Nguyễn Đức Tùng
Trong khi chúng ta quay đi, thế giới thay đổi. Những liên kết nhảy vọt trong thơ Dương Tường tạo ra các ảo ảnh. Đó là chuyển động nhanh từ một hình ảnh này đến hình ảnh khác; hai hình ảnh, rời nhau, và khoảng cách giữa chúng, tập hợp ấy tạo ra nội dung mới và ý tưởng mới.
Vẽ nhăng trên tường ở Paris
Ngớ ngẩn thăng hoa
Thơ ca cứt đái
Âu yếm đầu đường xó chợ
Vẽ nhăng trên tường ở Paris
Tình sử khoác vỏ ngoài tục tĩu
(bản dịch của Phạm Toàn)
Trong một bài thơ của Dương Tường, có sự chuyển động phức tạp, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến tương lai và ngược lại, từ hiện thực đến ảnh trong gương và ngược lại, và cuối cùng tác giả lăm le vượt qua biên giới giữa lời và ngoài lời. Thơ Dương Tường là một cố gắng, đối với nghĩa thì đi ra ngoài nghĩa đến chữ, tức đến âm, và đối với chữ, thì đi ra ngoài chữ, hay ngoài lời, tới cái không lời.
Tôi đâu chọn
rì rào
mái đầu thương
ngày r
ụ
n
g
dòng đau
trôi một mùa xác ve sầu
Ngày r hay ngày (rụng) là một cố gắng “phi lời”. Dương Tường đặt cược đời mình vào đó, sự vượt qua. Thơ ông không phải để đọc lớn. Mặc dù là một thứ thơ âm bồi, như tác giả tự gọi, tức nặng về âm thanh, con âm chứ không phải con chữ, thơ ấy không dùng để đọc lớn. Bạn chỉ nên đọc thầm hay đọc trong im lặng.
Vì âm thanh của thơ vang lên trong im lặng. Khả năng cắt rời hiện thực và liên kết chúng lại đòi hỏi khả năng ngôn ngữ lẫn hội họa, mà tôi tin ông có hai thứ ấy. Hiện thực tuy thường xuyên dịch chuyển nhưng không biến mất, chúng để lại ảnh trong gương, nơi đánh dấu sự trở lại. Đó là cách nói khác để mô tả sự lơ đãng có chủ đích. Lơ đãng chọn lọc.
Les graffiti de Paris
j’en cueuille par ci et par là
c’est comme des tulipes écloses
dans la fange
je les mets au vert
et en hume le bouquet
Những hình vẽ nhăng trên tường ở Paris
ta lượm đây một đóa kia một đóa
như tuy-lip nở trong bùn
nâng niu chăm chút
vục mặt hít hà
(bản dịch của Phạm Toàn)
Dương Tường không phải là người đưa ra các nhận xét luân lý, bài thơ của ông không hướng tới kết luận có ý nghĩa xã hội, nhưng chính sự buông thả ấy làm nên khí chất nghệ sĩ. Tuy vậy, sự hiện diện của chính tác giả trong bài thơ, như một nhân vật, sự hiện diện ấy làm đầy ý nghĩa của bài thơ, như khi có một người bạn thân đến thăm bạn, chỉ cần người ấy bước qua ngưỡng cửa và ngồi xuống, không nói năng, không gian buổi chiều của bạn đã được làm đầy.
Bởi tình yêu và sự thương xót. Bởi lòng can đảm. Sự tỉnh thức của Dương Tường là sáng sủa và mạnh mẽ. Hãy coi:
Je me nourris
De l’amer de l’amour
Tôi nuôi sống mình
Bằng chất đắng tình yêu
(bản dịch của tác giả)
Chữ l’amer, l’amour chơi chữ, khó dịch. Tính riêng tư trong thơ Dương Tường cao, sự trầm tư, hình ảnh chắt lọc, làm cho thơ ấy thành một thứ để ngẫm đi ngẫm lại, đôi khi trong một số bài thơ ngắn đó là các thứ cây cảnh bonsai. Hoặc Haiku. Có thể đời sống nơi Dương Tường viết, từ những năm trẻ tuổi, là một xã hội thiếu tự do đến mức mà sự khôn ngoan và sự hèn nhát thực ra là một, và kẻ yêu quý tự do không thể không phản kháng. Như thế, trong văn chương, sự hài hước và phóng túng, các hình thức vô thức của phản kháng, cần thiết hơn bao giờ hết. Dương Tường giữ trong thơ những huyền thoại, ông nuôi dưỡng chúng, làm cho chúng lớn lên, ngày ngày, lặng lẽ, gần như cô độc, nên nhiều người không biết. Tôi có cảm giác rằng ngay cả một số những người gần gũi không phải bao giờ cũng chia sẻ những quan tâm đặc biệt của Dương Tường. Một người dễ mến, giao thiệp rộng, đa tài, can đảm trong những hoàn cảnh khắc nghiệt, thấy như vậy là đúng về Dương Tường, nhưng có lẽ không đủ. Tôi không biết rõ đằng sau những tính cách ấy là gì, nhưng có cảm giác về một hiện diện khác, mơ hồ, sầu muộn. Một thứ triết lý ngoài lời cần được chiếu rọi vào thơ chăng. Nếu bạn từng có một tâm trạng như vậy, nỗi buồn chia ly, sự thất vọng, một điều gì bạn chẳng muốn nói ra, thì bạn đọc thầm một câu thế này:
Bỗng nông nổi chiều tình si giáng thứ
Đối với người đang tự hài lòng với mình, hay tự hài lòng với sự đúng đắn của mình, câu thơ ấy tất không đáng chú ý.
Nhưng khi đọc nó, trong tâm trí tôi hiện ra buổi chiều xế nắng, ngõ hẻm dài sâu yên tĩnh, phía sau những quán tạp hóa bán trà, đường đen, mực khô, thuốc bắc, những gánh hàng xén, những cô hàng xén, trong một căn nhà khá rộng, khi tôi bước vào, Dương Tường ngồi đó, chờ sau chiếc bàn nhỏ, thấp, ấm trà nguội, hộp thuốc lá, đón tôi, đến một mình. Không gian của Dương Tường rộng, huyền ảo. Câu thơ trên đây đúng đến nỗi không thể thay được chữ nào. Cũng như:
Bản nháp chiều tơ liễu
Chỉ có ai lang thang bên hồ, nhìn nước cau lại tang thương liễu rủ, mới đọc thế. Chúng ta là những bản nháp của lịch sử. Những bản nháp của lịch sử tình yêu, chưa xong. Một bài thơ khác.
