Đám mây hình người thợ săn và con chó

(Trường ca)

Thanh Thảo

Nguyên Ngọc

Lạ lùng một cuộc đi tìm

Cách đây mấy hôm, tôi nhận được bản thảo một sáng tác vừa mới hoàn thành của nhà thơ Thanh Thảo, trường ca “Đám mây hình người thợ săn và con chó”. Đọc qua một lượt, tôi hiểu Thanh Thảo gửi cho tôi tác phẩm còn nóng hôi hổi này là muốn gửi đến một người đồng điệu. Anh biết tôi từng có tham gia cuộc tiểu phỉ hồi 1959-60 ở Đồng Văn – Mèo Vạc, từng mê mẩn lang thang trên cao nguyên đá huyền ảo địa đầu đất nước ấy suốt mấy năm dài; từng viết những trang đắm đuối và trằn trọc về nó. Thanh Thảo cũng đã đến đấy sau chiến tranh biên giới phía Bắc, chắc lúc đầu do bị dày vò bởi ký ức về cuộc chiến tranh kỳ quặc, anh hùng và bi tráng ấy. Nhưng rồi sau đó lại còn có chuyện khác nữa, “nghiêm trọng” không kém, nếu không nói là hơn: anh đã “đụng phải” người Mông! Theo chỗ tôi được biết, không người cầm bút, cầm đàn, cầm cọ nào ít nhiều xứng với danh hiệu đó, đã đụng phải người Mông, trên chính quê hương của họ, mà không bị ám ảnh. Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Nguyễn Tài Tuệ… Đấy là một dân tộc khác thường. Mà Thanh Thảo, khổ thế, lại là một nhà thơ tài năng!

Trường ca lần này của Thanh Thảo viết về một người Mông lạ lùng, quê ở chính Mèo Vạc, nơi nửa thế kỷ trước tôi từng làm đội phó đội tiểu phỉ suốt hai năm. Một nhân vật vô cùng kỳ lạ, nói không ngoa đâu, có thể kỳ lạ nhất thế giới. Anh ta tên là Vừ Già Pó. Mấy năm trước, ở Mèo Vạc, một hôm Vừ Già Pó đột ngột mất tích. Nói cho đúng, trên vùng biên cương xáo động và bí ẩn này, chuyện ấy cũng không hoàn toàn lạ. Thỉnh thoảng vẫn có người bị bắt cóc bán sang Tàu, con gái thì làm vợ người ta hay bị đẩy vào các ổ điếm, đàn ông thì làm nô lệ. Vừ Già Pó biến mất. Người ta đi tìm… Rồi người ta cũng quên… Cho đến một hôm, bỗng có tin, trên báo chính thống hẳn hoi: Vừ Già Pó bị bắt tại… Kashmir, vùng đất tranh chấp khốc liệt nằm giữa Ấn Độ và Pakistan. Hẳn Vừ Già Pó đã trốn thoát được cảnh nô lệ bên Tàu, có thể đoán thế. Nhưng tại sao anh lại lưu lạc tít tắp đến tận Kashmir? Bằng một trực cảm cũng kỳ lạ không kém, Thanh Thảo nói rằng nếu không bị bắt ở vùng đất quá nhạy cảm Kashmir, hẳn Vừ Già Pó sẽ còn đi nữa, theo anh là tiếp tục về hướng Tây…, anh bảo tôi như vậy khi gửi trường ca mới cho tôi. Còn tôi, tôi cũng có chuyện để kể lại với anh.

