Thơ Việt từ hiện đại đến hậu hiện đại (kỳ 9)

Inrasara

CHÂN PHƯƠNG

Sinh năm 1951 tại Nam Vang, Cambốt.

Hiện sống ở Boston, tiểu bang Massachusetts, U.S.A.

Thơ đăng trên các tạp chí nước ngoài: Văn Học, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Việt, Diễn Đàn (Paris), VietNam Forum (Đại Học Yale), Illuminations (Đại Học Charleston), Tribuna (Rumania)…

Tác phẩm đã xuất bản:

– Chú Thích cho Những Ngày Câm Nín (1989).

– Bản Án cho Các Vĩ Cầm (1992).

– Nghĩa Đen (1993).

– Bổ Túc Lý Lịch Cho Loài Di Dân (1994).

– Biển là Một Tờ Kinh (1996), trong tủ sách thơ Trình Bầy do cố thi sĩ Diễm Châu chủ biên ở Strasbourg, Pháp.

Các thi phẩm trong dạng bản thảo sẽ xuất bản: Trích Dẫn Chính Mình; Vết Chồn Hoang; Lý Lịch của Lời; Thơ Chuồng Thú Phú Lồng Chim…

Tuyển thơ

Vô đề

Chuyện phào

ý nghĩa của em và biển

Sinh nhật của tôi và gió

Farewell 1975

Lữ khách Blues

CHÂN PHƯƠNG, LỮ KHÁCH BLUES TRONG THƠ ĐƯƠNG ĐẠI

Buồn. Đó là chuyện muôn đời của thi sĩ. Đông hay Tây, kim hay cổ.

Cảm giác không gian bao la, một sinh thể nhỏ bé mong manh mang tên con người trôi bềnh bồng trên mặt đất mong manh đang bềnh bồng trôi, Huy Cận cảm được nỗi lạnh và, buồn. Trực cảm trời đất vô cùng, xa và dài là thời gian, Trần Tử Ngang buồn rơi nước mắt. Tiễn người, khi tàu đi bỏ lại sân ga chênh vênh một góc trời, Hoài Khanh đối mặt với khoảng trống cô đơn – buồn. Xa, buồn tha phương của Thôi Hộ; gần hơn, buồn không hiểu vì sao buồn của Xuân Diệu. Thi sĩ nòi nhạy cảm với thân phận, buồn chưa bao giờ làm vắng mặt suốt hành trình thơ của họ.

Đó là buồn của đời xưa, thời xưa. Cảm nhận khoảng cách, xa hay gần, dài hay ngắn, là điều dễ nhận thấy. Nhưng thời nay đã khác. Thi sĩ hiện đại bị bó hẹp trong không gian chật chội, đến như là không còn khoảng trống, dù bé nhỏ và riêng tư nhất. Căn nhà đầy tiện nghi chưa bao giờ biết đủ này chật hẹp thì đành, phố xá đèn đường, bảng hiệu, người xe như nêm chật ních đã đành, cả châu Âu mênh mông kia bây giờ cũng không chừa khoảng trống cho tâm hồn được thanh thản. Di cư tìm đất lạ náu thân, càng vô ích. Bởi cả thế giới cũng đang trở nên rất chật hẹp.

khách điếm tầng cao
những chân trời lạ

từng canh khuya hao mòn
từng cơn say cô đơn

            trăng tròn Athena

    sơ huyền Bá Linh
                         rằm Luân Đôn

chuyến tàu ngày đêm quanh quẩn Âu châu

(“Lữ khách Blues”, Vết Chồn Hoang)

Thiếu khoảng cách không gian, hầu như thi sĩ hiện đại bị khuất lấp hay đánh mất luôn buồn siêu hình, đẹp và mang ở tự thân khả tính giải thoát. Hôm nay, nỗi buồn hắn chạm mặt hằng ngày vẫn buồn đó, nhưng là buồn trong chật chội và không lối thoát. Không làm thăng hoa bất cứ cái gì. Nó níu tất cả rớt lại cõi đất đen lù lù.

giã từ biên giới này    bắt tay màu cờ khác
đổi tiền nước này    xài tiền nước khác

không
đổi
được
nỗi
sầu

(“Lữ khách Blues”, Vết Chồn Hoang)

Thi sĩ buộc phải ở lại để chịu đựng sự cô độc tệ hại. Không phải cô đơn mà là, cô độc. “Chia biệt người ra từng xứ cô đơn” vẫn còn thơ mộng, lãng mạn quá; ngay đến “Đây với đó chỉ dựng chòi cô độc” (Huy Cận), ta vẫn thấy sự chủ động của đối thể: Con người ích kỉ hay kiêu ngạo, đã tự dựng hàng rào phân cách với nhau và thế giới bên ngoài. Thời hiện đại, Chân Phương đã rất khác – cô đơn và cô độc ở trong thế buộc. Thi sĩ mất sự chọn lựa. Hắn bị cầm tù chung thân trong một thế giới thù nghịch bất khả vượt thoát, ở đó mọi hoạt động và nỗ lực đều trở nên vô nghĩa. Các cuộc thay đổi hay cách mạng chỉ xảy ra lớt phớt ngoài rìa, như là một màn diễn tồi.