Thôi
lạy mẹ
kiếp phù sinh
mea culpa
tôi đã đánh hỏng đời mình
Đánh hỏng một đời mà nhẹ như không.
Nhiều người biết mấy câu thơ ấy, thật ra cũng không phải là đoạn thơ xuất sắc, nhưng chúng xuất hiện như lời kinh, hay tuyên ngôn, cứu chuộc. Đó là sự cầu nguyện xuyên qua bài hát, sự đối diện ở cuối đường, quay nhìn lại. Thay vì chỉ ghi nhớ, kí ức của Dương Tường phản chiếu kinh nghiệm, suy tưởng, là hồi ức suy tưởng, giúp tác giả và người đọc dối diện với tình cảnh không lui bước được: sự tổng kết đời mình trước cái chết. Cuộc đời Dương Tường cũng như bài thơ dài, gồm nhiều câu ngắn, nhiều chỗ ngắt dòng kì lạ, bất ngờ, chuyển giọng. Bài thơ của ông như hành trình, mỗi lần đọc một lần thay đổi. Được viết từ một nơi chốn mà người đọc chưa đặt chân tới, không phải vì từ ngữ của ông quá lạ hay quá mới, mà vì chúng đã được làm thay đổi.
Tôi mư ư ưa
Chữ mưa như thế chỉ có ở ông. Một trong những nhà thơ dành nhiều suy tư cho chữ và nghĩa, cho chữ và âm, cho lời và ngoài lời. Trong thơ Việt Nam, ngay từ những năm 60, và ngay cả hiện nay, đó là một trường hợp quý báu.
When it happens you are not there
O you beyond numbers
Beyond recollection
Passed on from breath to breath
Given again
From day to day from age
To age
Charged with knowledge
Knowing nothing
(To the Words, W.S. Merwin)
Khi điều ấy xảy ra bạn không ở đó
Ồ bạn ta bên kia những con số
Đằng sau kí ức
Truyền từ hơi thở này đến hơi thở khác
Ngày này sang ngày khác thời đại này
Sang thời đại khác
Dồi dào kiến thức
Mà có biết chi đâu
Gần đây có dịp đọc lại Dương Tường, cả trong thơ lẫn tiểu thuyết dịch, tôi thấy tác phẩm của ông là một tự làm trẻ lại, là lời ca ngợi đối với hoang vắng, thiếu sót, lời nhắc nhở đối với lầm lỗi và lãng quên của Hà nội, một đời người, của một đất nước. Nếu cần tìm một nhà thơ có tính duy mỹ cực điểm mà vẫn lăn lộn trần thế, tôi nghĩ Dương Tường. Đó là người có cái nhìn viễn kiến ngay trong thời buổi bị kiểm soát, đàn áp, vượt lên khỏi hoàn cảnh của mình, của kinh đô nền nếp và chật hẹp như nấm mồ, suy nghĩ xa, như một người đi qua tro tàn của lịch sử, tìm kiếm hơi thở mới. Dương Tường là một trong những tâm hồn nghệ sĩ tự do mà tôi được biết, về mặt xã hội là người sống trung thành với lập trường của mình, về mặt cá nhân là người phóng khoáng không câu thúc, người trí thức từ thời tiền chiến dưới những ảnh hưởng tốt đẹp của văn minh Pháp, ngày nay không còn thấy. Giữa những bề bộn đời sống, ông trở lại với mẩu kết quả xét nghiệm đã bị vò nát:
Ở đây tất cả đều tủn mủn
Chỉ riêng khổ đau là hoành tráng
Sự căng thẳng của xã hội hôm nay, áp lực của thời gian, sự giả dối, sự ganh đua, dẫn đến tâm trạng lo âu, xao xuyến, bồn chồn ở những người trẻ và ở tất cả chúng ta. Mỗi cá nhân bị xé nhỏ thành nhiều mảnh, bị giằng xé bởi quá khứ và tương lai, các mâu thuẫn bên trong dân tộc, ảnh hưởng của cuộc nội chiến hai mươi năm, còn lâu dài chia cắt chúng ta. Thơ Dương Tường hầu hết ở thể tự do, nhưng tính âm nhạc cao, chuyển hướng bất ngờ, cách gieo vần rộng, một số ý tưởng đẹp và mới, nhưng không hoàn toàn táo bạo, nổi loạn, đập vỡ. Khác với Trần Dần, chẳng hạn.
Tôi vẫn mưa hằng hà
nhật nguyệt
có hy vọng nào đợi chờ nào khổ đau
nào khắc khoải nào mê muội nào
không đẫm
jọt
mưa tôi?
Thơ trữ tình Dương Tường nói về mất mát, hy vọng, trong điệu thức suy tưởng. Niềm ao ước của ông là mang lãng quên trở lại với ý thức, tuổi trẻ yêu dấu ra khỏi bóng tối. Thơ ông là khúc bi ca hướng tới vĩnh cửu, giữ cho cái chết được ở lại giữa chúng ta, làm cho những gì không còn sẽ sống lại. Giá trị của thơ ông trước hết không phải ở tu từ, mặc dù đó là thơ nặng về “chữ”, mà ở khả năng tư duy, phán xét, sự tiên đoán, là thái độ của trí thức giữa thời kì băng hoại giá trị. Mặc dù mới, không cổ điển, chúng vẫn thể hiện tính liên tục như tấm vải dệt bền bỉ, không đứt đoạn. Khả năng của nhà thơ là kết hợp những thể thơ cũ giàu âm điệu và khuynh hướng văn xuôi hóa, cụ thể hóa, thơ thị giác. Khả năng dùng chữ của ông là độc đáo với kĩ thuật lập lại, kĩ thuật song song. Đó cũng là một trong những nhà thơ đòi hỏi lối đọc liên văn bản, với nhiều tham chiếu.
Đường kí ức ngàn-lẻ-một nẻo miên man
đâu cũng mê cung tôi đi chân rớm máu tươi
những kỉ niệm hoang vu và chới với những
hoang tưởng man dại thậm chí hun hút rợn
chiều psychedelic nhầy nhụa đàn bà
Dương Tường là người nội tâm nhưng sẵn sàng xuất hiện nơi công cộng, cởi mở, hai khía cạnh ấy đều có thể được quan sát. Dương Tường viết thơ tình cho đám đông nhưng thơ ấy không thể đọc trước đám đông mà chỉ nên đọc trong phòng vắng. Một người giỏi ngoại ngữ, đọc sách nhiều, nhưng có tâm hồn Đông phương, sẽ sinh ra một loại thơ phảng phất Haiku Nhật Bản, ngắn gọn, nhiều hình ảnh, chú trọng về mô tả, ghi nhận. Trong thơ, chỉ đôi khi mới thấy cảm xúc nổi lên. Mặc dù có khuynh hướng duy mỹ, thơ ấy cần được đọc dưới góc nhìn lịch sử- văn hóa.