Hơn mười năm trước tôi có đọc cuốn Lịch sử người Mông (Histoire des Miao) của F. M. Savina, một vị linh mục và là nhà dân tộc học nổi tiếng, cũng từng “đụng phải” người Mông và bị dân tộc này mê hoặc. Quả thật người Mông có một lịch sử rất hiếm hoi. Theo Savina quê hương cổ xưa của họ là ở vùng Lưỡng Hà. Ông viết: “Ta thấy tất cả các dân tộc từng cư trú trên trái đất từ thuở khởi nguyên đều bắt đầu tỏa ra từ một khu vực chung nằm giữa cao nguyên Pamir về phía Đông, sông Indus về phía Đông-Nam, biển Caspienne về phía Nam và hồ Aral về phía Bắc (Ở khu vực đó, người Mông thuộc nhóm Touran), nhóm này vốn đã chiếm vùng Iran từ những thời kỳ đầu tiên của lịch sử. Từ đó họ tràn ra khắp vùng đồng bằng nằm giữa sông Tigris và sông Euphrate (hai con sông hợp nên vùng Lưỡng Hà nổi tiếng), và trên các cao nguyên của Médie và Iran… Về sau, bị người Aryen và người Sémite xua đuổi, họ đổ về Trung Á, từ đó tỏa dần ra các vùng Nga, Tarim, Mông Cổ, Mãn Châu, Triều Tiên, Bắc Nhật Bản, và cho đến tận châu Mỹ qua eo biển Behring. Họ tạo thành nguồn gốc của người Finno-Tartar (Finno chính là Phần Lan ngày nay), người Mông Cổ, người Ainos (Nhật Bản), người Esquimo, và cả người Mông…”

… Truyền thuyết của người Mông kể rằng họ vốn sống ở vùng Sennaar vào thời xây dựng tháp Babel (tháp ngôn ngữ), từ đó họ đi dần lên hướng Bắc, cho đến bên trong vòng tròn Bắc Cực, vượt qua hoặc men theo các núi cao… Điểm xuất phát của họ, theo Savina, hẳn phải là từ vùng nằm giữa dãy núi Pamir, biển Caspienne và vịnh Ba Tư. (Đấy chính là cao nguyên Ta soa, thường được nhắc đến trong các truyền thuyết Mông). Điểm họ đến nằm sâu trong vòng tròn Bắc Cực… có thể ở đâu đó thuộc vùng Bắc Sibérie, bên trên vĩ độ 60, giữa Biển Trắng và eo biển Behring… (Chính giai đoạn ở trong vòng tròn Bắc Cực này đã để lại dấu vết trong các truyền thuyết và truyện cổ tích Mông kể về ngày dài 6 tháng, đêm dài 6 tháng…). Từ đó, người Mông đi dần xuống phương Nam, theo sông Wei và bờ Nam sông Hoàng Hà, dừng lại ở vùng Trung Nguyên, trung tâm lục địa Trung Hoa ngày nay. Rồi bị người Hán từ phía Tây tràn sang xua đuổi, họ lại chuyển dần xuống phía Nam, đường đi hầu hết men trên các đỉnh và sườn núi cao. Savina viết rằng “họ đã nán lại quá lâu trên núi cao, chẳng còn chỗ cho họ ở đồng bằng [] Dân tộc lữ hành này, chưa bao giờ có tổ quốc cố định, chẳng hề quan tâm đến biên giới của các dân tộc khác, nhưng họ thành thạo tuyệt vời các con sông và các ngọn núi của châu Á, và đã đặt tên cho hầu hết các sông núi đó bằng ngôn ngữ của mình. Hẳn họ sẽ đoạt giải nhất về địa lý so với toàn bộ người phương Đông!

[] Người Mông chưa bao giờ có tổ quốc cố định, tuy nhiên lại cũng chưa bao giờ biết đến tình trạng nô lệ. Độc lập một cách dữ tợn là dấu hiệu khác biệt của người Mông, suốt mọi thời đại…

[…] Sự tồn tại của dân tộc có đến 5000 năm tuổi này quả là một sự kiện lịch sử kỳ lạ: việc họ giữ nguyên vẹn ngôn ngữ của mình mà không cần có sự hỗ trợ của bất cứ hệ thống chữ viết nào, (trong khi họ đi xuyên qua hàng trăm dân tộc khác có các ngôn ngữ được cố định bằng chữ viết, đặc biệt là ngôn ngữ Trung Hoa có tuổi đến năm mươi thế kỷ), có thể là một hiện tượng ngôn ngữ học độc nhất vô nhị trên toàn thế giới […]”.

