Chương XVI
Mùi đi cân gạo
Siêu đặt chén nước chè xuống khay, hỏi Mùi:
“Đã đến giờ đi chưa?”
Mùi nhìn đồng hồ nói:
“Chưa anh ạ”.
“Thế sao cô phải dậy sớm thế và đánh thức tôi dậy sớm thế. Chè tàu sáng nay ngon mà phải uống vội mất cả thú”.
Ông Lang cũng chen vào:
“Có phải không. Uống chè tàu mà uống vội mất cả ngon. Được cái tôi có tính dậy sớm nên tha hồ thong thả uống nước chè. Người tây họ uống nước chè, họ uống từng cốc to và cho đường vào, thế thì còn lý thú gì”.
Siêu nói tiếp:
“Vâng, cháu cũng thấy thế. Và nhà tây nữa, họ ở họ ăn, ngồi chơi mà đi ngoài đường ai cũng cứ nhìn thông thống vào, ở như thế thì khó chịu chết. Có phải không chú?”
Nói xong Siêu mới thấy câu của mình về nhà tây không ăn nhịp gì lắm với việc uống nước chè đường. Nhưng chàng nói ra vì xưa nay chàng vẫn ghét lối sống lồ lộ trước mắt mọi người và sáng nay Mùi đi cân gạo nhắc chàng đến câu chuyện có tiền về quê làm cái nhà lối ta có hiên rộng và có hàng rào găng ta che khuất.
Mùi rót ít nước sôi vào chén uống, thỉnh thoảng lại nhìn đồng hồ. Nàng hồi hộp không yên lúc đã sắp đến giờ ra cửa hàng cân lần đầu. Mùi không muốn ra sớm quá, sợ ngượng với các bà cân khác; vả lại ra sớm mà ngồi trơ ra với cái cân không có người hàng sáo nào, kể cũng hơi phiền trong một ngày mở hàng. Ra chậm quá cũng không được vì người khác ra sớm mua tranh mất nhiều. Thành thử Mùi cứ thấp thỏm, không biết lúc nào ra thì vừa đúng. Sau cùng nàng cặp tráp tiền đứng lên:
“À, nặng quá”.
Siêu cũng đứng lên:
“Cô đưa tôi mang cho”.
“Không được, anh phải mang gậy cơ mà. Nó có đến mà anh vướng tráp bạc thì làm thế nào”.
Lúc đi qua gốc cây thị, Mùi bảo Siêu:
“Cây thị này có ma, mọi sáng đi qua em vẫn sợ lắm. Từ hôm nay giở đi thì hết sợ”.
Nghe Mùi nói thế, Siêu lấy cái gậy vụt mấy cái vào thân cây thị, nhưng mặc dầu lý trí bảo chàng không có ma, lúc vụt chàng cũng thấy rờn rợn ở tay.
“Làm gì có ma. Cô chỉ được cái thần hồn nát thần tính”.
“Sao anh bảo không có ma. Em đã trông thấy ma rồi, ba con tất cả”.
“Ghê nhỉ, cô tả cho tôi nghe”.
“Ba con như ba ngọn lửa nó chạy ở trên bãi tha ma”.
Siêu cười:
“Ma đâu, lửa đấy. Ma ấy thì tôi có thể làm cho cô xem”.
Mùi cũng cười:
“Anh làm được cả ma”.
“Làm ra ma không khó gì, nhưng làm được ma cũng không giầu thêm đồng xu nào. Để hôm nào tôi giảng cho cô tại sao lại có ma trơi, ma đống. Xương người chết có chất lân tinh, chất lân tinh ở mộ bốc lên gặp không khí nó cháy, nếu có gió nó đi chơi thì gọi là ma trơi, nếu im gió nó ngồi yên thì gọi là ma đống. Cô đã hiểu chưa và hết sợ chưa?”
Mùi mỉm cười thấy Siêu nói để hôm nào giảng mà lại giảng ngay. Nàng hiểu nhưng nàng thấy chất ấy ở trong xương người chết trong mộ bốc ra rồi tự nhiên lại bùng cháy được, thế thì chất ấy đích thị là ma rồi còn gì nữa. Trước nàng vẫn còn cho có thể là lửa đóm của những người đi bắt ếch, nay được biết rõ là có lửa thật ở mả bốc lên không phải là lửa đóm; nàng lại càng tin là có ma thật.
“Anh nói thế em lại càng sợ thêm”.
“Cô sợ chất lân tinh”.
“Chất gì không biết. Nhưng anh bảo nó ở xương người chết nó bốc ra, tự nhiên nó lại cháy bùng lên được rồi lúc nó ngồi lúc nó đi chơi, ma ấy mới sợ”.
Siêu thấy Mùi nói một cách thành thực, không phải đùa.
“Hôm nào thong thả tôi phải giảng cho cô nghe về khoa học và nhất là hoá học cho cô hết sợ ma. Hoá học nhiều cái thần tình lắm cơ”.
Rồi chàng bật cười tiếp:
“Vì hoá học thần tình nên tôi chỉ chuyên về hoá học, thành ra đi thi trượt luôn hai năm. Nhưng không sao, cô cứ cân gạo, tôi cứ cố tìm tòi, xem người nào giầu trước”.
Hai người đã đi vào bóng cây đa cốc. Siêu đứng lại nhìn cho đến khi Mùi đi khuất rồi chàng vác gậy trở về.
“Nhất định làm gì có ma”.
Tuy nghĩ thế và tin chắc là thế, Siêu cũng thấy rợn cả người lúc đi qua một mình dưới gốc cây thị. Chàng nắm chặt gậy đề phòng ma báo thù chàng đánh nó ban nãy.
<
Bác Lê gái thấy Mùi đi qua hỏi:
“Hôm nay cô mở cửa hàng cân gạo. Chúc cô phát tài”.
Bác nhìn vào cái tráp có vẻ nặng tiền của Mùi:
“Cô đi một mình từ trong nhà ra đấy à?”
Mùi không đáp vì không dám nói đi với Siêu và cũng không dám nói là đi một mình. Lúc đó nàng mới nhận thấy rõ là Siêu đã nói đúng khi bảo là đi đưa nàng không tiện. Mùi nói:
“À, sáng mai phải bảo anh Nhỡ vào đón”.
Lúc ra đến chỗ các quán cân gạo, Mùi thấy bà Huyện Thanh, cụ Hai Sinh, bà Đồ Minh đã ra nhưng đương sửa soạn chưa bắt đầu cân. Bỗng Mùi chớp mắt một cách ngạc nhiên nhìn vui sướng; ở trước cửa hàng bác Liễn mà nàng đã thuê để đổ gạo, hàng sáo ngồi đợi đông lắm. Bà Ký Ân chưa ra nhưng chung quanh cân bà ta không có người nào. Mùi cúi đầu chào cụ Hai Sinh và bà Huyện Thanh một cách rất lễ phép, cung kính hơn mọi lần. Nàng thích lắm khi nghe thấy sau lưng tiếng bà Huyện Thanh nói với bà Ký Sinh:
“Con gái tôi thật là đảm đang. Cô ấy năm nay dễ mới mười bảy mười tám”.
Hai câu ấy nói liền nhau tỏ ra rằng các bà đương phục nàng còn ít tuổi thế mà đã thông thạo đi cân được gạo. Đám hàng sáo rẽ ra để Mùi đi vào:
“Cô để cháu bán mở hàng cho cô”.
“Cô để tôi”.
Bác Nhiêu Lịch lấy tay gọi Mùi:
“Cháu đợi cô mãi”.
Bác đã đến thật sớm và mưu mô với Nhỡ để Nhỡ đặt hai bị gạo của bác lên trên cái cân và bác đứng chống tay vào đòn gánh canh không cho ai nhắc xuống. Những lúc túng bấn, bác thường đến vay mượn Mùi nên nghe tin Mùi sắp đi cân gạo bác vui mừng lắm và dò hỏi Nhỡ xem đích xác hôm nào và bác nhất quyết mở hàng cho Mùi.
Lúc đó Mùi cũng hồi hộp trong lòng và hơi ngượng. Nàng móc túi lấy ra quyển sổ con và bút chì vì nàng không quen dùng bàn tính. Nhỡ đã treo sẵn chiếc đèn ở cạnh cân; chàng tươi cười nói với Mùi:
“Đông quá mà ai cũng chen nhau đòi mở hàng, cháu không biết làm thế nào. Tuỳ cô muốn để ai thì để”.
Mùi ngồi xuống ghế. Thế là sau bao nhiêu lâu, cái mộng đi cân gạo của nàng đến lúc này đã biến thành sự thực: Nàng cũng được ngồi sau cái cân, cái tráp tiền đặt nặng ở trên hai đùi. Nàng ngửng nhìn mọi người và mỉm cười vơ vẩn.
“Nào, ai mở hàng cho tôi bây giờ?”