Thị trấn bê bết tựa sạp hàng thịt
anh góp vào đổ nát hai cái răng cửa
Tảng sáng
trận địa pháo
lạc vào một con ngan bị thương
Có lẽ truyền thống Đông phương làm Dương Tường đến gần hơn với thơ truyền khẩu, một loại thơ trước chữ. Thơ ngoài chữ. Từ thơ ngoài chữ mà thành thơ ngoài lời, có thể chỉ một bước. Trong sự chuyển tiếp ấy, có thể nhận thấy đặc tính của các điển tích, các giai thoại, sự tham chiếu, hay những mảnh nhỏ của chúng. Đọc Dương Tường vì vậy bao giờ cũng là một lối đọc liên văn bản của người có hiểu biết cần thiết.
bởi lẽ mình với cậu
chưa hề biết nhau
nên mình đến
bởi lẽ cậu bỏ lại mẹ cha cùng
người hôn ước
và mình cũng từng giã biệt vợ con
nên mình đến
bởi lẽ tình yêu mạnh hơn thù hận
và có thể bắc cầu qua mọi đại dưng
nên mình đến
bởi lẽ cậu không trở lại
còn mình đã có ngày về
nên mình đến
(bài 1967)
Một số bài thơ của ông gần với kí họa, với phác thảo, hơn là gần với hội họa, vì tính chất không hoàn tất của nó, một cách cố ý, vì tính chất gãy vỡ, vì sự xác định đường biên, nét cắt, chân trời, hơn là bản thân màu sắc. Tôi nghĩ đọc Dương Tường cần một trường thẩm mĩ riêng, tuy không hoàn toàn khác với thẩm mỹ chúng ta dùng cho các nhà thơ cùng thời của ông, trong nhóm Nhân văn và Giai phẩm, nhưng cũng không phải đồng nhất. Sự tồn tại của một người không làm biến mất sự tồn tại của người khác, nhưng sự tồn tại ấy được tăng cường bởi sự chú ý, dấn thân, sẽ tạm thời làm biến mất trong trí nhớ sự hiện hữu của người khác. Đó là ý nghĩa của câu thơ sau đây:
Những hình vẽ nhăng trên tường Paris
ta lượm đây một đóa kia một đóa
như tuy-lip nở trong bùn
nâng niu chăm chút
vục mặt hít hà
Vẽ nhăng trên tường ở Paris
ngớ ngẩn thăng hoa
thơ ca cứt đái
âu yếm đường xó chợ
Vẽ nhăng trên tường ở Paris
tình sử khoác vỏ ngoài tục tĩu
thơm mùi nồng cống rãnh
và đôi khi vang vọng xa lắc những thiên đường đã mất
Vẽ nhăng trên tường ở Paris
ta lạ gì đâu
bàn tay này từng vẽ thế
Chúng ta đã lặp lại. Nhưng có thể nhờ thế mà, trong những giai đoạn đen tối nhất, sống một cách khó khăn dưới những nghi ngờ, Dương Tường đã không để cho nỗi buồn rầu và sự đông đặc đánh bại mình. Lòng tin yêu ấy, sự say mê sống có phần ngây thơ ấy, là những búp hoa trên cành trong rừng thơ tiếng Việt. Thơ Dương Tường nhiều tiểu sử nhưng không nhiều hoài niệm, là một loại thơ ở thì hiện tại, trong sáng, nhẫn nhục, đầy niềm tin. Một ngôn ngữ nhiều cảm xúc nhưng không quá mẫn cảm. Kẻ đã sống qua nhiều thời kỳ, dưới đáy, nhưng không sẵn sàng làm nhân chứng, mà chỉ là kẻ ghi nhận bên lề cuốn sách lịch sử của dân tộc. Điều gì đúng thật với trần gian cũng đúng với thiên đường.
Serenade 1
Những ngón tay mưa
dương cầm trên mái
những ngón tay mưa
kéo dài tai quái
một nỗi nhớ vô hình
nhạt nhòe đường xanh
đêm lập thể
Những ngón tay mưa
truồi theo phố lạnh
màu nâu cảm tính
đường parabole tư duy
điệp khúc u hoài
những chuyến tàu đi
Những ngón tay mưa
trời sao bạc
tím mộng Schercherazade
đêm ngàn-lẻ-hai
Sự có mặt của yếu tố siêu thực, và cả sự thần bí, bí nhiệm, chứng tỏ loại thơ nặng về lời ấy là một loại thơ có nhiều ý nghĩa. Ngôn ngữ tạo ra sức hấp dẫn lớn nhất trong thơ Dương Tường nhưng bên dưới những chữ, có một điều gì khác nữa, có người gọi là nội dung có người gọi là ý nghĩa, nội dung kí hiệu, bởi vì thực ra tác giả nếm trải một đời sống hoàn toàn hiện thực, đi qua những vui buồn thật, cái tốt và cái xấu cụ thể, sự cao thượng và lỗi lầm có thể nhìn thấy bằng đôi mắt tinh anh của ông. Niềm vui thú cao nhất trong thơ ông là được sống, yêu đời, khao khát sống. Thơ Dương Tường không có gì liên quan đến những cuộc cách mạng hay kháng chiến mà thời trẻ ông đã từng dự phần tích cực và có lẽ chỉ sau này ông mới, đôi khi, tìm cách thách thức các giá trị của chúng.
những đại dương
trùng trùng
sóng
mồ vĩnh cửu ôm ấp trong lòng sâu vĩnh cửu
triệu triệu vong linh ngư dân thủy thủ nạn
nhân đắm tàu thám hiểm gia đi tìm đất mới
hải tặc thuyền nhân ôi rong rêu bất tận cứ thế
ngàn vạn năm đại thiên di exode tổng đại
thiên di tiếp nối
nước biển xanh bao nhiêu tỉ lệ phần trăm máu?