Trên đường trường chinh 5000 năm đi lên tới cực Bắc rồi lại đổ xuống phương Nam, người Mông vào Việt Nam ở đỉnh nhọn Lũng Cú – Hà Giang, lan tiếp qua Lào Cai, Sơn La, Lai Châu, rồi sang Lào, Thái Lan, Myanmar… Tổ tiên của Vừ Già Pó, một nhánh Mông nhỏ, đã dừng lại – từ bao giờ? bao nhiêu đời rồi? – ở cái làng đẹp như tranh và đã đặt tên cho cái thung lung đá mộng mơ đó là Mèo Vạc…

Bao nhiêu đời cho đến Vừ Già Pó hôm nay, đủ để có thể quên tất cả… Thế tại sao, thoát được cảnh nô lệ bên Tàu, anh không trở về Mèo Vạc thân quen. Mà lại dấn mình như một người mộng du vào một cuộc đi lạ lùng dường đến phi lý, về một hướng lạ lùng chắc chắn trước đó anh không hề biết, chưa hề mường tượng? Tại sao? Có tiếng gọi nào từ trong thăm thẳm của thời gian, của vô thức mịt mùng mà lại rõ rệt, quyết liệt như một sức mạnh vật chất bất khả kháng? Các bạn có thể nhìn thấy con đường đi của Vừ Già Pó trên tấm bản đồ kèm dưới đây. Từ Nam Trung Quốc, anh đã đi xuyên qua Bắc Lào, Bắc Thái Lan, Myanmar, vượt qua sườn Hymalaya, sang Bangladesh, Buhtan, Népal, qua Bắc Ấn Độ…, bị bắt ở Kashmir vì đây là vùng đất tranh chấp quá ư nhạy cảm ngày nay. Vừ Già Pó đã đi 7000 kilômét! Và hoàn toàn đi bộ. Hệt tổ tiên anh đã đi bộ suốt 5000 năm từ Lưỡng Hà lên Bắc Cực giá buốt, rồi lạị từ Bắc Cực xuống Đông Nam Á nóng bức… Không biết các quan chức an ninh – của Ấn Độ hay của Pakistan? – đã tra hỏi anh những gì và anh đã nói với họ những gì về động cơ của anh trong cuộc đi phi lý này? Liệu anh có thể nói gì, khai báo gì? Anh có thể nói gì về cái sức hút dữ dội, âm thầm, bí ẩn đột ngột thức dậy đâu đó tận rất sâu trong anh, trong vô thức mịt mù mà lại sáng rõ lắng đọng 5000 năm trong từng tế bào, từng li ti huyết quản của anh, một ký ức hóa thạch đột ngột thức dậy, đột ngột tươi rói, kéo anh cắm cúi đi mãi đi mãi về phía trước, vượt qua tất cả, núi cao và sông sâu, hệt như tổ tiên anh từ rất rất cổ xưa. Thanh Thảo bảo rằng Vừ Già Pó không định dừng ở Kashmir đâu. Anh còn muốn đi nữa đi nữa, cắm cúi đi nữa, cho đến cái điểm ấy, mà Savina gọi là Lưỡng Hà, đẹp biết bao nhiêu, nằm giữa hai con sông thiêng Tigris và Euphrate… Lưỡng Hà cội nguồn của người Mông, của anh.

Vừ Già Pó chưa bao giờ đọc Savina, đương nhiên rồi. Anh không cần đọc. Những trang ấy, những dòng thống thiết ấy vốn có trong máu anh. Có phải cảnh nô lệ mà anh bị ném vào, mà là một người Mông anh quyết không bao giờ chấp nhận, là một người Mông, như Savina từng viết, “dân tộc độc lập một cách dữ dằn”, anh quyết phá tung ra, cú sốc đột ngột và mãnh liệt ấy, như vẫn thường thấy ở những người đột nhiên đạt đến những khả năng phi thường, đột ngột tháo mở một “luân xa” quan trọng nhất, đã đánh thức ký ức dân tộc hóa thạch trong anh. Lớp vỏ đá ngàn năm đột nhiên tan chảy. Và Vừ Già Pó trở lại là người Mông lữ hành vĩnh cửu từng băng qua tất cả núi cao nhất sông sâu nhất châu Á.