cộng sản      tư bản
kéo màn   hạ màn

dăm đoạn kịch tồi
đã làm hỏng mẹ cuộc đời

(“Chuyện phào”)

Con người sinh ra để chết, là sự phi lí của định phận: phi lí siêu hình. Sự phi lí càng bị đẩy đến tận cùng khi con người tiếp tay định mệnh ra sức triệt tiêu con người. Triệt tiêu tâm hồn, tinh thần và thể xác. Tàn bạo và phi nhân đến vô phương cứu chữa, khi nó có hệ thống, và đầy toan tính. Khi các cuộc cách mạng nhân danh chủ nghĩa và ý thức hệ, nhân danh đạo đức, luân lí, truyền thống, dân tộc, văn minh, tự do dân chủ và công lí. Con người nhân danh tình thương và lòng bác ái, để tàn bạo.

Cảm giác mệt mỏi thường trực, tâm trạng tuyệt vọng luôn đeo bám. Không dứt ra được. Tuyệt vọng đến phó mặc. Có “chết vô danh như chim chóc/ thì cũng vậy thôi” (“Chuyện phào”). Tuyệt vọng đến muốn tung hê tất cả!

tôi ký tên ủng hộ việc xây dựng trại tập trung

tôi ký tên tán thành phòng giam có trang bị hơi ngạt

tôi ký tên quyên góp nhẫn cưới của vợ chồng tôi

tôi ký tên ưng thuận cho kỹ nghệ xà phòng sử dụng mỡ của tôi với con tôi

tôi ký tên bằng lòng cho công nghiệp mỹ phẩm khai thác hàm răng mái tóc vợ tôi

tôi ký tên phấn đấu cho ban điều hành trại được vui lòng

tôi ký tên sẵn sàng chịu đựng những thử thách khó khăn hơn

tôi ký tên và vận động mọi người cùng ký

(“Tôi ký tên”, Chú Thích Cho Những Ngày Câm Nín)

Trước lạnh lùng của vũ trụ, sự phi nhân của con người, nỗi phi lí của định mênh, nghệ sĩ ảo vọng tìm lối thoát trong nghệ thuật. Hi vọng nghệ thuật cứu chuộc con người, hay ít ra nó cũng là nơi ẩn trú cho một tâm hồn cô đơn. Nhưng không. Trong thế giới chật ních này, không còn nơi chốn an bình cho cá thể tìm gặp cá thể, tâm hồn tìm đến tâm hồn. Nghệ sĩ đã mất tự do toàn phần trong cuộc sống hiện đại. Nổi tiếng và được tôn vinh trên các phương tiện thông tin đại chúng không khỏa lấp nỗi trống vắng. Lắm lúc nó còn làm tù ngục thui chột những đọt mầm sáng tạo. Trong thế giới phi nhân này, nghệ thuât không là gì cả. Thơ bất lực và, ngôn ngữ bất lực.

giữa những đợt triều

chữ lời và im lặng

Ảo vọng về sự vĩnh cửu của nghệ thuật càng vô nghĩa và cũng chẳng an ủi nổi ai. Ngay một nơi chốn được cho là dễ tìm thấy sự đồng cảm hơn cả: tình yêu, đó cũng là một bất hạnh mang hình hài khác.

hạnh phúc đi vớt rong bên ghềnh bão

bằng nẻo trăng mờ nào vĩnh viễn xa nhau?

(“Ý nghĩa của em và biển”, Biển là Một Tờ Kinh)

*

Cảm thức hiện đại gần như xuất hiện đủ đầy và xuyên suốt các sáng tác của Chân Phương. Nhưng khác với nhiều nhà thơ hiện đại, Chân Phương không bị ẩn dụ và “tính trí thức” bí bức trong vòng quẩn khó hiểu và tối nghĩa của thơ. Vẫn hình thức phân mảnh và không liên tục, tính tự phát và ngẫu hứng được đẩy tới, nhưng đằng sau sự đứt quãng và rời rạc trong thơ anh, vẫn hiện diện vô hình dấu kết nối để người đọc có thể ráp nối chúng qua ngôn từ chắt lọc không quá xa cách và thi ảnh gần gũi đời thường, từ đó tạo sự hiểu và đồng cảm.

Ít ra cũng với kẻ cùng hội cùng thuyền. Có trải nghiệm nỗi tha phương thế nào mới hiểu và cảm thông được Nh. Tay Ngàn như Chân Phương đã cảm và hiểu.