Ai cũng biết chúng ta bị phản bội, những giấc mơ bị phản bội, ai cũng biết thế giới đầy đau thương và lầm lẫn, ai cũng biết chúng ta sẽ hạnh phúc hơn nếu có tự do. Nhưng Dương Tường không phải là nhà tranh đấu, ông thực sự là một nghệ sĩ từ trong ra ngoài. Một nghệ sĩ thực sự trước hết phải ca hát. Và nói như Bertolt Brecht (1898-1956), trong thời kỳ đen tối, con người vẫn hát, và hát về những điều đen tối. Chúng ta cũng có thể thêm rằng, Dương Tường còn hát cả về tình yêu trong những điều đen tối. Vì vậy thơ ông có lẽ sẽ được nhắc đến như một trong những cánh cửa sau của ngôn ngữ Việt Nam, thành công và thất bại, không hứa hẹn một điều gì. Sự quyến rũ chết người ấy làm nên năng lượng của sáng tạo. Dương Tường là một phần của năng lượng ấy, đạm bạc và rực rỡ, chán chường nhưng không mệt mỏi, dịu dàng nhưng có sức xuyên thấu những ngăn cách giữa người Việt và người Việt, giữa người Việt và thế giới, giữa thi tính bên trong và bên ngoài ngôn ngữ. Thơ ngoài lời, theo cách gọi của Dương Tường, có nguồn gốc khác nhau, nhưng chính nhà thơ cho rằng nguồn gốc ấy có lẽ bắt đầu từ Apollinaire với các bài thơ thị giác mà Châu Diên đặt tên là thư đồ thi. Cũng theo Châu Diên ở Việt Nam chi có ba nhà thơ làm thơ ngoài lời là Trần Dần, Dương Tường, phần nào Đặng Đình Hưng. Tập thơ Đàn của Dương Tường là tiêu biểu cho khuynh hướng này. Là một người yêu mến chữ, tất nhiên ông không xa lạ gì với phép tu từ, nhưng trong các bài thơ của ông phương pháp ấy được ẩn kín.
Đêm đầu tiên tân hôn lại
vợ anh giảng
những chưa biết trong
tình yêu
Sự thú vị trong mạch đi của bài này nằm ở ý tưởng bất ngờ, một hình thức chơi chữ. Những thú chưa biết trong tình yêu thì có nhiều, một người đàn ông tha hồ tưởng tượng. Mà dừng lại ở đó cũng được. Nhưng ông lại viết:
những chưa biết trong
tình yêu
bằng không nói
người đàn bà ít mồ hôi
ba năm chờ
Hài hước trở thành trữ tình. Một người làm thơ đọc đến đây sẽ tự hỏi, thế rồi bài thơ sẽ kết thúc thế nào? Nhiều người, nhất là những người mới viết, sẽ kết thúc bằng tình yêu đôi lứa, bằng tình dục, bằng sự hồi tưởng ba năm gió mưa đâu đó. Dương Tường kết thúc thế này:
cười vô lối
cửa sổ sóng sánh tiếng
huýt sáo một người
đi chơi đêm
Như thế là từ năm 1966, ngay trong chiến tranh, trong sự vây khổn, có một nhà thơ đã bình thản đi xa trên con dường cách tân ngôn ngữ, dùng phép sắp xếp mới của ngôn ngữ mà góp phần hình thành các ứng xử văn hóa trang nhã.
Ba mươi hai năm
Ba mươi hai lối chân đưa
lầm lũi
thời gian như một cái nhìn
vàng
Tôi vẫn phi-tôi
vẫn lạc lối hoài trong một im lặng
trầm
đa giác
Đôi khi ý nghĩa của chúng triển nở đa giác, gần như vô hạn. Ngôn ngữ của ông không bí hiểm như trong một số nhà thơ cùng thời, nhưng sự khó hiểu nằm ở khía cạnh khác. Là sự chọn lựa lối vào, hệ thống tham chiếu và xa hơn, hoàn cảnh văn hóa. Bài thơ thường là cảnh vật cụ thể, tình huống, thậm chí chỉ một xúc động thoáng qua, hay một tuyên bố, nhưng bài thơ không dừng lại ở đó mà lan tỏa ngầm. Có một nhạc điệu thì thầm, ngân nga dịu dàng bên dưới câu thơ tiết kiệm của Dương Tường. Chính vì thế mà sự diễn giải bằng văn xuôi các bài thơ, kể cả thơ cụ thể, thơ thị giác, nơi sự pha lẫn giữa hội họa và thơ ca là dụng ý của người viết, sự diễn giải ấy là phức tạp, thậm chí không làm được.
ngã tư
cột đèn
ô kính
những ngón tay mưa
xập xòe kỷ niệm
Trong thơ Dương Tường không có lịch sử, vì lịch sử được tái tạo mỗi ngày trên trang giấy, hóa thành hiện đại, toàn bộ lịch sử là sự có mặt hôm nay. Thơ Dương Tường dung chứa một huyền thoại kín đáo, thỉnh thoảng tương tác giữa hiện thực và huyền thoại tạo ra câu thơ chói lòa, gần hoang tưởng, hay giấc mơ.
Ai giảng giùm tôi liên
quan đường gân lá bồ đề rụng trên vai gày Phật Tổ Như Lai với gập
ghềnh Đồi Sọ Golgotha Chúa Jêxu nhục hình
đinh câu rút
đường tràn mang án sống tôi bụi thơ và tự
chẩn bệnh cho mình
Liên văn bản trong thơ Dương Tường là đặt câu hỏi. Đó là sự tìm kiếm những khả năng khác nhau trong cùng một hoàn cảnh, những chọn lựa khác nhau trước thử thách. Dương Tường có lẽ không phải là người có đức tin tôn giáo, nhưng thơ ông bàng bạc cảm xúc bí nhiệm, không khí thánh kinh. Một loại thơ trữ tình nhiều vui sướng, sự hỗn hợp của một truyền thống thơ ca tiền chiến và không khí đương thời. Tình yêu và bao dung, như thể cái đẹp có thể làm ra sự thật, như bông hoa có thể tạo ra mái nhà. Sự lập đi lập lại một số chữ, một số đoạn không phải là điều mới mẻ trong thơ, nhưng ở Dương Tường trở thành những giai điệu, nốt nhạc, thánh thót. Thơ là hành động, nhưng đó là trạng thái hành động mang tính thưởng thức, ghi nhận, kí gởi, hơn là mang tính thay đổi.
những bản thảo en soufffrance
những dự án bay nằm đáy hộc tủ
những mộng mơ ngày một teo tắt lại
Nhà thơ là một trong những người không tin vào các định chế tinh thần đã được thiết lập. Đó là ý thức tự do, sự phản kháng dịu dàng nhưng không thay đổi. Nếu so sánh với những người bạn nổi tiếng như Lê Đạt hay Hoàng Cầm, thì Dương Tường lặng lẽ hơn, kín đáo hơn, nhưng ý thức nổi loạn xem ra bền bỉ không kém.
