang chính Nhất Linh trả lời thư độc giả ở những số đầu, ta thấy hầu như Ông chưa nhận ra được sự lạc lõng này. Ông vẫn bộc lộ sự chủ quan qua những lời lẽ như nhận mình là con voi nằm thù lù trong sở thú, hay trách độc giả sao bắt ông làm việc quá nhiều trong khi ông cũng chỉ có 24 giờ như mọi người…
Mặt khác, Nhất Linh lại là một nhân vật nổi tiếng với nhiều thành tích văn học quá lẫy lừng. Phải chăng chính sự nổi tiếng này đã trở thành một yếu tố bất lợi cho chính ông bởi vì các độc giả đã kỳ vọng ở nơi ông quá nhiều. Cứ nhìn số báo ra mắt Văn Hóa Ngày Nay được đón nhận thế nào thì đủ thấy. Theo học giả Đoàn Thêm trong cuốn “Hai Mươi Năm Qua, việc từng ngày”, thì VHNN số đầu tiên đã bán hết tới 10 ngàn số, và Thế Uyên, người cháu gọi Nhất Linh bằng Bác còn tiết lộ trong cuốn “Chân Dung Nhất Linh” do tạp chí Văn ấn hành, rằng :
“Trước khi phát hành Văn Hoá Ngày Nay số 1, Nhất Linh dự đoán sẽ bán được năm ngàn số. Duy Lam lạc quan hơn, đưa con số tám ngàn. Tất cả đều đoán sai. Tám ngàn là con số bán hết trong mấy ngày đầu, sau đó phải in đi in lại nhiều lần.”
Nếu đúng như thế thì đây là một kỷ lục mà sau đó chưa có một tạp chí văn nghệ nào theo được bén gót. Nó cũng nói lên rằng độc giả đã quý trọng và đón chờ công trình văn hóa mới của Nhất Linh như thế nào sau biết bao nhiêu biến cố lớn lao của đời sống, cả chính trị lẫn văn học.
Ta hãy thử xem trong VHNN số đầu tiên đã chứa đựng những gì ?
Điểm sơ qua thì thấy Nhất Linh dành tới 6 trang để trả lời thư độc giả xa gần ở nhiều tỉnh từ Huế vào Sài Gòn, từ Biên Hòa, Vũng Tầu xuống Mỹ Tho, Trà Vinh … Báo chưa phát hành mà đã có nhiều độc giả gửi thư về tòa soạn đến thế. Họ có thể là những độc giả tò mò hay hối hả gửi thư chất vấn ông ngay cả khi tờ báo chưa ra số đầu chăng?
Ngoài phần trả lời thư độc giả, Nhất Linh còn viết 4 bài khác, trong đó có 2 sáng tác gồm truyện ngắn Bắn Vịt Trời và truyện dài Xóm Cầu Mới, cộng 1 bài nghị luận “Văn Hóa Ngày Nay với Văn Hóa Việt Nam” như đã nhắc ở trên và thêm một bài khởi sự cho tập biên khảo “Viết và đọc Tiểu Thuyết”.
Nhà giáo Nguyễn Thành Vinh, một đồng chí của Nhất Linh trong lãnh vực chính trị, viết 1 bài bình luận nêu cao chủ trương “Văn chương phải có giá trị vượt thời gian và không gian”, Trương Bảo Sơn dịch Một Bản Đàn của Leon Tolstoї, Nguyễn thị Vinh có truyện dài Cô Mai, Duy Lam, một cây viết mới có tới 4 bài, và Tường Hùng cũng là một cây viết mới có 2 bài, hầu hết là loại văn vui. Sau cùng là những truyện ngắn của các tác giả, cả mới lẫn cũ như Khái Hưng, Đỗ Đức Thu, Bình Nguyên Lộc, Linh Bảo, Quỳ Hương.