“Hơn cả Hàn Mặc Tử, Bùi Giáng… còn có thân nhân, đồng bào khi hoạn nạn, Nh. Tay Ngàn hoàn toàn tứ cố vô thân ở Pháp trong những năm tháng túng thiếu, nghiện ngập, lao phổi, điên khùng… Không hiểu những bóng hình phụ nữ (gái Việt, đầm Pháp, đàn bà Tây ban nha) trong những trang bản thảo của ông có an ủi, khỏa lấp được chút nào niềm tuyệt vọng và ám ảnh hư vô chủ nghĩa đã thấm vào máu thịt nhà thơ?”

(Chân Phương, “Một vệt sao mờ”, viết về thi sĩ Nh. Tay Ngàn)

Chân Phương đã đặt câu hỏi như thế về một nhà thơ bất hạnh trước anh. Còn anh, hình bóng nữ nào, trang bản thảo nào có thể an ủi khỏa lấp buồn anh, hôm nay?

dù chuyến bay gặp nạn hay hạ cánh an toàn

mọi tọa độ và địa chỉ cũng đã thất lạc lâu rồi

(“Chuyện phào”)

Sinh tại Nam Vang, Cambốt; sống ở Boston, Hoa Kì, viết bằng tiếng Việt, các trang viết này rồi sẽ có ai nhớ? “Thôi sắp bốn mươi đến nơi/ hơi đâu lo chuyện xếp câu đặt lời” (“Chuyện phào”). Nhưng nghĩa vụ của thi sĩ là viết. Dù thế giới sắp đổ rụm ngày mai. Ta vẫn viết. Không mơ mộng, không hi vọng.

Cả tôi nữa. Sinh ở Chakleng – Phan Rang, sống Sài Gòn, viết cả tiếng Chăm lẫn Việt Nghiên cứu, sưu tầm và dịch thuật, làm thơ và viết văn. Tôi biết, mớ công trình văn học và ngôn ngữ dày cộm này, mấy tập thơ mỏng tang kia, một ngày nào đó sẽ bị lãng quên. Có thể ngay hôm nay chẳng ma nào quan tâm đến nó nữa, không chừng. Nhưng tôi vẫn trì trì miệt mài bày biện nền văn chương đang nguy cơ trầm một này đến thế giới bên ngoài; kiên nhẫn phận sự canh giữ ngôn ngữ dân tộc bằng “chơi trò ráp chữ, xếp câu đặt lời”.

Đại đa số con người trong thế giới hiện đại bị đánh bật khỏi gốc rễ và chịu phận lưu đày. Nhất là nhà thơ. Lưu đày khỏi quê cha đất tổ, khỏi tiếng mẹ đẻ, khỏi bổn phận canh giữ. Cả khi ta vẫn ở lại quê hương, vẫn viết bằng tiếng mẹ đẻ, ta cứ phận lưu đày: Ta bị lưu đày khỏi bản thể mình. Đó là một thứ lưu đày tinh thần, lưu đày tâm linh spiritual exile.

Thi sĩ muôn đời không “thoát khỏi diện tích chiếc giày lấm bụi” (“Chuyện phào”), dù bạn sống bất kì đâu, bất kì thời đại nào, chế độ chính trị nào. Chiếc giày lấm bụi đeo bám bạn, như là định phận. Nghịch cảnh buộc bạn lưu đày đã đành, có khi chính bạn chọn định phận lưu đày. Chủ động lưu đày, như là một phản kháng lại định mệnh:

tôi đẩy cửa ra đường

đế giày lại kết bạn với bàn chân

(“Đêm ở Marseille”, Vết Chồn Hoang)

Thi sĩ đẩy mạnh cánh cửa để bước ra, làm cuộc lưu đày một lần và muôn ngàn lần nữa. Để qua lưu đày L’Exil – đây là hi vọng cuối cùng của bạn – bạn tìm thấy quê nhà le Royaume. Bởi dấu chân hay vết tích rơi rớt nơi vô trụ xứ cũng là cơ duyên của câu kinh hoặc bài thơ.

tay phải nắm vỏ sò biển thái bình
tay trái lần sỏi cuội đại tây dương

ngày nhìn sóng bạc
tối ngắm đá đen

miệng lầm bầm
sự phá sản của mọi thần chú

xếp bằng thế hoa sen
luyện tối hậu công phu

cõi lòng trống hoát mênh mông

bao nhiêu sầu não lênh đênh
vẫn thừa chỗ chứa
   

(“Phù thủy ca”, Vết Chồn Hoang)

Tâm hồn đã bao la, bao nhiêu buồn vẫn có chỗ chứa. Bởi, khi đi đến cùng nỗi bi quan, thi sĩ sẽ cất lên tiếng cười xé toạt định mệnh. Đó là biện chứng của sáng tạo, là đôi môi ẩn mật của Buddha. Đằng sau giai điệu blues là tiếng tù và đỉnh núi và sóng biển bập bùng nhịp flamenco. Ai có thể lắng nghe?

Sài Gòn, Ba mươi Tết 2009

Comments are closed.