Văn học miền Nam 54-75 (531): Hồ Hữu Tường (kỳ 3)

Trầm tư của một tên tội tử hình

Trầm tư thứ nhứt – Cái nghiệp tiên thiên

Tôi sanh trưởng nơi một gia đình nông dân nghèo ở miền Hậu Giang. Cha tôi, mồ côi cha sớm từ mười hai tuổi đã phải đi ở đợ để nuôi thân và không được đi học. Nhờ tánh tình hiền hậu, ngay thẳng và siêng năng, ông được một nhà giàu gả cho đứa con nuôi, cho mướn ruộng và giúp vốn để cất nhà, làm mùa, rời thân phận ở đợ để trở nên một tá điền cho đến ngày lâm chung. Lúc ấy, cả hai đều không có học. Về mặt tư tưởng, cha tôi không theo đạo Phật, chẳng theo Lão giáo, mà cũng không biết Khổng giáo là gì, bình sanh rất ghét thầy chùa, thầy pháp, và chỉ biết thờ kính ông bà.

Làm mùa trúng luôn mấy năm, trong nhà dành dụm có dư chút đỉnh, cha tôi mới gởi anh cả tôi đến một ông đồ ở gần đó mà học chữ HÁN. Ngày thì đi làm ngoài đồng, tối lại quạt muỗi cho con học, ông học lóm được chữ Hán, chữ Nôm, đọc được truyện sách và bắt đầu giao thiệp rộng. Mỗi năm hễ hết mùa mưa, thì có ghe bầu từ những miền Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, chở những thổ sản ngoài ấy vào, thỉnh thoảng có một vài thầy thuốc bắc, một hai ông đó theo các ghe ấy vào mà đi tìm việc: đó là những mối giao du thích nhất của cha tôi. Tết năm 1910, lúc ấy tôi còn trong bụng mẹ, theo lời thuật lại, cha tôi giao thiệp được một người, không biết tên họ gì, mà thiên hạ sau này đều gọi là thầy Quảng, vì có giọng nói Quảng Nam đặc biệt. Không ai thấy ông này làm nghề gì, nhưng người ta đồn ông làm thợ mộc, rồi bởi ông giỏi bùa Lỗ Ban nên thiên hạ sợ ông ểm, mà không ai mướn cả. Ông say rượu cả ngày, ngồi trên một chiếc xuồng mà bơi đi hoài, ít ghé đâu cả. Thế mà ông thích ghé nhà tôi để thuyết đạo cho cha tôi. Ông thuyết cái gì? Sau này tôi chỉ nghe tóm tắt mà thôi. Thầy Quảng khuyên cha tôi nên theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương mà tin rằng Di Lặc sẽ giáng trần chỉnh lại pháp cũ, làm cho “minh đạo” sẽ tái sanh. Cha mẹ tôi bàn luận với nhau nhiều về sự này, nhưng rốt rồi không theo. Cha tôi đợi mãi đến năm 1930, vài chục tháng trước khi ông chết, mới thượng trần điều trên bàn thờ, để tỏ ra rằng bây giờ ông đã là tín đồ của đạo ấy. Nhưng đến lúc đó, toàn xứ Việt đếm không còn được vài ngàn tín đồ theo phái này.