Một nội dung như thế, có thể gây đôi chút cảm giác ngỡ ngàng cho người đọc sau những ngày chờ đợi. Gọi là ngỡ ngàng vì Giai phẩm VHNN hầu như không đáp ứng được nhu cầu đọc sách của độc giả lúc đương thời. Hàng triệu con người vừa di cư vào Nam, trước cuộc sống mới vô vàn khó khăn, bỡ ngỡ, với biết bao nhiêu nhu cầu đặt ra trước mắt và biết bao nhiêu vấn đề phải đối phó, tất nhiên nội tâm của họ phải sôi động, tâm tình phải gắn bó với cuộc sống đang dồn dập thay đổi xẩy ra từng ngày, từng giờ ở chung quanh. Sống trong một hiện trạng xã hội như thế, hẳn độc giả rất muốn được nghe tiếng lòng của Ông, hoặc nghe ông kể về những kinh nghiệm dầy dạn trong sinh hoạt cả về Văn Chương lẫn Chính trị khi họ tuyên xưng Ông vừa là một Văn gia, lại cũng vừa là một Chính trị gia lão thành.
Vậy mà trong những trang sáng tác mới, những nhân vật vượt không gian và thời gian của Ông như Cô Mùi, như Ông Năm Bụng, như Bà mẹ Lê v..v.. tuy vẫn là những hình tượng vĩnh cửu, nhưng lại thiếu ngọn lửa hừng hực của cuộc sống đương thời và đó không phải là những nhu cầu mà người đọc đã nôn nóng chờ đợi như khi vừa nghe tin “nhà văn Nhất Linh xuống núi, ra báo trở lại”.
Cảm nhận này không chỉ ở phía đa số độc giả mà ở ngay cả những người trong nhà, lại là những người cũng đã trở thành nhà văn sau này. Tôi muốn nói đến hai nhà văn Thế Uyên và Duy Lam, những người có họ hàng ruột thịt với Nhất Linh và cũng đã tiếp cận với ông khi VHNN đang được chuẩn bị ra số đầu. Duy Lam thực sự là một cây bút chủ lực của VHNH, nhưng Thế Uyên thì lại không thấy xuất hiện bài nào. Trong cuốn “Những Ý Nghĩ Của Bọt Biển”, nhà văn Thế Uyên đã thuật lại rằng khi chủ trương ra tờ Văn Hóa Ngày Nay, Nhất Linh đã nói với ông rằng: “cháu viết được nhưng kiểm duyệt không cho đăng đâu.”
Khi VHNN đã ra được vài số, cả Duy Lam lẫn Thế Uyên cũng đều có cảm nhận giống như tôi đã trình bầy ở trên. Trong tập “Chân Dung Nhất Linh” do tạp chí Văn ấn hành, Thế Uyên đã viết trong bài “Người Bác” như sau:
“Cả hai đứa đều không chịu nổi những bài khảo luận linh tinh, những bức thư Nhất Linh viết trả lời độc giả. Đọc loạt bài này đôi khi thấy cũ kỹ và lẩm cẩm. Về văn, tuy vẫn phục nghệ thuật phân tích tâm lý, nghệ thuật trình bày nhân vật, nhưng tôi đã cảm thấy Nhất Linh không còn là nhà văn của thế hệ trẻ. Trường giang tiểu thuyết Xóm Cầu Mới có những nhân vật đặt trong một không gian thật xa cách.”
Điều này hầu như cũng là nguyên do khiến cho chỉ sau vài số, số lượng báo VHNN bán ra đã sút giảm dần.