Những tiếng “cháu, tôi” nhao nhao lên chung quanh cái cân. Bác Lịch khó chịu vì không thấy Mùi nhìn mình, nhưng bác không đời nào chịu để cho ai bỏ gạo của bác xuống cho người khác mở hàng. Mùi đã biết là bác Lịch có gạo để trên cân; vốn biết bác từ lâu và vẫn mến bác vì tính thẳng thắn nên nàng cũng muốn bác mở hàng mình và cho đó là một sự may mắn. Giá bác còn đứng ở xa, Mùi cũng gọi đến; nhưng muốn làm được lòng cả mọi người, nàng vẫn không nhìn bác Lịch, đưa mắt và mỉm cười với tất cả mọi người.
“Ai thì tôi cũng muốn để mở hàng nhưng không biết chọn ai, vậy người nào đến trước nhất thì mở hàng cho tôi”.
Bác Nhiêu Lịch lại chống mạnh vào cái đòn gánh hơn trước; bác cũng đưa mắt nhìn tất cả mọi người nhưng để lườm họ và tỏ cái đắc thắng của mình. Mùi giơ tay xê dịch quả cân; tuy chưa quen nhìn gạo mà biết được đúng số cân nhưng nàng cũng đoán hai bị gạo của bác Lịch độ bốn mươi cân. Nàng xê quả cân đến năm mươi vẫn thấy cán cân còn bổng lên. Nàng vừa xê quả cân vừa lẩm bẩm:
“Bác Lịch còn khoẻ nhỉ, gánh nổi hơn năm mươi cân tây gạo”.
Mùi xê quả cân đến nấc năm mươi lăm vẫn thấy cán cân bổng.
“Lạ nhỉ, hay là cân hỏng?”
Nàng ngửng lên nhìn bác Lịch. Bác Lịch nói:
“Thế nào ấy chứ chỗ gạo của cháu chỉ độ bốn mươi cân thôi”.
Bỗng Mùi bật lên cười:
“Giời đất ơi! Thảo vào mà gần sáu mươi cân. Tôi có mua đòn gánh và người bác đâu”.
Lúc đó bác Lịch mới sực nghĩđến là mình đương đứng tựa cả người trên cái đòn gánh mà đầu đòn gánh lại chống lên mặt cân.
“Ồ, thế mà cháu không biết”.
Mọi người đều nhao nhao lên, cười nói một lúc. Có tiếng người bảo là bác Lịch xấu tính, nhân lúc cô Mùi mới đi cân lần đầu chưa thạo nên định mưu đánh lừa. Bác Lịch giơ đòn gánh lên, đưa mắt tìm xem người nào nói thế; nếu bác biết chắc là ai thì bác sẽ đập một cái mạnh vào đầu cho bõ tức, nhưng không chắc hẳn là ai nên bác đành hạ đòn gánh xuống. Mùi bật cười:
“Bác định sinh sự đánh nhau lúc tôi đi khai cân?”
“Nhưng mà cháu tức lộn ruột. Nó lại dám bảo là cháu dám đánh lừa cô. Thế còn giời đất nào nữa không. Thế cô, cô có bảo là cháu định đánh lừa cô không?”
“Thì chính bác đã nói với tôi là chỉ độ bốn mươi cân thôi”.
“Đấy nhé cô làm chứng nhé… Cha đời vạn mớ đứa nào vu oan cho bà, nó chết hết đời cha đời ông nhà nó, cả họ xa gần nhà nó, chết băm chết bầm, chết đâm chết chém, chết …”
Không đánh được, bác chửi vì bác nghĩ chửi thì chắc chắn lọt vào tai người nói. Mùi lại can:
“Không đánh nhau thì bác lại xoay ra chửi nhau thì cũng thế. Thôi bốn mươi tư cân, vào đổ gạo đi”.
Hết bác Lịch rồi lại đến hai người khác cãi nhau; tuy là một người đàn ông và một người đàn bà nhưng cả hai đều khoẻ ngang nhau và cùng đặt được thúng gạo vào cân đều nhau, nên không ai chịu nhường ai, miệng thì nói tay thì ấn thúng gạo, cứ giằng co như thế một lúc lâu. Mùi mỉm cười vì họ tranh nhau để cân sớm một tí mà lại thành chậm gấp mấy không tranh nhau. Nhưng Mùi cũng không khỏi cắn chặt hàm răng, cứng cả gân người như lấy hết sức hộ người đàn bà khi thấy người đàn bà đã đẩy được thúng gạo của người đàn ông ra khỏi mặt cân. Nàng cũng muốn cho người đàn bà thắng và thấy vui thích khi người đàn bà đẩy được thúng gạo của người đàn ông xuống đất và phủi tay, sửa lại khăn, mỉm cười với nàng. Cân xong, Mùi lại thấy người đàn bà khác đặt được thúng gạo của mình lên cân trước người đàn ông. Người đàn ông có vẻ tức lắm, nhấc thúng gạo của mình đặt lên trên thúng gạo của người kia lấy cớ là đã lỡ lượt trước thì lượt này phải được cân. Lý người đàn bà cũng cứng: ai đặt được gạo lên cân là được cân trước. Rồi hai người cãi nhau một hồi, không ai chịu thua ai. Sau mọi người chung quanh đều nói người đàn ông trái. Mùi cân xong cho người đàn bà, lại đợi xem lần nầy người đàn ông có cho được gạo mình lên cân không hay lại bị người khác tranh mất.
Bây giờ Mùi mới biết là họ cần tranh nhau: giá nàng có gạo đem cân nàng cũng phải tranh, không phải vì sớm được một lúc nhưng bị như người đàn ông kia thì tức chết.
Thế là Mùi bận rối rít; xê quả cân, tính giá tiền, bốc gạo xem, đếm tiền trả họ và bận nhất là hồi hộp xem họ tranh nhau, xem họ cãi nhau đến vui. Được cái hôm nay giá gạo số chẵn nên nàng làm tính nhân rất nhanh, không sợ lầm. Bà Ký Ân lúc đó cũng bê tráp tiền ra cân, thấy cửa hàng Mùi đông và cân mình vắng không có một ai, bà rẽ đến chỗ Mùi, cất tiếng cười to và nói:
“Bà chủ hiệu thuốc Thọ Đường ơi, bà tranh hết cả khách hàng của con này rồi”.
Mùi ngửng lên nhìn bà Ký Ân và thấy mặt bà ta có vẻ vui một cách thực tình. Mùi ngửng lên cười lại với bà Ký; hôm nay nàng thấy ai cũng tử tế với mình và cả bà Ký Ân và sáu cô con gái của bà nàng cũng thấy không có gì đáng ghét nữa:
“Bà cứ nói thế. Hôm nay khai cân ai cũng muốn đến mở cửa hàng cho cháu”.
Nhưng Mùi khó chịu là vì cửa hàng của bà Ký vắng khách nên bà nói chuyện luôn mồm. Mùi đã bận tíu tít lại phải chú ý lắng tai nghe và thỉnh thoảng tuy không nghe rõ bà nói khôi hài về chuyện gì, nàng cũng phải cố gắng cười gượng gạo. Chốc chốc nàng lại phải chen vào những tiếng nói hưởng ứng bà Ký mà không công phạt:
“Thế à bà?”
“Thế cơ à?”
“À ra thế”.
“À thế đấy”.
Đến chín giờ sáng thì người đến cân gạo đã vãn. Mùi lúc đó mới thấy mỏi rừ cả hai vai và cánh tay phải. Hai đùi nàng gần như bị tê liệt. Nàng đứng lên vươn vai, thấy hơi chóng mặt nặng đầu và cho là tại vì xem họ tranh nhau, cãi nhau nhiều quá. Nàng định ngày mai cũng phải bắt chước mấy bà kia, nghĩa là cứ thấy gạo ở trên cân là cân, đừng để ý đến mọi người. Họ muốn cãi nhau, đánh nhau, đâm chém nhau để được gạo lên cân là việc của họ, nàng mệt một phần vì hồi hộp xem họ tranh nhau và cứ lấy gân, cứng người như là chính nàng phải tranh với họ.
Quay nhìn vào trong nhà, nàng thấy hai đống gạo trắng và đỏ đã lên đến nửa cột nhà và chân hai đống gạo đã gần chạm vào nhau. Mai có lẽ phải vây cót. Mệt nhưng Mùi cũng phải vào trong nhà, giữ miệng bao để Nhỡ đổ gạo. Nàng thấy Nhỡ chăm làm, săn sóc công việc từng ly từng tý và lúc nào cũng vui tươi, làm vừa lòng cả mọi người. Nhỡ nói với Mùi giọng vui vẻ:
“Chưa nhà nào một hôm mà cân được nhiều thế này cô ạ”.
Mùi nói:
“Cân càng nhiều càng mệt vào thân. Này anh Nhỡ, giữ miệng bao, tôi mỏi tay lắm rồi”.