° ° °

Tôi lớn lên, đi học khoa học ở Âu châu, nhiễm thêm được một mớ chủ nghĩa Marx, về xứ rồi, thấy trần điều thượng lên bàn thờ, hỏi ra, mới biết nguồn căn của cái tôn giáo đã để hai mươi năm đặng thay đổi lòng của một nông dân thiếu học. Bây giờ đến phiên cha tôi đem những truyền thống mà ông và mẹ tôi đã nghe, lúc mà tôi chỉ là một cái thai vừa tượng, mà thuật lại cho tôi, đương đầy kiêu hãnh vì mớ khoa học và chủ nghĩa vừa nuốt được. Vì lòng kiêu hãnh của một tân đồ kia, tôi không chấp nhận lời truyền đạo ngay của người cha kính mến.
Hơn ba mươi năm đã qua. Nhiều sự thất bại trong cuộc vật lộn với đời làm cho tôi có nhiều kinh nghiệm hơn, và do đó, trở nên khiêm tốn. Vào nhà tù chuyến này, tôi lại chỉ thấy có một cửa ra: cái chết, vì mười hai viên đạn, hay vì bịnh, hoặc già. Càng gần cái chết, con người cần xét nét để ôn lại đời mình. Tôi mới thấy tôi đã vương lấy cái nghiệp của tôi, trước khi ra bụng mẹ: lúc ấy mẹ tôi đang nghe bàn đến sự sửa lại thường xuyên của đạo Phật mà tượng trưng là Maitreya, đức Phật đầu thai lại mãi để chỉnh lại cái pháp, nên chi bây giờ, mặc dầu tôi không phải là tín đồ của đạo Phật, tôi mãi lo âu về sự sửa lại ấy.
Tôi lo âu về sự này từ năm 1939, khi bắt đầu cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai, lúc ấy tôi cũng bắt đầu một kỳ tù năm năm. Năm ấy, tôi bắt đầu hoài nghi về mớ lý thuyết mà tôi đã học của Marx, và thấy rằng, ngày sau mà thế giới một nhà được, vai trò của luân lý và tôn giáo rất là hệ trọng. Trong năm năm ở tù, không có sách đọc, tôi cứ suy nghĩ mãi về sự tổng hợp chủ nghĩa xã hội và đạo Phật. Về mặt lý thuyết, sự tổng hợp ấy có thể làm được, nhưng về đường thực tế, trong hai cái đại gia đình, gia đình xã hội chủ nghĩa và gia đình Phật tử, chẳng có ai ươm thử việc này. Từ ấy, cái nghiệp nói trên càng quấn quít tâm hồn tôi. Nên chi tôi đặt cái trầm tư thứ nhất này dưới dấu hiệu của Maitreya, không phải bởi tôi tin rằng ngài sẽ đến bằng xương thịt, mà bởi tôn tán thưởng cái tượng trưng sự sửa lại.