Dịch giả Trương Bảo Sơn sau này góp bài viết trong cuốn “Nhất Linh, Người Nghệ Sĩ-Người Chiến Sĩ” do Thế Kỷ xuất bản năm 2004, đã nêu nhận xét:
“Tập Văn Hóa Ngày Nay bán chạy như tôm tươi mấy số đầu, đã bị ế đi. Nhà phát hành độc quyền của chính phủ đã thi hành độc kế không gửi đủ số báo cho các tiệm sách đã đặt mua. Chúng tôi khi buộc báo thành từng bó đã cố ý đánh dấu riêng, khi nhận báo từ nhà phát hành trả về, thấy những dấu ấy vẫn còn y nguyên, tức là nhà phát hành đã không làm đúng nhiệm vụ, đã giữ báo của chúng tôi trong kho, không phân phối đi. Có những tiệm sách đến điều đình mua thẳng báo với chúng tôi để có đủ báo bán, nhưng chúng tôi phải từ chối vì sợ chính quyền gài bẫy. Ðã nghèo lại bị thua lỗ, chúng tôi đành đình bản tờ Văn Hóa Ngày Nay.”
Có thể đấy lý do chính mà tờ Văn Hóa Ngày Nay bị đình bản, nhưng cũng chưa hẳn đó là lý do duy nhất. Dù tờ báo có bị chính quyền cấm cản bằng những thủ đoạn nào thì cũng không thể bỏ qua yếu tố độc giả, là những người cũng đã ít nhiều trực tiếp tham dự vào sự sống còn của một tờ báo. Sau vài số báo, có chăng sự kiện độc giả không còn hứng thú theo dõi VHNN như trước nữa nên báo ế và nhà phát hành có thể đã kìm hãm những cọc báo không gửi đi các tỉnh cho đỡ tiền cước phí?
Dẫu sao thì sự sút giảm độc giả hẳn cũng làm nản lòng người chủ trương VHNN. Cũng trong bài “Người Bác” nói trên, nhà văn Thế Uyên còn cho biết:
“Sau khi Văn Hoá Ngày Nay số 8 phát hành, Nhất Linh tuyên bố với người thân: “Thôi, không làm nữa!”. Bạn bè xúm lại can. Nể người thân, ông chịu để Tường Hùng và Duy Lam tiếp tục. Ra tiếp hai số, ông cương quyết kết liễu Văn Hoá Ngày Nay. “Nó đã làm xong nhiệm vụ!”.
Nếu sự thể đã xẩy ra đúng như vậy thì số báo cuối cùng do Tường Hùng và Duy Lam thực hiện chỉ còn 98 trang kể cả 8 trang quảng cáo, so với số đầu dầy tới 180 trang, tức là về hình thức đã sa sút gần một nửa.
Trong ngót 100 trang của số 11, tức số cuối cùng này, truyện dài Cô Mùi của Nhất Linh chiếm tới 25 trang, tức hơn ¼ số báo, một điều khá kỵ trong kỹ thuật làm báo. Cũng như vậy, truyện ngắn Ả Hầu của Đỗ Tốn cũng bị chia cắt thành 3 kỳ (khởi đăng từ số 9), cũng làm độc giả bớt hứng thú theo dõi. Cũng trong số này, nhà thơ Bùi Khánh Đản chiếm tới 7 trang Thơ, cũng là một sự thiên vị bất thường. Và theo thông lệ, ngòi bút Duy Lam vẫn giữ vai trò chủ lực. Ông có tới 5 bài, 2 bài bình luận: một về Văn, một về Hội Họa, 3 bài còn lại là văn vui. Tường Hùng chỉ có một bài duy nhất “Kiểu mẫu Thanh Niên”, cũng là văn vui.
Ngoài ra, những sáng tác khác vẫn gồm 4 truyện dài của Nhất Linh, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo và bản dịch truyện của Leon Tolstoї.
Một số báo như thế báo hiệu sự sa sút rõ rệt về mặt nội dung, càng là lý do để ta có thể đánh giá mức độ đón nhận của độc giả đối với tờ VHNN ra sao.
Tuy nhiên, tờ Văn Hóa Ngày Nay đình bản dẫu vì bất cứ lý do nào, kể cả sự liên đới của nhà văn Nhất Linh đối với vấn đề chính trị lúc đương thời, thì cũng là một điều đáng tiếc!