Suốt mấy giờ đồng hồ giơ tay cân nay lại giơ tay giữ bao, làm những công việc nhẹ ấy, Mùi thấy mỏi cả hai cánh tay nên nàng định tâm xúc gạo, cử động một cách khác và làm việc nặng nhọc hơn có lẽ không mệt nữa. Thế là nàng ra xúc gạo; một lúc lâu nàng phải cởi cả áo cánh bông và mồ hôi ra lấm tấm ở trán. Công việc ấy tuy mệt nhưng nàng thấy trong người nhẹ nhàng dễ chịu hơn và hết nặng đầu. Nàng lại ra sức xúc gạo không ngừng tay, làm cho Nhỡ cũng lấy làm lạ về sức khoẻ của nàng. Bà Huyện Thanh và Đồ Minh cũng chạy sang cửa hàng, Mùi làm như chưa trông thấy hai bà ấy và cứ cặm cụi xúc gạo.
Bà Huyện nói:
“Kìa anh Nhỡ, sao anh không xúc gạo lại để cô ấy xúc”.
“Bẩm bà lớn, cô con đòi xúc, nói cầm miệng bao mỏi tay”.
Mùi dướn thẳng người lên, lấy tay gạt mồ hôi trán. Bà Đồ Minh nói:
“Hôm nay cô cân dễ đến gần trăm bạc”.
“Vâng thưa bà, cháu chưa tính nhưng cũng đến gần chín mươi đồng rồi”.
Bà Huyện chợt nghĩđến chỗ Mùi có số tiền lớn thế, ít ra vốn nàng cũng đến trăm rưỡi. Hiệu Khách có ứng tiền, nhưng nàng có quen gì hiệu Khách lắm đâu và mới đi cân cũng chẳng bao giờ hiệu ứng một số tiền lớn thế. Bà Mùi hỏi:
“Hiệu ứng tiền trước cho cô?”
Mùi đáp ngay:
“Thưa bà không, vốn của cháu”.
“Thế à?” Con gái tôi giầu nhỉ.
Hai bà đưa mắt nhìn nhau. Mùi thấy nóng ở hai tai nhưng không phải vì xúc gạo:
“Mấy năm nay, nhờ trời làm ăn cũng khá nên cháu mới dám nghĩđến cân gạo. Hiệu thì cháu không quen mà đi vay thì sợ thua lỗ đâm nợ”.
Bà Huyện mỉm cười nhìn Mùi:
“Con gái cụ Lang Hàn, ở khắp đây đã biết tiếng đảm đang, ai không biết; nhưng tôi không ngờ đâu lại có vốn để dành nhiều thế. Hay là đã đào được con cóc vàng nào. Thực tình, vốn của cô à, cứ nói thẳng cho bà con mừng cho”.
Bà Huyện thấy Mùi có nhan sắc, lại đảm đang, bây giờ lại có vốn riêng nhiều thế nên bà định làm mối cho Mùi lấy Luyện, một người cháu họ của bà mới vào học trường Thuốc.
“Vâng thưa bà, vốn cháu để dành trong ba năm nay”.
Nói thế nhưng nàng thấy bà Huyện như không tin. Cũng may bà chưa biết bà Cai về xóm. Vả lại dẫu họ đoán bà Cai có tiền đưa nàng thì cũng là một việc không có gì lạ, còn việc ông Cai ở Hải Phòng xa xôi mấy ai đã chú ý đến. Ông Năm Bụng người ở đâu đến, đời ông có sự gì uẩn khúc, nào có ai biết mảy may. Bà Ký Ân nữa, tại sao bà ấy lại có nhiều tiền, cũng không ai biết. Siêu thì đã cẩn thận tránh sự giao du, như thế càng khó lòng có người biết hơn. Nhưng sao bà ấy lại nói bóng nói gió đến con cóc vàng.
Bà Huyện lại nhìn bà Đồ Minh nói:
“Con gái tôi thì giỏi thực”.
Lời bà Huyện, Mùi thấy nhiễm đầy mỉa mai. Nàng đã thấy ngứa ran ở gáy và giá nói ra được thì nàng đã nói ngay cho bà Huyện biết việc đó là việc của nàng không việc gì đến bà ấy mà phải hỏi căn hỏi vặn. Nhưng bà Huyện, Mùi phải kính nể nên không dám nói gì. Bà Huyện bỗng hỏi Mùi:
“Năm nay cô bao nhiêu tuổi nhỉ?”
Mùi nhìn bà Huyện trong người nhẹ hẳn, nhưng nàng không đáp lời. Nàng đoán biết bà Huyện định làm mối cho mình lấy người nào và hỏi căn vặn về số vốn của mình là vì lẽ ấy. Nàng lại nhớ đến câu Siêu nói lúc sáng: “thần hồn nát thần tính”; chứ ai hơi đâu bới chuyện riêng nhà mình ra. Có bà Ký Ân hay kiếm chuyện thì lúc nãy sang xem gạo nàng cân, bà ấy không đả động gì đến tiền vốn cân của nàng và cũng không lấy làm lạ rằng nàng có nhiều vốn thế. Mùi hú vía vì lúc nãy nếu không giữ được miệng nói xẵng lại bà Huyện thì một là mình là con gái vô lễ, đáo để – cả đến bà Huyện mà cũng không kiêng nể – hai là tự nhiên tỏ ra có sự gì khuất tất trong số vốn của mình. Mùi cúi mặt, ấn đầu guốc vào cột nhà. Bà Huyện thấy Mùi e thẹn, cho là Mùi tinh ý đã hiểu được ý bà:
“Chắc cô độ mười bảy tuổi chứ gì. Con gái tôi, thì phải lấy chồng Cao đẳng mới xứng. Nào, có muốn lấy chồng Cao đẳng, học trường Thuốc, trường Luật thì nói ra. Tôi có vô số”.
Rồi bà quay lại bảo bà Đồ:
“Con gái nuôi tôi đấy, bà ạ. Con gái nuôi mà bây giờ quên cả mẹ. Lúc bà Lang còn sống sang chơi cứ bảo cho cô ấy cho tôi làm con nuôi”.
Mùi thì không biết mẹ nàng có nói thế không, còn nàng thì hoàn toàn nàng không biết có việc đó. Thảo nào mà nàng cứ thấy bà ấy gọi mình là “con gái tôi”, ba tiếng mà lúc nãy nàng chưa hiểu nghĩa nên thấy đầy mỉa mai.
“Thế nào, trường Thuốc nhé. Cô thì chắc thích lấy chồng trường Thuốc vì là con gái ông Lang mà”.
Mùi ngửng lên:
“Thưa bà, học trò Cao đẳng thì bao giờ thèm lấy đến những người như cháu. Với lại, cháu phải ở nhà để trông nom thầy cháu và em cháu đi học”.
Nói vậy nhưng trong lòng Mùi thấy vui sướng vì đã có người – mà người ấy lại là một bà Huyện – nói đến việc nàng xứng đáng lấy chồng Cao đẳng. Mùi lại chợt nghĩđến ông Ninh Ký và mỉm cười.
Bà Huyện rủ bà Đồ đi về. Ra đến ngoài, bà còn quay lại:
“Thôi, nhất định đi. Học trò trường Thuốc nhé”.
Bà Huyện và bà Đồ đi khỏi, Mùi bất giác mỉm cười. Nhỡ cũng mỉm cười nhìn Mùi một cái rồi lại cúi mặt cười tủm tỉm một mình.
“Anh Nhỡ cười gì đấy”.
“Thưa cô không”.
“Rõ ràng anh cười mà lại bảo không”.
Mới đầu thấy Mùi mỉm cười thì Nhỡ cũng tự nhiên mỉm cười theo, sau lại nghĩđến chỗ Mùi mỉm cười vì sắp được lấy chồng Cao đẳng chắc là thích lắm nên chàng lại cúi mặt mỉm cười thêm. Nhưng Nhỡ không đáp lại Mùi, đứng lên mở miệng bao đợi Mùi xúc gạo. Mùi cũng đoán là Nhỡ cười nhạo nàng nhưng không hỏi gặng, toan cúi người bắt đầu xúc; bỗng nàng ngừng lại vì thấy Nhỡ mở miệng bao ung dung đứng đợi làm như chính nàng chỉ thuê Nhờ cầm miệng bao còn xúc gạo nặng nhọc là việc của nàng.
Đóng bao xong hết chỗ gạo thì u già cũng vừa bưng cơm ra, Nhỡ chạy về nhà ăn cơm. Vì Mùi thuê làm không cơm và sáng sớm đã phải ra cửa hàng nên Nhỡ phải dặn mẹ để phần cơm.
Bác Lê gái lấy cơm để phần đem ra cho Nhỡ ăn:
“Bây giờ không phải đi kéo xe cũng đỡ vất vả”.
Nhỡ thì cho là làm gạo vất vả hơn. Chốc nữa muốn kiếm thêm, chàng lại định vác gạo thêm nữa, mà lần đầu vác chắc là mỏi người lắm. Nhưng Nhỡ cũng mỉm cười với mẹ nói:
“Vâng, bu ạ. Nhất là hôm nào mưa bão lại được nghỉ mà vẫn có tiền. Nhưng mà cân gạo chỉ có mùa, hết mùa gạo lại phải đi kéo xe”.