° ° °

Với sự tấn triển của khoa học và nhất là của chủ nghĩa Marx, một tôn giáo nào, ở phương Đông hay ở phương Tây, mà muốn tồn tại, tất phải sửa lại giáo điều của mình. Đối với Phật pháp, sự sửa lại này gọi là chỉnh lại cái pháp. Và đạo Phật rất khoan dung đối với những sự chỉnh pháp như vậy. Năm trăm năm sau khi phát sanh, đạo Phật đã thay lốt một lần, do sự đụng chạm với các học phái Bà La Môn, mà phát xiển phần hình nhi thượng, mà sáng tạo lắm tượng trưng, đến đổi hoá ra hữu thần: ấy là buổi đầu của Phật giáo đại thặng. Cuối thế kỷ mười ba, dưới sự đô hộ của dân Mông Cổ, khắp nước Tàu tràn lan một chi phái mới, dưới tên là Bạch Liên giáo, truyền rằng Di Lặc giáng trần, để tổ chức tín đồ vào một giáo phái, nửa tôn giáo, nửa chánh trị Bạch Liên giáo này đã chủ động bao nhiêu cuộc khởi nghĩa làm rúng động cả nước Tàu, suốt mấy trăm năm, đến cuối thể kỷ mười tám mới dứt, mà dư ba hãy còn kéo dài đến cuối chiến tranh Quyền phỉ. Nay, trăm năm triệu tín đồ của Phật ở Trung Hoa lại lọt dưới sự chi phối của chủ nghĩa cộng sản, nếu không có một sự vươn mình thay lốt nào cả để tồn tại, thì chỉ còn một vài thế hệ thôi, đạo Phật sẽ rời bỏ xứ này. Còn lại gần trăm triệu người ở Nhật, gần trăm triệu người ở Đông Nam Á và các nơi: thì, ở đây, ngoài sự không an ninh về chánh trị, đạo Phật lại bị các tôn giáo khác và khoa học tấn công. Trong viễn đồ này, mấy năm chót của thế kỷ hai mươi hình như là những năm chót của đạo Phật trong thế giới. Muốn tồn tại, ở Tàu cũng như ở ngoài nước Tàu, đạo Phật cần phải chỉnh lại pháp mình.
Mà đạo Phật cùng các tôn giáo khác, cần phải tồn tại chăng? Nói một cách khác sự tiến bộ của loài người, về triết học, về khoa học và về chánh trị, đã đủ chưa để xây dựng một cái xã hội không cần đến tôn giáo và luân lý? Trả lời rằng đã đủ, ấy là một cái sự quá vội vã. Chánh trị chưa tìm tổ chức được một xã hội trong ấy chỉ cần luật pháp và quân đội để cai trị, mà chẳng nhờ đến luân lý và tôn giáo để đứa hoá đa số nhân dân. Khoa học chỉ khảo cứu được một phần các hiện tượng của vạn vật mà còn lưu lại vô số vấn đề đương đòi hỏi câu trả lời, mà triết học và khoa học chưa tìm được. Và lý lẽ quyết định hơn hết, là con người của thế kỷ hai mươi này vẫn còn những bản tính thô sơ, còn bị bản năng kích thích mạnh, còn bị nhiệt tình đốt nóng, thì còn cần có một cái văn mình mới để rèn luyện, uốn nắn, hun đúc cho ngày càng cao quí đẹp đẽ hơn, trong ít lắm là năm ba trăm năm. Tôi muốn nói đến cái văn minh tu sĩ. Thì đạo Phật, cũng như các tôn giáo khác, cần phải hoà mình vào các văn minh tu sĩ ấy, cho loài người dùng, chẳng khác nào những cái phao cho người tập lội ôm trong buổi đầu vậy.
Tuy các tôn giáo thảy cần tồn tại, để hoà mình vào cái văn minh tu sĩ ấy, song không phải cái nào cũng dễ trường tồn. Xét về bản chất của nó, đạo Phật có nhiều nội lực giúp cho nó vượt thời gian dài hơn hết, thế mà nó bị những yếu tố ngoại quan của lịch sử làm cho nó bị đe doạ nhiều hơn cả. Bị nguy cơ kế đó là Ấn giáo, bởi đạo này không chịu đựng nỗi một cuộc cách mạng chánh trị mà động cơ chính là thuyết bình đẳng. Kế đến là Hồi giáo ở Trung Đông và Bắc Phi. Trong viễn đồ Đông Tây cộng tồn, thì Kitô giáo được sự an ninh chánh trị đảm bảo cho vững vàng hơn hết. Song sự cộng tồn này kéo dài được bao lâu? Hay là rồi đây nhân loại phải dấn vào một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba? Mỗi lần có chiến tranh thế giới, là có những thay đổi vĩ đại. Trông gương chiến tranh thế giới thứ nhất: nó sanh đẻ ra cách mạng Nga làm cho gần một trăm năm mươi triệu tín đồ của Kitô giáo chánh thống lọt vào lưới của cộng sản. Trông gương Chiến tranh Thế giới thứ Hai: nó làm cho cả Trung Âu bị Hồng quân chiếm và nó sanh đẻ ra cách mạng Tàu, làm cho năm trăm triệu tín đồ của Phật giáo lọt vào lưới của chủ nghĩa Marx. Rồi ta thử nhìn cái cứu cánh của một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba, với khí giới nguyên tử và khinh khí, với khí giới hoá học và vi trùng và nhất là với khí giới lợi hại hơn tất cả là lý tưởng chiến tranh thế giới thứ ba, hơn cả thứ nhất và thứ hai, sẽ làm trúc đổ bao nhiêu đế quốc khổng lồ, làm tan nát lắm kiến trúc chánh trị cũng như tôn giáo, làm cho nhân loại trở lùi trên đường lịch sử năm ba trăm năm là ít. Nó sẽ là cái mạt pháp cho tất cả, chớ không phải riêng cho đại Phật, ở xứ thắng cũng như ở xứ bại, nối tiếp sự tàn phá và sợ hãi, là luồng gió bi quan, sau đó mới đến sự mong mỏi thuận lợi cho một tôn giáo bao trùm cả loài người.
Qua những đợi hãi hùng ấy, trong bốn tôn giáo lớn cũ, cái nào có thể thay lốt mấy lần, như con tằm từ trứng sang sâu, hoá nhộng để thành bướm bay đi được? Tôi không biết trong Ấn giáo, trong Hồi giáo, trong Kitô giáo có những lo âu như thế chăng? Riêng Phật giáo, với sự bá chiếm cộng sản của nước Tàu và sự không an ninh ở Đông Nam Á, thì vấn đề đã đặt ra hơn mười mấy năm nay rồi và đòi hỏi những giải quyết cấp bách. Thế mà tôi chưa nghe được một tiếng vang nào cả về một cái ướm thử chỉnh lại Phật pháp: năm 1959, tạp chí France-Asie, trong số đặc biệt về sự hiện diện của đạo Phật, mặc dầu có rất nhiều bài của các vị bác học và cao tăng, không có nói phớt qua đến vấn đề trọng đại này.
Tôi không phải là một nhà bác học hay một bực cao tăng. Nhưng, đứng trước sự bức bách này mà chẳng ai thốt lời nào, và bị cái nghiệp tiên thiên nói trên kia thúc đẩy, âu là tôi lên tiếng vậy.