Mư ư ưa
Mùa v-
ắ-
n-
g
trắng
(Mea Culpa)
Dương Tường có nhiều bài thơ viết bằng tiếng Pháp được dịch ra tiếng Việt bởi chính tác giả hay một số người khác như Phạm Toàn, Đặng Tiến, Châu Diên, Ngô Tự Lập. Trong tập “Thơ Dương Tường”, gần như là một tuyển tập đầy đủ và quan trọng nhất gồm bốn phần không kể phần phụ lục:
– Tôi đứng về phe nước mắt
– Le soir est tout soupirs
– At the Vietnam wall
– Thơ thị giác
Đủ thấy sự đa diện của Dương Tường. Một trong những người còn lại sau cùng của thế hệ mình, sống qua thời kháng chiến chống Pháp, thời kỳ chiến tranh ở miền Bắc, thời kỳ sau 1975 hòa bình lập lại, Dương Tường là còn lại của ký ức tập thể, sâu lắng, trong trẻo. Một chất giọng trầm tư nhưng gần như ca ngợi đời sống, sự lập lại nhiều lần một số giai điệu, sự tiếp xúc giản dị đối với hiện thực dung chứa nhiều khả năng diễn dịch dành cho người đọc. Bi kịch, bóng tối, tội ác của một hệ thống, sự đày đọa con người, cái chết, sự cứu rỗi của tình yêu và tha thứ, đó là những gì làm nên ngôn ngữ và nhạc điệu Dương Tường.
Cái dằm khổ vẫn mắc trong lìm lịm
ba
mươi hai lớp thịt tháng năm
Văn chương là phương cách từ bỏ sự chú ý, trở nên buông thả, bao quát, thân mật. Bài thơ của Dương Tường thường ngắn như một loại thơ thiền kiểu mới, Haiku, là giây phút tỉnh thức, khung cửa sổ nhìn vào thực tại mới. Sự tỉnh thức đối với vấn nạn của kiếp người, sức mạnh và sự yếu đuối của họ, sự vô tội và tội ác. Một nhà thơ tài năng bao giờ cũng làm nổi bật được một số quan niệm của mình trong một bài thơ ngắn, hoặc về nghệ thuật hoặc về cuộc đời, tất nhiên không phải như một bài giảng luân lý. Một bài thơ của Dương Tường cũng mang lại quan niệm, nhưng chúng nhiều hơn một, rải rác nhưng không rời rạc, bao gồm những chuyển tiếp, được chiếu sáng bởi sự ngạc nhiên. Nhà thơ Hoa Kỳ Pound từng nói: Thơ là một thứ tin tức bao giờ cũng vẫn là tin tức (mới). Thơ Dương Tường thoạt nhìn không mục đích, không chủ đề, chính ra là những giây phút cần thiết. Những câu thơ di chuyển với tốc độ nhanh, sức hấp dẫn không hẳn nằm ở sự quyến rũ của chữ như trong trường hợp Trần Dần hay Hoàng Cầm mà nằm ở chức năng của chúng. Điều kỳ lạ là trong khi Dương Tường có xu hướng về lời, gần duy mỹ, thì nhiều bài thơ của ông có thông điệp. Đó không phải là một thứ thông điệp rõ và bất biến. Chúng thay đổi theo người đọc và lần đọc khác nhau.
Em đi
môi mọng
đùi mọng
vú ấm
tim trống
đầu trống
Em đi – nhớt đêm
Em đi – mưa xiên
Em đi – trời nghiêng
Em – đời bỏ quên
Môi mọng là một chữ thông thường, thậm chí hơi sáo. Nhưng đùi mọng là chuyện khác, chữ không có trong tiếng Việt, nhưng hình như sẽ đứng được.
Em đi – nhớt đêm
Có phải là nhớt trên đường chảy lênh láng? Hay nhớt trên người. Xuyên qua cuộc đời dài, với nhiều hoạt động, bè bạn, Dương Tường trở đi trở lại với khung cảnh phố xá, mưa, đô thị, mùa thu, với thiên nhiên, những đề tài cũ được lật tung trở lại với bút pháp mới, đó là những đặc trưng của chủ nghĩa hiện đại trong thơ Dương Tường. Một ngôn ngữ không chuẩn bị, có tính tán gẫu cao, tính đời thường, bất chợt, sự hài hước tinh tế khó nhận ra.
Em đi
ngực nhụy
rớm hương
Thân xác chúng ta không chỉ là thân xác, nó còn là nơi kết tụ những đầu mối. Hiện diện thường xuyên sự tìm kiếm, nghĩ ngợi, một tình yêu với đời sống thuần khiết, đến mức các thứ khác phải bị bỏ lại. Cái gì bị bỏ lại? Trước hết là thói dung tục, tính bầy đàn, cuối cùng là sự tủn ngủn đời thường, các thứ ấy là tiêu biểu của một không gian địa lý chính trị cụ thể, một nửa đất nước, thu nhỏ xét về mặt số lượng, nhưng về văn hóa có thể là cả dân tộc. Bạn đọc lại:
Ở đây tất cả đều tủn mủn
Chỉ riêng khổ đau là hoành tráng
Dương Tường đôi khi sáng sủa đôi khi tối tăm. Độ nén của ngôn ngữ là tài năng của mỗi nhà thơ. Sự phát hiện có tính sáng tạo, sự ngạc nhiên, là cảm xúc thú vị mà người đọc tìm gặp ở Dương Tường. Ngạc nhiên là gì?
Giọt sao dềnh vũng nhớ
Khuya em về mưa mi mineur
Hình ảnh siêu thực nhưng ý thức bàng bạc. Trong tuổi trẻ của Dương Tường có một phần của nước Pháp, một phần của châu Âu.
Vẽ nhăng trên tường ở Paris
ta lạ gì đâu
Bàn tay này từng vẽ thế
Tại sao có những sự vật chỉ hiện ra trong khoảnh khắc lại có thể có ý nghĩa đến thế với tâm hồn. Những bước nhảy trong thơ Dương Tường giải phóng ký ức ra khỏi ràng buộc, ra khỏi các tiền quan niệm. Sự tập trung chú ý làm sâu sắc thêm nỗi ngạc nhiên từ cuộc đời, trước vẻ đẹp của tình yêu. Thật ra có vẻ như Dương Tường không phải là người đi tìm kiếm, ông chỉ là người nhìn thấy.
Những chân trời những chân trời xa những
chân trời mờ mịt những chân trời lung linh
những chân trời vẫy gọi (sao không nói tay
trời?) những chân trời ảo những chân trời
hứa hẹn những chân trời cạm bẫy những
chân trời hi vọng những chân trời lừa mị
Các vẻ đẹp của văn chương khác với vẻ đẹp của đời sống; chúng có liên hệ với nhau nhưng không phải là mối quan hệ mật thiết ràng buộc. Ngay cả vật tầm thường bé mọn, những điều tưởng đã cũ, dưới cái nhìn mới lại sáng lên như hiện tượng mới.