Tiếc nhất là VHNN chỉ ra được 11 số nên không còn cơ hội tiếp tục vun trồng và khích lệ những cây bút mới như: Duy Lam, Tường Hùng, Tuyết Hương, Trần Tuấn Kiệt, Lê Tất Điều, Đỗ Phương Khanh, Đặng Phi Bằng v.v. và cả chính tôi, Nhật Tiến nữa. Một số người trẻ đã nhờ Văn Hóa Ngày Nay mà có đà để đi được những chặng đường xa hơn.
***
Do quen biết với gia đình nhà văn Nguyễn Thị Vinh nên sau khi VHNN đình bản, tôi còn có vài cơ hội gặp gỡ nhà văn Nhất Linh ở nhà in Việt Liên, đường Gia Long Sài Gòn do bà Nguyễn Thị Vinh làm chủ. Có một buổi gặp gỡ mà mãi sau này trong ký ức của tôi vẫn thấy như là mới mẻ, đó là buổi tối của hôm trước khi xẩy ra cuộc đảo chính ngày 11-11-1960. Nhà tôi, Đỗ Phương Khanh thì đã lên lầu trò chuyện với anh chị Trương Bảo Sơn và Nguyễn Thị Vinh. Ở tầng dưới, nhà văn Nhất Linh ngồi trầm ngâm bên một cái bàn nhỏ, chung quanh đầy những cột ram giấy của nhà in chất cao nghệu.
Thấy tôi, ông mỉm cười và rủ tôi chơi bài domino. Thế là tôi xà vào bên ông, vui vẻ đổ cỗ bài lên mặt bàn và ngắm nhìn ông xếp những con bài nhựa bằng đôi bàn tay đã bắt đầu hơi run run. Có lẽ đấy là lần đầu tiên tôi có cảm giác gần gũi với ông nhất. Bởi vì sự liên hệ giữa tôi và ông lúc này chỉ là hai con người trong một trò giải trí chứ chẳng phải là giữa một nhà văn vốn đã lừng lẫy trong suốt một chiều dài của lịch sử Văn học Việt Nam với một thanh niên mới chỉ có 24 tuổi đời, vừa chập chững đi vào thế giới của văn chương. Tôi nhớ là mình đã “gí” ông tận tình và rất thích thú nhìn đôi lông mày rậm của ông nhíu lại, vầng trán cao ngất phảng phất nhiều nếp nhăn, và mỗi khi phản công lại thì ông mỉm cười, nụ cười nom rất hiền từ và bao dung khiến tôi thấy lòng mình như ấm áp hơn lên.
Trong những giây phút thân ái đó, tôi thật đâu có ngờ là đầu óc của ông lại còn đang suy tưởng về một cuộc đảo chính sắp sửa xẩy ra, chỉ trong vài giờ sau đó!
1 giờ 30 sáng ngày 11-11-1960, tiếng súng bắt đầu rộ lên trong thành phố. Tiếng súng của phe đảo chính!
Cuộc đảo chính mà sau này nhiều người cho là ông không trực tiếp tham dự nhưng biết trước và có ủng hộ tinh thần. Tôi cũng muốn đồng ý như vậy, bởi vì nếu ông là người có dính líu đến nội vụ thì hẳn tối hôm trước, ông đã chẳng ngồi chơi domino với tôi như thế.
Thế nhưng một đồng chí của ông, dịch giả Trương Bảo Sơn trong bài “Những kỷ niệm riêng với Nhất Linh Nguyễn Tường Tam” in trong cuốn “Nhất Linh, người chiến sĩ – người nghệ sĩ”, do Thế Kỷ 21 xuất bản năm 2004, thì lại cho biết về việc làm truyền đơn trong biến cố 11-11-1960 này như sau:
“Khi thảo truyền đơn, trong danh sách những người ký tên, chúng tôi đã để tên Nguyễn Tường Tam lên đầu, rồi mới tới tên các cụ Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Trần Văn Văn, Nguyễn Xuân Chữ v.v… Ông Tam đã sửa lại để tên ông sau tên ông Chữ. Trước sự ngạc nhiên của tôi, ông giải thích: “Anh đừng quên người ta vẫn nói miền Nam của người Nam, mình là người Bắc di cư, phải lưu tâm và tôn trọng điều đó.”