° ° °

Điều mà cần chỉnh lại hơn hết trong đại Phật, là xu hướng xuất thế. Trong Phật giáo tiểu thặng cũng như trong Phật giáo đại thặng, cái xu hướng này là của chung và Thích Ca Mâu Ni dạy người giải thoát cá nhân vào Niết Bàn, khi còn sống, cũng như sau khi tịch diệt. Có lẽ hồi thời của Phật, kinh tế còn là tự nhiên, con người ít bị đớn đau mỗi ngày vì sự bóc lột, chánh trị còn là đơn sơ, thần dân ít bị khổ sở vì sự thiếu tổ chức xã hội, nên chi nhìn nhận cái khổ, người thấy rõ chỉ có sanh, bịnh, lão, tử, không ưa mà hợp, ưa mà phải xa lìa, muốn mà không được, mất cái vinh lạc. Cái khổ này là cái khổ cá nhân, thì sự tìm giải thoát bằng phương pháp cá nhân là một việc giải thích được. Nhưng loài người càng tiến triển, liên hệ xã hội càng phức hoá, thì một cái khổ khác tràn lên, cái khổ tập thể bởi sự tiến triển này. Cái khổ tập thể này xảy ra thường xuyên, mà thỉnh thoảng dồn thành cơn ngặt nghèo là chiến tranh: là chiến tranh nội loạn và chiến tranh dân tộc, lần lần gom lại thành chiến tranh lý tưởng và chiến tranh thế giới. Đối với cái khổ mới và lớn này, nếu không có một lối diệt khổ thích đáng, thì quần chúng quên hẳn lối xuất thế của của đạo Phật, hay của bất cứ tôn giáo nào khác, nghe theo những khẩu hiệu tuyên truyền của các đảng phái chánh trị. Mà những người tu sĩ cũng không thể yên lòng được để nhập định.
Đối với một tối tiểu thiểu số, có thể duy trì cái xu hướng xuất thế, để an lòng họ trong khi họ bị vi trùng của bịnh hình nhi thượng đục khoét. Nhưng đối với tối đại đa số, cái pháp mới phải có một đại xu hướng xử thế. Làm thế nào để tránh chiến tranh và cách mạng? Nói một cách khác, tôn giáo phải đồng nhất với chánh trị. Sự đồng nhất này không thể quan niệm bằng cách lập những đảng chánh trị để bệnh vực cho những giáo điều sẵn có – cái mà ta thường thấy sau trận chiến tranh thế giới thứ hai – mà phải hiểu rằng đây là một sự cố gắng làm cho quần chúng đến một sự giải thoát đích thực, miễn cho loài người làm chánh trị cái trạng thái con tằm nhả tơ tự dệt cái ổ để nhốt mình vào. Chính cái xu hướng xuất thế xưa kia làm cho người ta lầm tưởng rằng đạo Phật dạy tín đồ nhẫn tùng, rồi cho rằng “tôn giáo là thuốc phiện của dân”. Maitreya của thời này phải đánh tan cái lầm ấy và đáp lại lời đòi hỏi của tín đồ Bạch Liên giáo suốt năm trăm năm, của tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương gần một trăm hai mươi năm, là lập thiên đàng trên cõi thế.