Hôm được Mùi thuê làm công, Nhỡ thích lắm. Mùi đã hoàn toàn là một cô chủ và chàng từ nay được dịp ở luôn cạnh nàng, hầu hạ nàng và cố sức làm nàng vui lòng. “Hầu hạ Mùi”, Nhỡ nghĩđược hầu hạ Mùi cũng thích như là được yêu Mùi. Nhỡ nhớ lại năm ngoái nước to, kéo xe đưa Mùi sang bên làng Tiên để mời ông Lang Nghệ vì ông Lang Hàn bị cơn suyễn nguy hiểm. Cái cầu tre vào nhà ông Lang Nghệ bị trôi mà nước thì sâu và chảy xiết. Nhưng không lẽ trở về. Chỉ còn một cách là cõng Mùi qua. Mùi thì buồn vì cha ốm và lo mời cho được ông Lang nên cứ bá lấy cổ Nhỡ nhắm mắt để Nhỡ cõng sang; không nghĩ gì đến việc ấy. Nhỡ thì khác nào như anh thuyền chài trong truyện cổ tích được ôm lấy cô công chúa. Và đến lúc về, lại được cõng Mùi lần nữa. Nhỡ tưởng mình được lên tiên khi hai tay Mùi ôm vòng lấy cổ, đè nặng lên vai và hai cái đùi chắc nịch, rất êm sau làn lĩnh trơn đè nặng lên hai bàn tay; hai bắp mà chàng thấy rất cao quý ấy ngờ đâu có ngày chàng lại được đặt tay vào… và thích nhất là chàng nhận thấy hơi nóng của bụng Mùi truyền sang làm ấm cả lưng chàng. Một làn gió tình cờ đã đưa nhẹ vào mũi chàng mùi thơm của tóc Mùi, một mùi thơm lạ lắm. Hương thơm của tóc Mùi chỉ thoảng qua trong một dây như thấm đọng vào tâm hồn chàng không bao giờ phai. Về sau mỗi lần có dịp, Nhỡ lại cố ý để mặt mình sát gần tóc Mùi; nếu may hôm nào tóc Mùi ở đầu gió, Nhỡ lại được ngửi mùi tóc ấy và sung sướng tưởng như còn thấy Mùi đương ôm lấy vai và đùi nàng đè nặng trên hai bàn tay. Nhỡ vẫn ao ước lại có dịp hầu hạ Mùi như thế nhưng khó lòng lại xảy ra sự tình cờ thứ hai nữa. Được Mùi ngỏ lời thuê làm công, Nhỡ không lưu tâm gì đến số tiền công cả nhưng chàng không khỏi lấy làm lạ là lúc thường Mùi rất rộng rãi nhưng lúc thuê lại tính toán từng ly từng tý và chỉ trả chàng một số lương vừa đúng, có phần hơi ít. Nhưng Nhỡ cũng nhận, không suy bì và cũng thấy việc mình nhận rẻ làm Mùi vui lòng.
Ăn xong, Nhỡ lại vội vàng sang bên cửa hàng. Phu gạo chưa đến. Bỗng Nhỡ vội chạy ra cửa. Mùi đương ngồi uống nước giật mình hỏi:
“Việc gì thế anh Nhỡ”.
“Cháu ấy à? Cháu đi ra thăm cô hàng kẹo vừng. Ăn xong không có gì tráng miệng, nhạt mồm quá”.
Những việc tằng tịu với các cô gái quanh vùng, Nhỡ không thấy ngượng gì cả như là về tình thầm yêu Mùi và đi đâu cũng nói đùa tung ra như là một việc rất thường. Chàng nói thẳng cả ra với Mùi; làm thế Nhỡ có ý bảo chàng chỉ nghĩđến dan díu với những người vào hạng của chàng thôi nhưng cũng có ngầm cái ý khoe với Mùi rằng mình có số đào hoa, nhiều con gái mê. Về tiếng xưng hô, mấy năm trước chàng vẫn xưng tôi với Mùi vì lúc đó Mùi còn trẻ quá. Gần đây chàng đổi ra xưng cháu vì như thế đặt ngay Mùi lên bực trên và có vẻ thân mật hơn.
Nhỡ đi thẳng ra gốc cây đa chỗ Nguyệt ngồi bán kẹo. Nguyệt thấy Nhỡ đi lại vội gắt:
“Này lại sắp ra quấy rầy người ta rồi phải không?”
Nhỡ nhận rõ Nguyệt tuy nét mặt cau có nhưng vẫn ngầm có vẻ vui được gặp chàng.
“Người ta đến người ta ăn kẹo hộ, thích chết người lại còn vờ vĩnh”.
Nhỡ ngồi xuống mở cái quả định cho tay vào lấy một chiếc bỏng ngô thì đã bị Nguyệt đập mạnh một cái vào tay và hất ra. Nhỡ kêu đau và cười:
“Sao hôm nay đằng ấy ác thế?”
“Đằng ấy đằng này gì? Có đi ngay cho người ta bán hàng không. Đã ế hàng lại còn đến ám. Có muốn một đòn gánh vào lưng thì bảo”.
Thấy nói đến đòn gánh vào lưng, Nhỡ chợt nghĩ Nguyệt chưa biết mình có công việc mới:
“À này chị Nguyệt ạ, bây giờ tôi không đi kéo xe nữa. Cô Mùi thuê tôi trông nom cân gạo, nhàn lắm và lại có nhiều tiền, chị tha hồ bán kẹo”.
Nguyệt nói:
“Nhàn. Thảo nào mà ra đây ngồi tán hão. Có cút ngay đi không”.
Nhỡ nghiêng đầu, chống cằm trong lòng bàn tay, rồi ngồi yên nhìn Nguyệt, ngắm nghía từ cái lông mi, lông mày rồi lẩm bẩm đến xem có bao nhiêu nốt tàn nhang trên hai gò má: một, hai, ba… Nguyệt thấy Nhỡ ngắm nét mặt mình lại càng cau nét mặt lại. Ngắm nghía một hồi lâu rồi Nhỡ nói:
“Hừ, người thế mà cũng có duyên”.
Nguyệt giơ đòn gánh đập vào lưng Nhỡ một cái:
“Này, có đi không? Người thế là người thế nào?”
Nhỡ vội né người ra một bên cho đòn nhẹ hơn:
“Thôi, không đùa nữa. Kẹo vừng chị bán một xu mấy chiếc”.
Nguyệt đặt đòn gánh xuống, hơi ngạc nhiên thấy Nhỡ hỏi giá kẹo như có ý mua thật.
“Một xu năm. Hôm nay kẹo ngon lắm”.
“Cho tôi mua hai xu. Hai xu thì bao nhiêu nhỉ?”
“Hai xu thì mười chiếc. Có thế mà cũng không tính ra”.
Nhỡ lẩm bẩm:
“Hai xu mười chiếc. Nhưng chỗ tôi với chị, chị cho thêm hai chiếc là mười hai chiếc tất cả. Có được không?”
“Ừ thì cho nhà anh thêm hai chiếc”.
“Thế à, chị. Chị cho tôi hai chiếc à”.
Nhỡ vừa nói vừa giơ tay bốc hai chiếc kẹo bỏ tọt vào mồm rồi đứng ngay lên chạy đi. Nguyệt giơ đòn gánh định đập nhưng không kịp, nàng vội quăng đòn gánh theo Nhỡ:
“Cái nhà anh phải gió”.
“Thì chính chị bảo cho tôi hai chiếc mà”.
Hai người cùng bật cười. Bỗng Nhỡ quay mặt nhìn bác Xuân gái ngồi bán kẹo ở bờ đường bên kia và đương cười, ngừng hẳn lại. Không biết tại sao Nhỡ lại có ác cảm thậm tệ với bác Xuân gái. Nguyệt cau có nét mặt mỗi khi chàng đến nhưng chàng biết Nguyệt thích được chàng trêu, còn bác Xuân gái tuy nét mặt vẫn thản nhiên nhưng chàng thấy rõ bác ghét nói đùa lắm. Vì thế chàng không nói đùa với bác ta nữa và cũng ghét cả nói chuyện với bác ta. Như lúc này, trông nét mặt bác Xuân tràn đầy khó chịu phải trông cái cảnh chàng và Nguyệt đùa rỡn với nhau. Chắc bác ta cho là chướng mắt lắm.
Thấy Nhỡ về, Mùi hỏi:
“Kẹo đâu?”
“Thưa cô, cháu ăn hết rồi”.
“Anh mua mấy xu mà ăn hết chóng thế”.
“Thưa cô không phải mua. Cháu cướp giật được có hai cái”.
“Tiếc nhỉ. Tôi ở nhà cứ đợi anh về để ăn kẹo. Anh đi mau quá tôi không kịp đưa tiền”.
“Thế à, cô”.