Chợ ái ân
Loang lổ
Đèn đường
Đó không những là mô tả những cô gái giang hồ, mà còn là ánh đèn đường, là bức tranh hội họa vẽ cảnh đêm Hà Nội, tôi ít thấy bức tranh nào giản dị mà sắc màu nổi bật thế, bởi nét cọ mảnh, tàn nhẫn.
Mủ đêm
Thơ ngoài lời là thơ cụ thể, thơ thị giác, thơ tạo hình. Đây là một hình thức nghệ thuật lâu đời ở phương Tây nhưng khá mới ở Việt nam, ngay cả vào những năm đầu của thế kỷ 21. Sự tiếp nhận của công chúng đối với thơ ngoài lời dè dặt và hạn chế. Dương Tường là người chăm chú biểu đạt, đã để lại những vết chân như những thứ gì chưa hoàn thiện, tìm đường. Đọc và nhìn thơ ngoài lời của Dương Tường để cảm nhận được đời sống của ông gần hơn, sâu hơn.
Cây ngoài kia bắt đầu trút lá
ta nên trút theo chăng?
vòm lá ta: những cuộc tình hoang phế
ta vẫn một mực mang như tấm áo sờn
dùng dằng không nỡ dứt
e hồn ta xây xước lõa lồ
ngoài kia cây đang trút lá
ta cùng trút theo chăng?
Ngôn ngữ của chúng ta trước hết là ngôn ngữ được tạo ra bởi người đi trước, và Dương Tường không tránh khỏi điều ấy.
Chiều se sẽ hương
Vườn se sẽ sương
Trong một bài thơ ngắn, được in ở trang bìa sau cùng của tập thơ do Nhã Nam in mới nhất, năm 2017, nhưng đó không phải là một bài thơ quá mới.
Người đàn bà hít mồ hôi
ba năm chờ
cười vô lối
Cửa sổ sóng sánh tiếng
huýt sáo một người
đi chơi đêm
Mới thật là bài thơ mới. Lạ, đẫm tình dục, lóng lánh, lãng mạn, mà dũng mãnh như G. Lorca. Thơ không nhằm phản ảnh hiện thực. Nhà thơ tạo ra hiện tượng mới. Thơ bao giờ cũng là tiếp diễn một nền thơ trước. Tuy hiện tượng lo lắng về ảnh hưởng của người khác là điều có thật, đó không hề là nỗi ám ảnh lớn của các nhà thơ Việt theo truyền thống Đông phương. Trong những nhà thơ cùng thời với ông, chúng ta có thể tìm thấy dấu vết của thơ đi trước, nhưng ở Dương Tường ấn tượng ấy không rõ lắm. Thơ ông ít có tiền lệ.
Hồ môi thơ lã chã âm xưa
Bản nháp chiều tơ liễu
Đưa mưa
Thể thơ, các quy ước vần điệu có lẽ đã ám ảnh Dương Tường khá nhiều, kẻ đi tìm một thế giới khác, thật ra là để liên kết con người vào những hiện thực tiềm ẩn, bị che lấp, một thứ tiền hiện thực, mang chúng ta trở lại với nguyên mẫu, cội nguồn.
Tôi đâu tròn
rì rào
mái đầu thương
ngày r
ụ
n
g
dòng đau
trôi một mùa xác ve sầu
Thơ ca là nghi lễ. Thơ trữ tình thoạt nhiên là thơ được hát như bài hát. Là lời được nói lên, hát lên, không phải chữ. Thơ trước hết ở ngoài chữ, trước chữ. Những người làm thơ đều có kinh nghiệm rằng khi viết họ không ngồi đếm số chữ trong một câu, và một hai câu đầu tiên sẽ dẫn đường cho nhạc điệu. Như vậy có một hệ thống kí mã về âm thanh ở ngay câu đầu tiên.
À côtê de moi
Bên cạnh anh
Như thể chỉ có thể là:
ta place vide
chỗ em nằm trống không
place òu jamais tu ne viens t’allonger
chỗ em không bao giờ nằm
Thơ tình mơ hồ, nhẹ nhõm, bát ngát, như có như không, không đau đớn, không dằn vặt, nhưng lâng lâng như không khí mùa thu miền Trung miền Bắc, tươi mới, thanh cao. Tác động nếu có của thơ ấy trước hết là từ sự đối lập giữa một bên là quy ước vần điệu và một bên là câu thơ vượt khỏi chờ đợi.
Kỉ niệm zi căn
vào
tâm thất
Chữ z trong zi căn chia người đọc làm hai: những người thích nó và những người rất không thích. Cũng vậy, cách Dương Tường học lối dùng chữ ở Hồ Xuân Hương hay nhất là ở e.e. cummings như ông có lần nói đâu đó, sẽ còn gây tranh cãi.
Thật ra chẳng có bài thơ tự do nào hoàn toàn tự do, với nghĩa là tác giả tự do chọn lựa. Có lẽ chỉ trừ câu đầu tiên, mọi thứ tiếp theo tự mình đi theo quy luật của nó. Dương Tường cũng chịu ảnh hưởng của các nhà thơ phương Đông trong việc tiết kiệm chữ và say mê theo đuổi hình ảnh. Có thể gọi đó là khuynh hướng hình ảnh sâu (deep images) mà các tác giả như William Carlos Williams đã nhắc tới. Câu thơ của ông kích thước không đều, các chữ được lựa chọn khá cẩn thận, mặc dù không phải khi nào cũng chuẩn xác hay cũng “đắt”. Câu thơ là đơn vị đặc biệt, có thể xem là một trong những quan tâm lớn của Dương Tường. Chính vì thế mà đến một lúc nào đó ông buộc phải vượt qua. Như một người suốt ngày đăm đăm nhìn một cánh cửa, thế nào cũng tìm cách vượt qua nó.
Thơ Dương Tường là thách thức đối với các nhà phê bình. Sau này, một số bài thơ của ông có lẽ sẽ không còn ở lại được với thời gian, một số thể nghiệm có thể sẽ/ đã lỗi thời, nhưng một số khác, cũng như toàn bộ cách tiếp cận của Dương Tường đối với ngôn ngữ, là trường hợp điển hình, giúp người đọc thơ sống cuộc đời của họ một cách ý thức hơn, hiểu biết sâu xa hơn về đau khổ và tình yêu, giúp họ hình dung một số điều ở bên ngoài giới hạn của lịch sử, của lời.