° ° °

Đồng nhất với chánh trị để xử thế, không phải là tôn giáo chạy theo chánh trị để a dua theo kẻ có quyền thế và để ban phép lành cho họ. Kẻ làm chánh trị, hơn hẳn người thường, là những kẻ bản năng mạnh, nhiệt tình nồng, hay thiên về cực đoan, hay ngã về bạo lực. Để tránh những việc như đày hàng mấy chục triệu người vào trại giam, như đốt ngòi chiến tranh thế giới để củng cố địa vị cá nhân cha mình, thì không nên để cho sự ngẫu nhiên của tranh đấu, đưa kẻ tranh đấu lên dẫn đầu, mà phải tuyển trạch kẻ ấy trong hàng những người sáng suốt, bác ái và hiền lành hơn cả. Nếu không có cả một cái văn minh mới để rèn luyện, uốn nắn, hun đúc con người theo cái mẫu này, để rồi tuyến trạch những phần tử ưu tú hơn hết trong đó, đặng đưa lên làm người lãnh đạo, thì cái văn minh đương thịnh hành ngày nay, cái văn minh chánh uỷ, chỉ cung cấp cho ta những người cầm đầu bạo ngược và man trá.
Đồng nhất với chánh trị, cái tôn giáo đội lốt mới này mở màn cho cái văn minh mới ấy, gọi là văn minh tu sĩ. Từ ngàn xưa, hễ bắt đầu có tôn giáo, thì đã có người tu hành. Có lắm lúc, kẻ tu hành này lại nắm luôn quyền chánh trị. Nhưng, những hình thức đó chưa lập nên được cái văn minh tu sĩ. Nay là lúc phải nâng sự tu hành này lên bực văn minh để nó dìu dắt loài người, từ trạng thái ly tán từng dân tộc, từng giai cấp, đến cái thế giới đại đồng, điều mà chánh trị chỉ thấy thực hiện được bằng máu lửa của chiến tranh và cách mạng. Nếu mà cái văn minh tu sĩ này sớm xuất hiện được, hoạ may sẽ miễn cho nhân loại cuộc đại chiến thế giới thứ ba. Rủi mà chiến tranh thứ ba nổ ra trước rồi, thì quả địa cầu sẽ đầy dẫy tàn phá, tang tóc và căm hờn. Dẫu ai là chủ của mai sau, kẻ thống nhất được địa cầu bằng máu lửa sẽ chẳng hơn gì các Cásars xưa lập đế quốc La Mã lên để dọn cho Kitô giáo cũ: một văn minh tu sĩ sẽ rất cần để hàn vá những vết thương và dập tắt các căm hờn, để xây đắp sự thống nhất loài người trên những nền tảng vững chắc và vĩnh cửu hơn là quân đội và cảnh sát.
Từ mấy năm nay, nhiều nhà cách mạng cũ rời bỏ hàng ngũ của chủ nghĩa Marx, vì cái chánh trị của đảng này thiếu một cơ sở luân lý. Khroutchev, khi chỉ trích cái chánh trị của Staline, cũng đưa những lý lẽ thuộc nhơn luân. Kinh nghiệm của gần năm mươi năm cách mạng Nga chứng cho ta thấy rằng chánh trị mà buông lung, thì chẳng khác nào ngựa mạnh mà không cương, thêm bịt mắt, nó có thể đưa vào hố thẳm. Mà nếu không có một cái văn minh tu sĩ đặt những lignes de force 3 cho kẻ làm chánh trị hướng theo, thì họ biết nghe vào đâu khác hơn là tiếng gọi của bản năng?
Kẻ chiến sĩ, người lãnh đạo đã cần có luân lý, thì đám quần chúng lại cần đến tôn giáo để biết đâu là nên, đâu là không, hầu xử sự. Những tôn giáo có giáo điều phản khoa học là những cái lần lần bị khoa học gạt bỏ. Nhưng những thị kiến của đạo Phật không trái với khoa học, thì đạo Phật có nội lực để trường tồn. Những học thuyết dựa vào sự “chúa sáng tạo” đụng chạm hẳn với thuyết duy vật vô thần, thì một bên thắng một bên tiêu đã đành. Mà thuyết vô thường vô ngã của đạo Phật có thể dung hoà với biện chứng pháp được.