Tôi hiện không có cuốn Lịch sử người Mông của F. M. Savina trong tay, nhưng còn giữ được trong máy một số đoạn ghi chép khi đọc sách này mười năm trước. Tôi dịch vội những trang ấy và gửi cho Thanh Thảo. Anh gọi điện cho tôi, bảo anh đã đọc ngay, hết sức thú vị vì những điều Savina viết, càng thú vị vì dường như nhà dân tộc học nổi tiếng ấy nói đúng từng chút một những gì anh đã mường tượng về người Mông khi cầm bút. Nhưng rồi anh lại nói: “Cũng may quá là anh đã dịch và cho tôi đọc Savina sau khi tôi đã viết trường ca. Nếu được đọc trước, chắc tôi đã không thể viết được. Bởi vì viết sau khi đã biết tất cả những điều ấy thì hóa ra tôi sẽ chỉ minh họa lại các ý tưởng đã có sẵn đó. Văn học không phải là minh họa bằng ngôn từ những gì đã biết bằng lý trí. Tôi chỉ có thể viết say sưa được như đã viết khi còn tin rằng tất cả những gì mình trải ra trên trang giấy đó là do mình sáng tạo ra, mình “bịa” ra một hiện thực hoàn toàn mới thêm cho cuộc đời này!…”.

Vậy đó, điều vẫn được gọi là văn học phản ánh hiện thực. Bằng tất cả tình yêu say đắm của mình, nhà văn “đoán” về những sự lạ ở đời khiến anh kinh ngạc và da diết cố hiểu, cố nói cho ra. Khi anh có tài thật sự, thì điều anh ước đoán đó có thể trùng hợp, hay đúng hơn, còn thực hơn sự thực nhiều.

Như vậy ở đây có đến hai sự lạ, đều thật đẹp: sự lạ của Vừ Già Pó vô thức đi xuyên lục địa châu Á để tìm về cội nguồn thăm thẳm của mình; và sự lạ của nhà thơ Thanh Thảo, cũng bằng vô thức, vô thức nghệ thuật, khám phá ra sự thật tuyệt diệu mà nhà khoa học uyên bác Savina đã tìm được về dân tộc Mông bằng con đường chặt chẽ của lý trí khoa học.

Đp quá, c hai.

 

một đám mây hình người thợ săn và con chó

trôi lang thang

từ Siberie sang

Mèo Vạc Lũng Cú Quản Bạ Đồng Văn

X Y Z…

mây bay như nỗi buồn phiêu dạt khắp trời biết nơi nào dừng

quê hương mây ở đâu?

ai xua đuổi mây nếu không là gió

ai xua đuổi gió nếu không là sóng

ai xua đuổi sóng cho đảo nổi đảo chìm đàn chim tha hương ngậm cọng rác xây tổ từ đỉnh núi

 

bây giờ trong mắt người còn giá băng nơi rời bỏ

còn lửa những đám cháy nơi tạm cư

bây giờ sông Hoàng Hà hay Trường Giang chỉ là vệt nước

trên tay áo

lông chó đã cằn khô nhiều sợi mây

lả tả

những cơn đói

 

mây cũng biết đói?

có cái gì trên đời này không đói

cái gì ta thiếu mà không đói

mây đói hình người thợ săn và con chó?

 

đói tổ quốc

đói tự do

đói cơm

đói

gió

 

gió xua đuổi ta nhưng không gió làm sao ta bay

không gió đời ta thành giẻ rách

chứ đâu phải mây

 

gió làm nên người dân ta trong sạch

dựng nhà nơi chất ngất

dưới bóng cây cổ thụ mồ côi

mải mê cách biệt

vách nhà khoét lỗ châu mai lẫm liệt

những cặp mắt sáng trưng

địu con xuống núi sáo vân vi lừng khừng

nghĩ theo từng vòng xoay cối đá

chầm chậm xay mẻ

bột ngô

đồ thưng

mèn mén

 

tôi gọi anh là người mây 

tôi gọi anh là bạn gió 

nơi ngày xưa anh từ bỏ

nơi ngày xưa xua đuổi anh

là vương quốc đọa đày 

chuyển động vòm trời

những hạt ngô trong hốc

những cây ngô bồng con xoáy lốc

tụ và tán

 

mây bay con mắt mở

xôm xốp hình người

phường săn con mắt khép

chó trắng chạy ngời ngời

 