Thế rồi Nhỡ lại chạy vụt ra chợ. Chàng rút sẵn ra ba xu và mới đến gần chỗ Nguyệt ngồi chàng đã chìa sẵn bàn tay để Nguyệt trông thấy rõ, phòng xa tránh một cái đòn gánh báo thù về hai chiếc kẹo lúc nãy.
“Chị bán cho tôi ba xu”.
Vừa nói, Nhỡ vừa bỏ ba đồng xu rơi xuống mẹt. Nguyệt ngạc nhiên hết sức vì lần đầu tiên Nhỡ bỏ tiền ra mua kẹo. Sợ Nhỡ mới nghĩđược mưu mẹo gì để đánh lừa nên Nguyệt vội bỏ ngay tiền vào túi áo. Nàng đếm kẹo, gói lại đưa cho Nhỡ và khi Nhỡ đi xa rồi Nguyệt mới dám chắc là sáng nay đã thật bán được kẹo. Nguyệt đưa mắt nhìn theo Nhỡ, mỉm cười. Lúc nãy đáng lẽ gói mười tám chiếc nàng đã bớt đi hai chiếc Nhỡ ăn lừa nàng và lấy làm lạ rằng Nhỡ không nghĩđến đếm lại kẹo. Nguyệt chắc khi Nhỡ về tới nhà sẽ đếm lại, biết thiếu tất phải quay trở lại và nàng ngồi hồi hộp đợi. Tuy là tốn kẹo nhưng Nguyệt vẫn mong Nhỡ đến trêu đùa mình, nàng thích nhất là những lúc đánh được Nhỡ một hai cái đòn gánh. Nàng thấy càng đánh mạnh càng thích tay nhưng nàng vẫn giữ đà không dám đánh mạnh quá sợ Nhỡ thấy đau đến khó chịu tất sẽ không dám trêu nàng nữa. Nhưng lần này Nguyệt lại ngạc nhiên hơn nữa là đợi mãi không thấy Nhỡ quay trở lại.
Nhỡ giơ tay đưa Mùi gói kẹo. Mùi mở tráp lấy tiền hỏi:
“Chỗ này bao nhiêu”.
Nhỡ vội vàng đáp:
“Thưa cô cháu không biết”.
“Lại kẹo cướp giật phải không? Nhiều thế này người ta lại không đánh cho vỡ đầu ra à?”
Nhỡ cười:
“Thưa cô, họ chỉ đánh gẫy lưng thôi”.
Mùi đếm kẹo rồi nói:
“Chỗ này dễ đến ba xu, có mười sáu chiếc tất cả”.
Nhỡ nói:
“Mười tám chiếc chứ cô”.
“Không chỉ mười sáu chiếc”.
Nhỡ buột miệng kêu:
“Thôi, chết tôi rồi! Con ranh nó trừ đi hai chiếc ăn cướp lúc nãy”.
Mùi bật lên cười:
“Anh Nhỡ nói dối nhớ. Anh đã mua ba xu mười tám chiếc”.
Nhỡ vôi đưa tay lên miệng nhưng chậm quá rồi. Chàng thấy nóng bừng ở hai tai; chàng ngượng không phải vì để lộ ra cái khoe mẽ có kẹo không phải mất tiền mua; nhưng chỉ vì để lộ cho Mùi biết chàng đã bỏ tiền ra mua kẹo để được cái thích biếu Mùi, mà lại giấu Mùi. Mùi thì cho là Nhỡ khó chịu vì nàng đã biết Nhỡ khoe mẽ. Nàng đưa cho Nhỡ ba xu. Nhỡ phải ngoan ngoãn cầm lấy sợ từ chối thì tỏ rõ quá cái ý định biếu nàng”.
Mùi đương ăn kẹo bỗng bảo Nhỡ:
“Bắt đầu từ ngày mai, sáng nào anh cũng vào trong nhà đón tôi ra. Anh nhớ đem gậy đi theo”.
“Để làm gì thế cô?”
“Để nhỡ có kẻ cướp giật. Ăn cướp kẹo như anh thì không sao nhưng nó mà cướp giật mất cái tráp bạc này thì nguy to”.
Nhỡ trong người bàng hoàng; chàng không nghĩđến cái thú được mỗi buổi sáng cùng đi với Mùi trên đường tối, chàng thích chỉ vì có thể xẩy ra việc cướp giật để chàng có dịp cứu Mùi và tiền của Mùi. Chàng quên cả trả lời. Mùi vội nói:
“Anh sợ kẻ cướp à?”
Nhỡ sực nhớ là chưa trả lời Mùi, vội đáp:
“Thưa cô, vâng…”
“Anh mà cũng sợ kẻ cướp à?”
“Thưa cô, không”.
Mùi đưa mắt nhìn Nhỡ:
“Anh còn tức cô hàng kẹo có phải không?”
Nàng nói chạnh ra thế để giảng giải những câu đáp đãng trí của Nhỡ. Nàng mang máng thấy Nhỡ cũng đương nghĩ ngợi về việc vào đón nàng. Chính Mùi cũng đã hơi ngượng khi nói bảo Nhỡ vào đón. Nhỡ bằng trạc tuổi nàng và nhất là Nhỡ lại đẹp trai nên việc mỗi buổi sáng đi với Nhỡ trên đường tối, vắng người, Mùi cũng thấy là bất tiện, đúng như lời Siêu nói. Nhưng nàng cũng mạnh bạo nhìn Nhỡ nói như là sai Nhỡ một việc thường:
“Thế mai anh vào đón tôi. Anh khiêng cân xong vào đón thì vừa”.
Chương XVII
Về thăm làng
Mọi người đã mỏi chân thì vừa tới chợ Keo và may quá lại vừa đúng ngày phiên chợ. Đi từ sáng sớm chưa ăn gì nên người nào cũng nghĩđến ăn quà. Siêu nói với Mùi:
“Ngộ hôm nay ở đây không có phiên chợ thì cô làm thế nào”.
Mùi đáp:
“Ngộ thế nào được. Ở khắp vùng này bất cứ một cái chợ nhỏ nào có phiên hay không em đều biết cả. Và chợ nào có quà gì ngon em cũng biết, biết rõ hơn cả anh biết các ngôi sao trên giời”.
Mạch nói:
“Chợ này ngon nhất bánh gio”.
Mùi nhìn Mạch và thấy không phải Mạch nói đùa.
“Anh cũng đã loăng quăng đến đây rồi cơ à?”
“Vâng em đến đây hai lần”.
Triết nói:
“Chúng em đến bắt bướm”.
“Bắt bướm mà cũng phải đi xa thế này cơ à?”
“Vâng vì chúng em muốn bắt cả bánh gio, bún riêu”.
Siêu rẽ vào hàng bún riêu ở dưới gốc cây đa vì ở đấy có bún riêu mà chàng thích và có chỗ ngồi dễ chịu nhất. Chàng lật bát nước chè, bẻ quả chuối rồi ngồi ruỗi thẳng chân, dựa đầu vào cột vừa ăn vừa nhìn ngang ngửa. Tuy mọi người đều chú ý nhìn, nhưng ở cái chợ nhỏ hẻo lánh này, Siêu không thấy khó chịu gì cả; những người nhà quê ngồi rải rác dưới mấy cái lều tranh nát, Siêu thấy họ không có liên can gì đến đời chàng cả và vì thế chàng không ngại khi họ nhìn mình. Chàng định tâm lúc nào rỗi đi lang thang về các vùng quê hẻo lánh chơi và ăn quà.
“Cô Mùi này…”
Chàng định hỏi về các chợ và phiên chợ ở quanh vùng nhưng không thấy Mùi đâu. Đưa mắt tìm chàng thấy Mùi đương đứng nói chuyện với mấy người đàn bà ở cuối chợ và cười đùa luôn miệng. Một lúc Mùi đã lại sang ngồi ở cửa hàng của một bà hàng xén và hai người vui vẻ nói chuyện cười ran như là đã mấy năm không được gặp mặt nhau. Thoáng một cái, Siêu lại thấy Mùi ngồi trước một người đàn ông chàng không hiểu bán gì và cho tay vào quờ mãi trong một cái bị. Siêu nghĩ có lẽ Mùi định đi thăm khắp hết mọi người trong chợ. Chàng cất tiếng gọi to:
“Cô Mùi ơi, cô về ăn quà, ngồi nghỉ cho đỡ mỏi chân, còn đi chứ?”
Siêu lấy làm lạ nghe tiếng mình nói; ở một đám đông người chàng cất tiếng thật to nói với Mùi mà thấy tự nhiên như không. Chàng thấy Mùi ngửng lên nhìn về phía chàng mỉm cười và cũng đáp thật to tiếng:
“Anh đợi em một lát nhé!”