° ° °

Đồng nhất với chánh trị, vươn mình lên thành một cái văn minh mới, mà mỗi năm thêm lại bị một phát minh mới của khoa học kích bác, thì là một việc không thể dung thứ được. Đạo Phật xuất hiện trước khi khoa học phát sinh, nên thay vì một sự hiểu biết chính xác bằng vào thực nghiệm, chỉ có những thị kiến về vũ trụ, về vật lý, về sinh vật, về tâm lý. Đã đành rằng lắm thị kiến này thật là thiên tài và đến thế kỷ mười chín và hai mươi, sự hiểu biết của thời này nhận rằng Phật và các vị Bồ Tát đã thấy đúng. Nhưng không nên lấy đó mà bảo rằng giáo điều của Phật là hơn tất cả. Cái tương quan giữa Phật giáo và khoa học, cả hai đều căn cứ vào lý trí, không nên xây dựng trên sự dùng khoa học mà chứng minh tôn giáo, hoặc sự dùng tôn giáo mà thay thế cho khoa học.
Đạo Phật, và chỗ này nó khác hơn các tôn giáo khác, là một sự tu luyện, theo nghĩa tầm nguyên của danh từ này: tu là làm cho càng tốt đẹp thêm mãi, luyện là làm cho tinh ròng thêm mãi. Phật tử tu luyện để làm cho lý trí càng thuần thục hơn hầu đến cái giác. Nếu sự tu luyện ấy dùng để dự bị vấn đề, chuẩn bị các điều kiện, vạch lối trước bằng trực giác hay thị kiến cho các sự giải đáp các vấn đề này, thì tôn giáo sẽ là hướng đạo cho đại hội quân của khoa học. Chừng ấy Niết Bàn sẽ không còn là một cái chứa không có gì đựng ở trong và chỗ nhằm của các vị Bồ Tát, (tự giác nhi giác tha), mới đạt được. Trong hai mươi lăm thế kỷ đã qua, những thị kiến của đạo Phật đã làm khởi hứng cho văn chương và nghệ thuật của nhiều dân tộc ở Á châu. Nay, nếu làm khởi hứng được cho khoa học, những thị kiến của cái văn minh tu sĩ mới này sẽ làm cho văn minh này tràn lan khắp địa cầu, trở nên một cái chung của nhân loại.
Phần nào của những thị kiến này chứng minh bằng khoa học được, thì tài bồi cho miếng đất khoa học rộng lớn và phì nhiêu thêm, phần nào chưa thực nghiệm được, thì dùng trực giác để thẩm xét và phê phán. Như vậy các thị kiến mới này sẽ làm chất phân nuôi sống các loài câu triết học cho cành là sum sê, hoa quả vinh mậu. Chừng ấy cái gạch nối liền tôn giáo – triết học – khoa học – chánh trị sẽ thành được.