Chờ em đường dương cầm sim
vằng vặc nụ dương cầm trinh
Trinh là tên riêng của người bạn đời. Dương Tường quan tâm đến thế sự, mặc dù ông không biến nó thành đề tài. Chất thế sự ấy bàng bạc như âm nhạc hậu cảnh (background music). Có một khả năng, một thời điểm khi chính trị, thế sự gặp gỡ thơ ca, nhưng đó là thời điểm đầy xáo trộn, của các giá trị. Thơ là biểu hiện cao nhất của động lực của hiện thực. Thơ Dương Tường nói về thiên nhiên, không phải thiên nhiên thuần phác như trong thơ tiền chiến, mà mang dấu ấn của con người. Thiên nhiên trong thơ ông là tấm gương phản chiếu giấc mơ không thành, số phận bị đe dọa, tình yêu đánh mất, và không ngớt trở nên cao thượng.
Gửi lại em
gửi lại em tất cả
Kể cả con âm đầu trót thụ tinh thơ
Riêng đêm em xòa bóng nốt ruồi
24 quầng
Anh giữ
Bài thơ có nhiều nhánh, nhiều ngả. Thơ ông nhỏ bé, mỏng mảnh, là kí ức qua năm tháng, phần tinh khiết của dân tộc, một lớp người, của khổ đau và vàng son kí ức, của tự hào nhầm lẫn và nhầm lẫn tự hào.
Đau sao yêu được mình đau
Đau sao yêu chẳng đủ đầy
Đọc thơ Dương Tường đôi khi cần đọc như kinh cầu. Chúng ta yêu nhau, đau khổ, tan tác, võ vàng. Chúng ta tin, vì không tin không sống được. Thơ Dương Tường không phải là thơ triết lý, tất cả những nhà thơ bạn ông cùng thời kỳ cũng đều ít khi làm thơ triết lý. Ngôn ngữ của họ nặng về hình ảnh, mô tả. Ở Dương Tường là chắt lọc hình ảnh. Mặc dù thế, những phát hiện có tính nhận thức là đặc điểm của thơ Dương Tường. Đọc lại một bài thơ của ông dễ gặp cảm giác mới lạ, nhờ cách tổ chức hình ảnh, ngôn ngữ tưởng cũ mà mới, cách nói giản dị và buông thả, không chuẩn bị, không giải thích. Sự hài hước trong thơ khó nhận thấy, tinh tế, thấp thoáng, gần như không có chủ đích.
Tiệc liên hoan tôi lấy phần
một gói buồn trémolo
Nỗi ám ảnh của thời tiết, người tình, tất nhiên đó không phải là những đề tài riêng của mình Dương Tường. Nhưng ông chuyên chú nhiều vào một không gian đặc thù, nửa lãng mạn, nửa hiện đại. Tác giả nhân cách hóa sự vật tầm thường, nhân chúng lên bằng cái nhìn âu yếm đặc biệt, như một người sống giữa và cảm thông với cây cối và đồ vật. Rất khó để trích một bài thơ của ông trong một hai câu vì mỗi bài thơ gần như một toàn thể. Ông chỉ nhắc rất thoáng qua những quãng đời thực của mình, nghèo khổ, sự đàn áp, tù tội, sự nghi ngờ, hãm hại. Ông là người nghệ sĩ, hẳn nhiên, nhưng đằng sau thái độ sống ấy là minh triết sâu xa, một quan niệm sống đồng hành quan niệm văn chương. Sống như một trí thức, không hoàn toàn là người phản kháng, nhưng nhẫn nhục, chịu đựng, vượt qua và không bao giờ đầu hàng. Bên trong vẻ dịu dàng là ngọn lửa của sự sống hết mình, tính cam kết mạnh mẽ đối với lý tưởng riêng. Khác với một số người cùng thời, Chế Lan Viên chẳng hạn, ông ít nhắc đến cái to tát, cái lý tưởng, ít đấm ngực. Họa hoằn lắm, mới có câu mang tính khái quát. Tuy thế, cũng có những lúc Dương Tường không thành công và không phải là mình:
Tôi hé một con mắt-vú-bò qua kẽ nghiêng phòng
hoá-nghiệm-tổng-hợp tím cong cong
ngấn
ngực thời gian
Hay chịu ảnh hưởng rõ ràng của người khác:
Tôi đến em
tôi ái tình từ đầu móng tay
chân sợi tóc
tôi
Lũy thừa yêu
Lũy thừa nhớ
Lũy thừa đau
xin nhập hộ không đăng ký đuôi mắt
dài
phố sao em bối rối
Là một tuyên bố, cái nhìn cận cảnh đối với sự vật, hay là cái nhìn đối với cuộc đời?
lụa len
phố nêm
mà im
thèm
men
nhá nhem
lối khói
lá khói
Boheme
Boong
Boong
chuông em
lá khói
thèm em
thềm êm
đường đêm
tràn im
khuya thêm
rộng thêm
mùi thêm
buồn thêm
sao em
phi lí
ngực rằm
Thơ hội họa là một hình thức của thơ cụ thể. Thật ra trên thế giới cũng chưa bao giờ và ở nơi nào, hình thức này của thơ ca, dù xuất hiện đã lâu, lại nhận được sự tán đồng hoàn toàn của dư luận. Cũng như mối quan hệ giữa thơ có vần và thơ tự do, mối quan hệ giữa thơ cụ thể và thơ thông thường có những ranh giới mơ hồ. Vượt ra ngoài vần điệu, thơ tự do giúp người đọc sống chính đời sống của cá nhân mình, một đời sống không khuôn thước, đầy hơi thở khỏe mạnh, sâu xa. Đẩy thơ tự do đến tận cùng biên giới của ngôn ngữ, và cuối cùng vượt qua chúng, cực đoan hóa sự phóng túng, là nguồn gốc của thơ ngoài lời. Đó là cố gắng khó khăn, tuy chưa chắc đã mang lại những tác phẩm lớn, mà vẫn giữ vai trò làm người mở đường, báo hiệu các thành công và thất bại của thơ ca.
Sự thật thơ ca, mặt khác, là một sự thật có tính tượng trưng, do đó sự tìm kiếm nó không thể dựa trên phương pháp thông thường. Tuy Dương Tường là người vượt ra khuôn phép, chính ông lại yêu mến các nghi lễ. Nghi lễ là hình thức của tình yêu và của mất mát, của cái chết. Bởi vì thơ không thể tách rời khỏi nhạc điệu, khái niệm thơ ngoài lời có thể khác với khái niệm thơ cụ thể ở chỗ nó nhấn mạnh tính chất âm nhạc của thơ ca, ngoài tính chất hội họa. Tất nhiên âm nhạc ấy không được thực hiện bằng các nhạc cụ như đàn hay trống, phải được thông qua các hình ảnh. Có điều đây là hình ảnh gợi ý, không phải chân dung.