Rồi nàng lại cúi xuống, lấy tay vạch miệng bị và cúi sát đầu vào miệng nhìn vào trong tìm tòi. Siêu thấy Mùi rất hợp với những người sống quanh nàng. Sự gặp gỡ giao du với mọi người không có gì đáng vui vẻ cũng hình như làm nàng vui thích lắm. Mùi nhìn vào trong bị rồi lại ngửng lên giơ tay và xoè bàn tay như để đo chiều cao; thấy người đàn ông lắc đầu Mùi lại giơ bàn tay lên cao thêm một chút nữa. Siêu đoán là Mùi hỏi thăm về một đứa con nào đó của người đàn ông và nếu đứa con đã cao hơn nhiều thế chắc là Mùi lâu chưa gặp người đó. Siêu mỉm cười vì lâu không gặp nàng mà Mùi cũng nhớ hỏi đến đứa con họ và tài nhất là nàng lại nghĩđến đứa con họ mà ân cần hỏi. Chàng thì chàng đành chịu. Ngay đến ông Lý Đàn người chú họ của Mùi ở nhờ nhà cũ của chàng ở làng Phướn mà chàng cũng không biết là có mấy đứa con. Siêu lại mỉm cười nữa vì tự hỏi mình đoán thế có chắc đúng không; hỏi đến con người ta việc gì nàng phải cúi sát mũi vào miệng cái bị. Chàng thấy từ ngày về Xóm Cầu Mới chàng đã thấy rất dễ chịu, một phần vì chàng không phải giao thiệp với ai cả nhưng một phần lớn vì chàng thấy tất cả mọi người ở vùng này chỉ là những người quen của Mùi thôi, hay có việc gì cũng hoàn toàn là việc của Mùi, đã có nàng đối phó và nàng lại lấy thế làm thích, chàng không phải quan tâm gì cả. Cho đến mấy người nhà quê ngồi ở một cái chỗ hẻo lánh này mà Mùi cũng chạy ngay đến tìm và nói chuyện mừng rỡ quên cả đói cả mỏi chân.
Mùi trở về hàng và ngồi trên cái rễ đa mặt đẽo phẳng để làm chỗ ngồi. Không thấy Mạch và Triết đâu, nàng nói:
“Hai ông tướng chắc lại đi lùng bánh gio. Còn anh, anh ăn gì?”
Siêu hỏi lại:
“Thế còn cô, hình như cô không thiết ăn bằng nói chuyện”.
Mùi đáp:
“Lâu lắm em chưa đến chợ này. Em nói chuyện đâu, em đòi nợ”.
“Sao lắm người nợ cô thế?”
“Nợ không là bao, có mấy hào nhưng nợ càng ít càng cần phải có dịp là đòi ngay. Để lâu thế nào cũng mất. Nhưng chả ai giả đồng xu nào cả. Đến bực mình”.
Siêu cười:
“Cô bực mình mà cô lại cười đùa với họ vui vẻ như thế?”
“Em đùa đâu, em mắng họ đấy chứ”.
“Cô mắng thế thì đến tôi, tôi cũng thích cô mắng luôn. À này, cô Mùi…”
Chàng đưa mắt nhìn bà cụ bán hàng. Bà cụ bán hàng chàng thấy chẳng có liên can gì đến việc giữa Mùi và chàng:
“Tôi nghĩ ra được một cách. Muốn tránh những việc xẩy ra như hôm cô bắt đầu đi cân thì từ rầy tôi có gì không phải cô cứ mắng tôi như cô vừa mắng họ ban nãy nhé. Thế tốt cho cô và cho tôi hơn là cô hờn dỗi”.
Mùi bật cười:
“Anh thật lắm cách hơn cả ông giáo Đông. Lúc hờn thì còn mắng thế nào được. Vả lại hôm ấy em có lỗi, người có lỗi đâu dám mắng người không có lỗi”.
“Nghĩa là chung quy chỉ còn một cách hờn. Hôm nào cô lại hờn lần nữa”.
“Vâng, em cũng định thế, nhưng phải có dịp mới được”.
Hai người cùng mỉm cười nhưng người nọ tưởng người kia chỉ mỉm cười vì câu nói đùa. Siêu nói sang chuyện khác:
“À lúc nãy, cô nhìn vào bị người đàn ông ấy làm gì thế. Cô tìm đứa con bác ta?”
Mùi hơi ngạc nhiên vì chỗ sao Siêu ngồi ở chỗ xa thế, không tài nào nghe thấy tiếng nói chuyện mà lại biết được nàng hỏi về đứa con bác Na. Nàng mỉm cười tinh nghịch rồi hỏi Siêu như không hiểu:
“Đứa con nào?”
“Đứa con nó cao thế này, này”.
Chàng giơ tay nhắc lại điệu bộ Mùi làm lúc nãy. Mùi nói:
“Bác ta không có con. Anh đoán sai cả”.
“Thế à?”
Chàng định hỏi xem Mùi làm gì nhưng lại thôi. Chàng coi đó như một cái tính đố và phải cố dựa vào những điều biết sẵn mà tìm ra. Sợ Mùi nói, Siêu vội tiếp:
“Cô đừng nói. Thế nào tôi cũng nghĩ ra. Cô đòi nợ mà tôi tưởng cô nhớ họ đến thăm, cô mắng họ mà tôi tưởng cô vui mừng gặp họ, cái gì cũng ngược hẳn lại, vậy bây giờ cô nhìn vào bị rồi giơ tay đo… đo… như thế là cái gì nhỉ?”
Mùi mỉm cười:
“Sao anh lại hỏi em. Nhưng thôi anh nghĩ làm gì rức đầu. Anh không bao giờ tìm ra đâu. Ăn gì bây giờ, anh”.
Rồi nàng lại nhìn Siêu, vì nàng vừa thấy mắt Siêu nhìn mình có vẻ khác. Mùi chỉ nhận thấy thế chứ không biết khác như thế nào và tại sao lại khác. Nàng thấy trong người bâng khuâng và lần đầu tiên nàng thấy ngượng với Siêu. Nàng quay mặt nhìn đi và nói luôn làm như không chú ý đến chỗ hai người vừa nhìn nhau một cách khác thường:
“Mời anh làm gì. Anh thì thức gì cũng thích ăn, mà hình như anh đã ăn đến bốn quả chuối rồi. Ngày sau làm nhà, phải giồng cho anh một vườn chuối, chuối tiêu, chuối ngự, ngon như chuối ngự ở Nam Định…”
Mùi nói luôn miệng, nhưng Siêu không để ý nghe nàng nói gì. Chàng thong thả nói:
“Ở đời có những cái vui con con thích hơn những cái vui nhớn nhiều”.
Siêu vừa nhận thấy trong đời chàng, chàng sẽ không bao giờ quên cái lúc ngồi với Mùi ở quán hàng trong cái chợ hẻo lánh này. Bà cụ bán hàng có cái yếm đỏ thắm, cây đa với những cái lều chợ xơ xác, và tiếng ồn ào lẫn với mùi bèo, mùi mắm tôm, mùi bánh đa khoai nướng thoang thoảng trong gió và trong nắng với tiếng một con chim chích choè vừa hót đâu đây; tất cả những thứ đó và trong đó có hai con mắt đen, nét mặt hơi mệt nhưng rất tươi của Mùi, dáng người thanh thanh của nàng trong bộ áo nâu non in trên gốc đa, chàng thấy còn mãi trong trí nhớ của chàng không bao giờ phai lạt.
Ít lâu nữa Mùi sẽ đi lấy chồng, có con và chàng cũng lấy vợ, ai người nấy hai cuộc đời riêng biệt hẳn, Siêu cảm thấy trước cái buồn của lòng chàng một hôm nào, độ mười năm sau chàng lại sẽ đến cái chợ này một mình, để có lại được cái tâm hồn chàng hiện nay và để buồn rầu một cách êm ái nhớ lại một hôm đã xa xôi ở đúng chỗ này lòng chàng đã rung động vì yêu Mùi. Siêu mỉm cười vì nghĩđến có lẽ hôm đó chàng cũng không thể nào không nhớ đến cái cảnh Mùi chúi mũi nhìn vào bị giơ tay đo đo và cái tính đố ấy lúc đó chắc chàng cũng chưa nghĩ ra.
Lần này là lần thứ hai, Siêu nhìn mặt Mùi ở giữa nơi toàn người lạ và cũng như lần đứng trên xe lửa, chàng thấy Mùi có vẻ là lạ khác mọi ngày và giữa đám người nhà quê cục mịch xấu xí, vẻ đẹp thanh nhã của Mùi lại càng lộ rõ hơn. Nhìn Mùi chàng tưởng tượng như những cô tiên trong truyện cổ tích giả vờ làm cô bán hàng nước để trêu đùa và an ủi những chàng thư sinh thi trượt như chàng.
Mùi không quay mặt lại nhưng biết là Siêu đương nhìn mình.
“Ở đời có những cái vui con con…”
Câu nói của Siêu nàng không biết rõ hẳn là ngầm chỉ việc gì nhưng nàng thấy rõ là không phải nói về việc ăn chuối. Mùi tự nhiên thấy sung sướng và mắt nàng luôn luôn chớp như là lúc đương được ai khen cần chớp mắt cho đỡ ngượng.
Triết và Mạch trở về hàng làm tan sự yên lặng giữa hai người. Mùi nhìn vào hai cái khăn tay buộc đầy bánh của Mạch và Triết.