° ° °

Nhưng chừng ấy, tôn giáo đó không còn là đạo Phật cũ xưa nữa. Sau mấy lần thay lốt đổi hình, nó không còn giữ vững nét dáng mà người ta thường thấy. Vậy, dưới cái sắc mới, ta hãy cho một cái danh mới, và gọi là minh đạo. Nhìn trong minh đạo, ta thấy có từ bi và bác ái, có công bình và thương người, có bình đẳng và tự do… tóm một lời là tất cả các cao vọng của các tôn giáo, kể cả xã hội chủ nghĩa hiện kim. Thế thì tuy bắt nguồn nơi đạo Phật, minh đạo phải tổng hợp tất cả các nền tảng luân lý của tất cả các tôn giáo, để xây đắp cái cơ sở chung cho việc xử thế: đạo đức.
Có nền tảng đạo đức vững chắc rồi, thì chánh trị mới hoàn về cái sửa trị, sửa đường vạy để đi theo đường chính, một con đường rộng thênh thang, lại được trí tuệ soi sáng tỏ, chớ không phải lối mê ly eo hẹp mà trong mù tối như từ xưa đến nay. Có cái chánh trị như thế mới tránh được hoạ dân tộc và giai cấp tương tranh, lập được cảnh thanh bình cho loài người. Như vậy, sẽ không còn là cái chánh trị cũ xưa, theo lối của Thương Ưởng ở phương Đông và Machiavel ở phương Tây; bởi vì, một khi đã được cảnh thanh bình, thì cần quyền xử thế không còn là những người đầy dục vọng, mà là những bậc hiền triết, vậy đâu còn cần những thuật man trá và bạo ngược như bây giờ?
Khoa học và triết học sẽ hun đúc theo một tinh thần mới. Minh đạo cũng sẽ khởi hứng cho nghệ thuật và văn chương. Các thứ này sẽ nhờ nó mà có một gia tốc lớn và tiến tới với một vận tốc chưa từng thấy. Đó là cuộc cách mạng văn hoá, cuộc cách mạng đích thực và bền vững hơn hết. Nó đã đến không nhờ những trúc đổ ầm ĩ và phá hoại khổng lồ. Nó đã đến trong đôi giày nhung, không ai nghe mà ngờ, chỉ có kẻ sáng suốt mới trông thấy được.

° ° °

Như thế người sáng ra cái minh đạo – là Maitreya giáng trần như đạo Bửu Sơn Kỳ Hương tin – là người cách mạng vĩ đại hơn hết, chớ chẳng phải chỉ là vị Phật cao hơn hết như lời của Thích Ca Mâu Ni đã nói ba lần dưới cây Long Hoa. Mẹ tôi, một đàn bà nông dân quê mùa, đã nghe tới việc ấy, khi mang tôi trong bụng và đem chuyện ấy mà thuật lại chung lộn với những cổ tích đầy thần tiên cho tôi nghe khi tôi còn nhỏ xíu. Cha tôi, khi gần lâm chung, nhắc lại cho tôi nhớ, dường như là một lời di chúc. Thế mà, mấy chục năm nay, tôi không hiểu, chẳng khác nào thấy cây mà chẳng thấy rừng.
Nay hiểu được, thì thân đã bị giam vào giữa bốn bức tường, với một cái án không thấy thoát ra được. Làm sao mà đeo đuổi được cái nghiệp tiên thiên này? Âu là ước mong sao cho những trầm tư này động được lòng ai đương khổ vì cái khổ lớn của thế kỷ hai mươi vậy.
Côn Sơn, tháng Bảy 1962

Nguồn: https://vietmessenger.com/books/?title=tram%20tu%20cua%20mot%20ten%20toi%20tu%20hinh#2

Các bạn có thể đọc toàn văn sách tác phẩm trên website vietmessenger theo đường dẫn trên – Văn Việt

Comments are closed.