Tôi đến em
tôi ái tình từ đầu móng tay
chân sợi tóc
Vậy, đọc Dương Tường cần đọc như một hệ thống gợi ý. Các điển tích, các dẫn chiếu, sự đọc liên văn bản, là bắt buộc phải có khi đọc Dương Tường và một số nhà thơ khác như ông, tôi sẽ có dịp nhắc đến sau. Đọc thơ tự do vốn cần một sự chú ý cao đối với các hình thức biểu hiện. Không ai cứu tôi
tất cả bận lâm chung
để mặc tôi bơ vơ
với
sống
Người đọc chú ý đến các tình huống trong giọng thơ: sự tan vỡ, sự nguy hiểm, cái chết, tuyệt vọng. Hình như có một cảm giác bồi hồi tưởng nhớ những người cùng thời đã khuất, nhưng không hẳn là cảm giác thấy mình có lỗi của kẻ sống sót sau tai họa (survivor’s guilt), mặc dù Dương Tường thực sự là kẻ sống sót.
Bên cạnh anh
Chỗ em nằm trống không
Chỗ em không bao giờ nằm
À côté de moi
Ta place vide
Place où jamis tu ne viens t’allonger
(bản dịch của tác giả)
Dương Tường ao ước được ghi trên mộ chí mình câu sau đây: “Tôi đứng về phe nước mắt.” Câu ấy, mặc dù hơi nữ tính, tiêu biểu cho hành trình thơ ca của ông, ý thức về tha nhân và xã hội, lập trường của một người nói tiếng nói của nhân dân, một nghệ sĩ có tư cách, nhà trí thức lên tiếng trước tội ác và những lầm lỗi có tính hệ thống, có thể gọi là thái độ bất khuất trước bạo lực. Nhưng con đường thơ ca ấy còn một phía khác, của tâm hồn nghệ sĩ yêu cái đẹp lạ thường. Vì yêu cái đẹp mà ông đành có lỗi với thế gian?
mea culpa
ai vỗ về hòn đá khóc
Nhiều người cho rằng những đổi mới trong thơ là sự phá vỡ ngôn ngữ. Điều ấy có thể đúng nhưng chưa đầy đủ. Kẻ yêu thiên nhiên, biết lắng nghe tiếng nói bên ngoài con người, lắng nghe cảm xúc của trái đất, không những sẽ biết:
chiều se sẽ hương
Vườn se sẽ sương
Đường se sẽ quạnh
Trời se sẽ lạnh
Người se sẽ buồn
Đường gió mát hơi thu. Mà còn biết một ngôn ngữ khác, tôi nghĩ là nối kết trực tiếp hơn vào với thiên nhiên.
Ai đi
ròng ròng
anatomy
Và những: “Đèn rem, đùi ren, lụa len, ngực rằm“.
Là nối kết hạ ý thức. Thi pháp con âm của Dương Tường, theo cách nói của ông, là liên kết giữa thơ ca và nguồn cội, mang chúng ta trở lại với tuổi thơ của con người. Trong ý nghĩa ấy, thơ ông mang thân xác vào quê hương, mang mùa thu vào phố thị, mang âm nhạc vào hội họa. Trong thơ, ông trở thành tấm gương, nỗi ao ước của con người chống lại nghịch cảnh, vượt qua tình trạng bị vây hãm bởi các hệ tư tưởng xã hội lỗi thời, đầy bạo động, trở lại với tinh thần phóng túng phục hưng. Thơ Dương Tường vừa trong sáng với ý tưởng rõ ràng, nhiều thi tứ hơn nhiều người tưởng, vừa đầy rẫy cấu trúc mờ, gãy, tái phối trí, các câu dài ngắn bất thường, buông, đôi khi ngân nga như nhạc. Sự khác biệt, thậm chí xung đột ấy, vừa là điểm mạnh vừa là điểm yếu của thơ Dương Tường. Thật ra một người như ông không có chọn lựa nào khác. Ông viết ít, các bài thơ ngắn, nhưng sự phức tạp là lớn lao và có lẽ chưa được nhìn thấy. Dương Tường tách mình ra khỏi truyền thống lãng mạn tiền chiến, xếp mình bên cạnh những người cùng thời như Đặng Đình Hưng, nhưng với một lối nói mới, nhỏ nhẹ mà cứng cỏi, bình thản mà lâu bền. Thơ ông là niềm vui được sống, hoài niệm về cái đẹp, không hẳn là hoàn toàn biến mất, là tiếng nói lương tâm giữa một thời đại đổ vỡ, là sự làm mới trong khi trở lại, là sự trở lại để làm mới. Vì vậy thơ Dương Tường dù được biết từ năm 1960 trong hoàn cảnh lẻ loi, mất tự do, hay được viết gần đây, giữa rộn ràng những người bạn trẻ tuổi của ông, yêu mến nhà thơ, vây quanh ông như tôi đã từng thấy, vây quanh ông như chính người vợ và cuộc đời kia, giọng thơ ấy vẫn cứ sống động ở thì hiện tại.
Dương Tường làm việc miệt mài vào những năm lớn tuổi, ở người khác là không viết được nữa, như thể cuộc đời ấy chưa bao giờ, không bao giờ kết thúc, lúc nào phía trước cũng có một trang sách mở chờ ông. Sau tất cả những năm gian khổ đã đi qua, những chặng đường vui đã bỏ lại, sau những cuốn sách đã viết, những tranh đã vẽ, sau những lời đã không nói, ông vẫn nghĩ:
Tôi còn ván chơi cuối kỉ xập
xình beat rock disco sốt cuồng
Một tâm hồn trẻ trung, náo nức, mở cửa tự do cho những tình yêu mới, mà sự từng trải không dập tắt được. Tuy vậy, đôi khi bạn cũng tìm thấy trong thơ ông sự trống rỗng, gần như hư vô, và ở trong cõi trống rỗng ấy vang lên tiếng nói của im lặng.
Chiều
buông
đầy
những
thở
dài
Tình trạng vắng lặng, mênh mông ấy là sự vô phân biệt, là lối đồng nhất giữa chủ thể và đối tượng, giữa con người và xã hội. Giữa sự đề kháng quyết liệt và khả năng tha thứ. Giữa sự từ bỏ của Dương Tường và sự trở lại.
Nguyễn Đức Tùng
(trong chuỗi bài Đọc Thơ, bài 14)
Tài liệu tham khảo:
Dương Tường, Thơ, NXB Hội nhà văn 2017
Louise Gluck, American Originality, NXB FSG 2017
Robert Hass, What Light Can Do, NXB Ecco 2012
Helen Vendler, Part of Nature, Part of Us, NXB Harvard University Press, 1980