“Giời đất ơi, sao mà nhiều thế kia. Ăn thế nào hết”.
Triết nói:
“Ăn không hết thì đem về làng biếu. Em mua tất cả gần ba hào”.
“Tiền đâu ra?”
“Thưa chị, tiền anh Mạch”.
“Anh Mạch có tiền à?”
Mạch móc túi đưa cho Mùi xem một nắm hào con:
“Đây chị xem!”
Lại đến lượt Siêu ngạc nhiên:
“Thằng loăng quăng, mày làm gì có tiền. Hay lại loăng quăng cho tay vào túi ai”.
“Anh cứ nói thế. Mợ cho em một đồng bạc hôm qua…”
Mùi thấy bà Cai mấy hôm nay đã tỉnh, có lúc gần như người thường nhưng bà Cai làm gì có tiền mà cho Mạch.
“Anh Mạch lại nói dối rồi, nói dối xấu lắm. Bác làm gì có tiền mà cho anh”.
Nói thế nhưng nàng thấy nét mặt Mạch lúc đó thẳng thắn và rõ ràng không phải Mạch nói dối. Mạch cau mày nhìn Mùi:
“Chị không biết. Mợ có nhiều lắm cơ; mợ chỉ cho em có một đồng”.
Siêu mỉm cười vì thấy mẹ mình mắc bệnh mà vẫn biết giấu tiền. Số tiền ba trăm, trước kia Siêu đã thử hỏi mẹ trong một lúc hơi tỉnh nhưng mẹ chàng hoàn toàn không nhớ gì cả, thế mà mẹ chàng vẫn biết giấu tiền, kể cũng hơi lạ. Chàng hỏi Mạch:
“Mạch thấy mợ có độ bao nhiêu?”
“Em không rõ nhưng thấy có nhiều giấy năm đồng lắm chỉ có độ hai ba tờ một đồng”.
Mùi hỏi:
“Anh có thấy giấy một trăm nào không?”
“Giấy một trăm như thế nào cơ chị?”
“Giấy màu đỏ có vẽ cái đỉnh.
“Em không nhớ rõ nhưng hình như không có giấy màu đỏ. Hay là mợ để ở túi áo cánh bên kia. Mợ chỉ kéo ra có một nửa rồi lại đút ngay vào. Mợ để ở túi áo trong”.
Siêu đoán là trước khi bị bệnh ngoài việc giấu tờ ba trăm mẹ chàng có may thêm hai cái túi áo trong để một ít tiền tiêu thường. Số tiền ấy chắc cũng không quá năm chục bạc. Nhưng năm chục bạc cũng là một số tiền khá to. Mùi thì cũng đoán số tiền bà Cai có độ dăm chục bạc nhưng nàng hy vọng vào chỗ tập giấy bạc túi bên kia mới rút ra một nửa, may ra có tờ giấy một trăm nào không. Số tiền ấy khó lòng đem ra buôn bán được nhưng thế lại tốt hơn vì cũng như là một số tiền để dành; nếu vạn nhất có buôn bán thua lỗ, lúc cùng đã có số tiền phòng xa ấy. Thế là từ hôm Siêu về tự nhiên nàng có được số tiền để buôn bán và có thêm được số tiền để dành. Bất giác nàng nghĩđến câu bắt được cóc vàng của bà Huyện Thanh; nàng lại bắt được hai con tất cả.
Cả Mùi và Siêu đều muốn tránh bàn tán nhiều về số tiền ấy trước mặt Triết, Mạch và mở khăn lấy bánh ăn. Siêu ăn ngon lành còn Mùi vì mừng mà ăn không thấy ngon. Nàng lẩm nhẩm tính thầm:
“Sáu chục với hai trăm chín mươi đồng là ba trăm năm mươi với năm mươi nữa là bốn trăm và có thể có tờ giấy một trăm nữa là năm trăm tất cả. Mình thành ra giầu nhất xóm. Cố buôn bán một hai năm thì có thể về ở hẳn làng, tậu ruộng làm nhà…
Triết nhìn chị, nói:
“Chị không ăn đi à? Ăn mau còn đi chứ?”
Mùi chớp mắt, mỉm cười:
“Anh Mạch anh ấy ăn như thế kia, làm chị ăn mất cả ngon”.
Mùi ngồi nhìn Mạch thấy Mạch một tay cầm bánh gio chấm đầy mật, một tay cầm bánh dầy đỗ xanh bên trong và trước mặt một quả chuối bóc vỏ sẵn; Mạch cắn xong một miếng bánh gio lại cắn một miếng bánh dầy rồi đặt bánh dầy cắn một miếng chuối và nuốt lấy nuốt để cả ba thứ một lúc. Mật dính cả lên má lên thái dương và đậu xanh dính cả ở vành tai và ở tóc nữa. Mạch ngừng nhai để nói:
“Ăn thế mới ngon chứ chị. Chị thử ăn như thế xem”.
Mặc dầu Mạch và Siêu ăn khoẻ nhưng cũng chỉ hết một gói. Muốn chiều bà cụ hàng, Siêu lại ăn thêm hai bát bún riêu. Mạch, Triết cũng ăn thêm một bát, Mùi vì muốn cho Siêu vui lòng, nên nàng cũng ăn một bát nhỏ. Siêu tính nhẩm và tuy chỉ có bẩy xu tất cả, chàng cũng cho bà cụ cả một hào. Bà cụ mừng rỡ nhìn Siêu nói:
“Hôm nào các cô cậu lại đến ăn quà”.
Siêu đáp:
“Có, hôm nào tôi lại đến đây ngồi đúng ở đây để ăn quà của bà cụ nhé. Độ mười năm sau bà cụ ạ”.
Mọi người đứng lên một cách nặng nề vì bụng no, chỉ trừ có Mùi. Lúc đi ngang qua hai cái bị của người đàn ông, Siêu cố ngoảnh mặt nhìn đi chỗ khác để mắt khỏi vô tình đặt vào cái bị làm chàng mất cả cái thú đoán. Đi ba cây số nữa thì đã đến làng Phướn. Siêu đã bẩy năm chưa về làng lần nào, nhưng chàng thấy không có gì đổi khác cả. Cây đa và luỹ tre không cao lên được chút nào và hình dáng vẫn nguyên như cũ. Đi khỏi nhà ông Chánh Hoạt, Siêu ngừng lại để nhìn vào một cái ngõ; cái ngõ ấy hai bên tre cao rào sát nhau nên bao giờ cũng tối và đầy lá khô; cuối ngõ lộ ra một quãng cánh đồng sáng và ở chân trời, hình lờ mờ và tím nhạt của một trái đồi nhỏ. Trước kia đi học về qua, lần nào chàng cũng không quên nhìn vào cái ngõ ấy và có cái cảm tưởng như đứng ở một thế giới nhìn qua ngõ tre sang một thế giới khác, vì thế chưa lần nào chàng đi vào cái ngõ ấy sợ đi biết hết mất cả bí hiểm. Siêu thấy ngõ vẫn đầy lá tre khô, ánh nắng vẫn đan nhau với lá tre trên vòm cao cũng như ngày nào và quả đồi cũng vẫn một màu tím nhạt ấy và vẫn hình như ở một thế giới xa xôi khác.
Đi qua cổng nhà nào, Mùi cũng giục mọi người đi mau và đừng nói chuyện. Nàng sợ họ biết là mình về làng, không vào thăm thì sợ họ giận mà nếu vào thăm cho khắp thì không đủ thì giờ.
Đến căn nhà cũ của Siêu thì ông Lý Đàn đã sửa soạn gà xôi sẵn sàng theo lời Mùi nhờ người về nhắn mấy hôm trước.
Hồi ông Cai đem vợ con đi Hải Phòng, cái nhà tranh của Siêu để lại cho ông Lý Đàn người chú họ của Mùi ở nhờ. Bên cạnh nhà ông Lý, cạnh một cái giậu thưa là cái nền gạch còn trơ lại của nhà ông Lang bị cháy. Cái nhà dưới đã siêu vẹo bây giờ để lại cho một người có họ xa và nghèo ở.