Mặc dù có liên quan hay không thì ông vẫn bị chính quyền quản thúc tại gia và đưa ra tòa xét xử vào ngày 11-7-1963. Thế nhưng, ngày 7-7-1963 ông đã dùng độc dược quyên sinh vì đời ông, ông chỉ chịu để cho lịch sử phán xét.
Sự ra đi của ông là một mất mát lớn lao cho văn giới.
Không mất mát lớn lao sao được khi một nhân tài lỗi lạc như thế đã không còn nữa.
Một nhân tài mà quý nam của Nhất Linh, ông Nguyễn Tường Thiết đã tóm gọn một câu về cuộc đời của thân phụ ông trong cuộc phỏng vấn do ký giả Lê Quỳnh Mai thực hiện trên Tạp chí Hợp Lưu số tháng 7 & 8 năm 2008, như sau :
“Tôi suy nghĩ về toàn thể cuộc đời ông. Từ hồi ông có bài thơ đăng báo Trung Bắc Tân Văn năm ông mới 16 tuổi, cho đến ngày ông mất năm ông 57 tuổi. Ông đã sống một đời lỗi lạc, làm được quá nhiều việc trong một đời ngắn ngủi. Một người bận rộn như thế, nổi tiếng như thế, thì làm gì có được một cuộc sống thanh thản, bình dị, như cuộc đời nơi mỗi chúng ta?”
Và ông Thiết đã kết luận chính xác như đã nói thay cho mọi người rằng :
“ …Tôi tin rằng sự nghiệp của cha tôi sẽ trường tồn không phải đơn thuần nhờ vào văn tài của ông mà còn nhờ vào sự ngưỡng mộ và quý trọng về cả con người, cuộc đời và cái chết của ông nữa.”
Còn riêng đối với tôi, một người cầm bút sau Nhất Linh cả một thế hệ, khi ông mất đi, tôi vừa thấy đã mất một nhà văn lão thành, vừa mất một nguồn khích lệ lớn lao trên con đường văn nghiệp của tôi vì ông đã khuyến khích tôi rất nhiều sau khi đọc xong bản thảo cuốn truyện dài đầu tay của tôi. Rồi ông lại dành chỗ trang trọng để đăng tải những truyện ngắn của tôi trên Văn Hóa Ngày Nay, tờ báo tiếp nối công trình của Phong Hóa và Ngày Nay. Ông cũng lại ân cần giới thiệu tôi vào Trung Tâm Văn Bút, nơi mà tôi đã có dịp được sinh hoạt liên tục trong suốt gần 20 năm sau đó, cho đến khi miền Nam mất vào tay CS. Có thể nói tóm gọn, con đường đi vào thế giới Văn chương Chữ nghĩa của tôi đã có được sự khích lệ của nhà văn Nhất Linh rất nhiều.
Để có cơ hội viết bài này, tôi cũng xin cám ơn nhà văn Phạm Phú Minh và những vị trong ban tổ chức Triển lãm và Hội luận về hai tờ báo Phong Hóa – Ngày Nay. Nếu không có lời mời tham dự của quý vị thì tôi không có dịp ngồi ôn lại những kỷ niệm trong lãnh vực văn chương ở vào thuở khai sinh Việt Nam Cộng Hòa mà khi đó mọi người đã cùng gắng công vun đắp một Miền Nam Tự Do với vô vàn sinh hoạt văn hóa phong phú, đa dạng mà sức lan tỏa vẫn còn cho đến tận ngày nay.
N. T.
Garden Grove, California ngày 20 tháng 5 năm 2013