Sau bẩy năm Siêu mới lại bước vào căn nhà cũ của mình. Siêu để mặc Mùi sửa soạn và nói chuyện với ông Lý, chàng đi vào cái buồng ở bên tay trái là chỗ chàng vẫn sống từ lúc sinh ra đời và cho đến khi rời khỏi làng. Qua cái cửa sổ chấn song nhỏ, ánh sáng ở ngoài đưa vào phơn phớt xanh; vẫn còn nguyên mấy cành lá cây na rủ sát cạnh cửa sổ và làm cho ánh sáng căn buồng của chàng lúc nào cũng phơn phớt xanh và cả tuổi thơ của chàng hình như có nhuộm thứ ánh sáng trong và mát ấy. Siêu nhìn ra ngoài cửa sổ và lúc đó chàng tưởng thời gian ngừng hẳn lại: ở cạnh cây mít vẫn còn treo cái dây sắt có móc mà lúc còn bé chàng đã tự tay làm và buộc ở cành cây để treo cái lồng đánh bẫy chim khuyên; chàng phải buộc dây dài để cho cái lồng thấp, ngồi ở trong buồng có thể nhìn thấy. Chỉ còn cái dây nhưng Siêu tưởng như còn thấy rõ cái lồng với con chim khuyên mồi và chung quanh lồng giắt đầy lá cây với hoa dâm bụt, hoa chuối tây đỏ gắt dưới ánh nắng. Chàng như còn nghe thấy tiếng một đàn chim khuyên sắp bay sà xuống lồng; cảm thấy lòng mình hồi hộp đợi và bên cạnh chàng – đến bây giờ chàng mới vụt nhớ lại – Mùi cô con gái bé của chàng cũng đương nín thở nhìn ra, tay nàng víu chặt lấy vai chàng vì cảm động. Chàng cất tiếng gọi:
“Cô Mùi ơi. Cô vào đây.”
Mùi chạy ngay vào buồng, hỏi:
“Gì thế anh?”
Siêu chỉ tay ra phía cây mít:
“Cô nhìn xem”.
Mùi nhìn và nói:
“À cây mít”.
“Không phải cây mít. Cái dây để treo lồng bẫy chim bây giờ hãy còn kia. Thế có tài không?”
“Ờ nhỉ, thế mà lần nào về đây em cũng vào cái buồng này mà không nhìn thấy nó”.
Nhưng Mùi không nói ra cho Siêu biết là nàng thường vào cái buồng này chỉ để cốt nhớ lại hôm được Siêu ôm nàng trong người. Mùi cúi đầu nhìn cho rõ và có ý để sát đầu mình vào đầu Siêu.
“Thế này y như là thuở bé chúng mình đợi chim ấy nhỉ”.
Siêu thoáng ngửi thấy mùi tóc thơm, thẫn thờ nói:
“Thuở bé thích nhỉ. Chẳng có gì phải lo”.
Mùi nói:
“Bây giờ cũng thích chứ, có gì phải lo đâu”.
“Ừ nhỉ, bây giờ cũng thích nhỉ”.
“Có phải không anh?”
Trong lúc đó thì Triết và Mạch đứng ở bờ ao. Mạch rời làng lúc còn bé quá nên chỉ nhớ lại có cái ao, lần đi tắm bị ngã xuống ao thấy nước vàng khè cả mắt và một lần nữa đi bắt châu chấu bị ngã xuống rồi tự bò lên được. Mạch kể lại cho Triết nghe, Triết nói:
“Từ thuở bé hình như anh cũng đã loăng quăng rồi”.
“Thế mà hai lần em không chết. Không biết độ em ngã ở chỗ cầu kia, ai kéo chân em lên?”
Triết nói:
“Tôi kéo chân anh lên đấy. Không có tôi thì Mạch chết rồi còn đâu sống đến giờ mà loăng quăng”.
Rồi Triết đấm một cái mạnh vào lưng Mạch làm Mạch kêu “ái” lên một tiếng và mỉm cười:
“Không biết thuở bé anh có hay đấm em như thế này không. Thuở bé mà đấm thế này thì gẫy hết lưng rồi còn gì”.
Rồi Mạch cho tay vào sườn áo Triết, lần lần đưa lên tìm đầu vú Triết và véo mạnh một cái. Triết cứ để yên: giữa hai người đã thành cái lệ là hễ khi nào Triết đấm một cái thì phải để cho Mạch béo vú một cái đền.
Ông Lý Đàn lấy làm lạ rằng về viếng mộ bà Lang mà chẳng ai để ý đến việc dọn mâm cúng cả. Triết thì chạy ra bờ ao còn Mùi thì chạy vào trong buồng. Ông cất tiếng:
“Cô Mùi ơi. Cơm cúng đã dọn xong rồi”.
Siêu và Mùi trở ra. Lúc mở cánh cửa to ra cho Mùi đi, nghe lưng cửa kêu két, chàng thấy nhói một cái ở tim.
Cái cánh cửa ấy trước kia có một cái tật làm chàng khó chịu lắm là mỗi lần mở to ra, nó kêu két lên một tiếng chàng nghe rùng mình như là nghe tiếng mài cưa hay cạo nứa. Chàng nhớ lại đã nhiều lần đâm cáu và vì thế mà mỗi lần đi ra chàng phải để ý mở nhỏ vừa đi thôi. Chàng đã bảo bác chủ nhà chữa mấy lần nhưng bác ta cứ lần lữa mãi rồi sau chàng phải đi Hải Phòng. Thế mà sau sáu bẩy năm, bao nhiêu sự thay đổi, cái cửa vẫn giữ nguyên cái tật cũ.
Siêu mỉm cười vì lần này nếu có ngày về đây ở, chàng không bao giờ chữa cái cửa nữa, cứ để cho nó kêu két.
Mộ bà Lang ở cạnh chùa làng; bà rất sùng đạo nên trước khi chết bà trối trăng lại chồng thế nào cũng an táng ở gần chùa làng. Mùi đặt mâm xôi gà lên mộ, thắp hương rồi ngồi xệp xuống cỏ lâm râm khấn. Lúc mới đầu, nàng khấn theo bài khấn mà các cô đã dậy nàng học thuộc lòng và bài ấy có vần có điệu. Nhưng lần này, Mùi lại có nhiều việc muốn nói với bà Lang mà trong bài khấn không có; nên khấn xong bài cúng rồi, nàng xoay ra nói như thường. Nàng lẩm bẩm:
“Thưa đẻ, năm nay bác Cai với các anh Siêu anh Mạch về ở với con. Bác Cai bị bệnh, xin đẻ phù hộ cho bác ấy chóng mạnh. Thưa đẻ bây giờ con đi cân gạo, đẻ phù hộ cho con phát tài để con về xây cất mộ đẻ thật đẹp. Mười đồng bạc đẻ cho vẫn còn nguyên mà bây giờ con đã có cái vốn năm trăm bạc rồi, đẻ ạ”.
Mùi không dám chắc bà Cai có tờ giấy một trăm nhưng nàng cũng cứ nói cộng vào để cho số vốn to hơn và như thế mẹ nàng ở dưới suối vàng mừng hơn. Lúc khấn theo bài thì nàng không cảm động gì nhưng đến lúc xoay ra nói thường thì nàng tưởng như là được nói chuyện với mẹ và nước mắt trào ra.
Lúc về qua chùa, Mùi rủ Siêu vào thăm chùa và bảo bác người nhà đem mâm về trước, làm sẵn cơm đợi. Mùi chỉ vào cái gác chuông nói:
“Độ trước em đi học chữ nho cụ Đồ Khải vẫn thường ẩn mưa ở cái gác chuông này. Anh Siêu, anh lên gác xem cái chuông không?”
Lên tới nơi Mùi chạy ngay lại cái chuông cúi người tìm hai con rồng chầu mà ông Ký Rượu đã chỉ cho nàng xem. Nàng quay lại bảo Siêu:
“Đấy anh xem”.
Siêu chẳng thấy có gì lạ đáng xem cả:
“Có cái gì mà xem”.
“Con rồng”.
Rồi Mùi lại giơ tay ướm thử chiều cao của con rồng rồi lại nhấc tay cao lên một tí, Mùi nhớ rõ độ ấy nàng phải hơi kiễng chân mới nhìn thấy con rồng nên nàng đo chiều cao để biết rõ hôm ông Ký Rượu ôm nàng, nàng độ bao nhiêu tuổi. Siêu mỉm cười vì không hiểu tại sao Mùi nhìn một con rồng rất thường ở mặt chuông lại rối rít lên như thế và nhất là nàng lại giơ tay đo đo y như lúc nãy ngồi trước cái bị. Chàng bảo Mùi:
“Cao thế thì hôm ấy cô độ bẩy tám tuổi”.
Mùi thản nhiên nói:
“Em cũng đoán phỏng chừng thế. Thôi xuống thôi”.
Xuống đến giữa sân chùa, Mùi đột nhiên hỏi Siêu:
“À! Anh nói hôm ấy là hôm nào cơ?”
Siêu mỉm cười:
“Hôm ấy là hôm cô đi học chữ nho về, bị giời mưa to vào ẩn mưa ở cái gác chuông rồi không có việc gì làm mới vớ vẩn đứng ngắm con rồng ở cái chuông”.
“Anh đoán tài nhỉ không như lúc ở chợ”.
Rồi Mùi gọi Triết và Mạch để cùng về.
Nguồn: Nhất Linh – Trong Tự lực Văn đoàn. Xóm Cầu Mới (Bèo giạt). Nhà xuất bản Văn Mới, California, Hoa Kỳ, 2002. Bìa: Nhất Linh. Hoạ bản: Nhất Linh. Trình bày: Nguyễn Tường Thiết. Copyright © Nguyễn Tường Thiết. Bản điện tử đăng trên talawas do Nguyễn Tường Thiết cung cấp.