nắng mới

trời xanh

đá lành

 

sinh từ đá

những bờ vai chai cạ

gùi thăm thẳm phận mình

những xác thuyền đỉnh núi

những hóa thạch san hô và cá

vạn năm

những bắp ngô mẩy hạt

trăng rằm

kèn lá

đăm đăm

 

lãng đãng bay hình người và chó

âm thanh lênh loang gió

tận cổng trời

cô gái thêu một vầng mây trên váy

thêu một đời tảo tần lên đá

thêu xanh thẳm điệu kèn

lên âm u màu đêm

 

ba năm xong một chiếc váy

ba trăm năm xong một chỗ dừng

ta đám mây ngũ sắc

thiên di

ta bầy chim trú rét

Siberie

ngậm từng cọng cỏ đỉnh cao

tìm tổ quốc

gặp cao nguyên cỗi cằn

cắm chốt

gặp đại dương đá gộc

vác đá dựng hàng rào

gặp hạt ngô lăn lóc

đời ta nảy mầm thế sao

 

Việt Nam

ta đến với Người nơi chót núi

ta đến với Người lúc cùng đường

đá của Người bảo bọc ta

từng hạt ngô nuôi ta lớn

và gùi nước trĩu nặng

dạy ta bài học biển khơi

và chiếc lá lúng liếng

dạy ta giai điệu chơi vơi

kèn lá lâng lâng nâng mặt trời

vuốt vào đêm tối

khèn bè rondo khiến ai chới với

nghe xa xăm tiếng quả thông rơi

rừng taiga mờ mịt

 

rừng Nga

(hay Phần Lan?)

Bắc cực quang những đêm trắng

băng hà

ta muốn tìm nơi ấm áp

tìm mặt trời xuyên tuyết lạnh

con chó của ta vốn nòi Dũng Cảm

dắt ta bay qua các vùng trời

 

nhưng có thứ còn giá hơn băng tuyết

kinh hơn cạm bẫy

những Trường Giang Hoàng Hà đã tới

sao lòng chua xót khôn nguôi

chó yêu ơi đánh hơi gì nơi ấy

mà giục ta mau vội bước dời

có đàn chim nào ngày lang bạt

hướng mây băng về phương nam xa xôi

 

đám mây người thợ săn và con chó

qua vạn dặm xứ người

 

tìm một đỉnh cao không buốt giá

nơi chó săn mải đuổi con mồi

phường săn bứt lá cây ăn được

về đây mình dựng tạm ngôi nhà

 

một ngôi nhà trình tường bằng đất

trước cổng kê cao hàng rào bằng đá

có khoảng sân trồng mấy cây đào

lấy quả cho chim

lấy hoa cho núi

lấy gốc buộc ngựa

mùa xuân tới tiếng kèn lơi lả

sáo trúc thênh thênh đêm mùa hạ

 

Việt Nam

ta là con dân của Người

những dãy núi hoang vu không sợ hãi

những lối mòn không dấp cành kiêng cữ

ánh nhìn tin cậy

lá rừng miên man không lá ngón

người anh em ăn cùng ta một quả dưa nương

chấm mèn mén

giữa đường

 

chúng ta sống với nhau đá mọc

thở cùng nhau sương mai

hát đồng ca hẻm núi

hun hút đèo mây

người dân ta quen ở trên cao

mắt nhìn xuống thấp

tai lắng nghe tiếng động phía sau mình

chân bấm đá nhịp đầy mê hoặc

người dân ta toàn thân âm nhạc

ngay con dao đeo bên hông

cũng hát

 

bác thợ săn niềm vui khốc liệt

giương súng kíp

con chó săn đam mê lốc xiết

ngửi mùi chồn hương

trời làm cao nguyên đá

người Mông làm khẩu súng này

khoan nòng

đá hay đạn ghém

đỉnh núi cao hay bờ vực hiểm

đều vũ trang

 

đá lăn

           đá lăn

                      đá lăn

 

lăn đá

xuống đầu thù

rình rập

suốt đêm thâu

mỗi ngôi nhà một pháo đài

nhiều mắt cửa

con chó của ta mũi ướt

thở

nó lắc lư khi ngửi thấy mùa thu

gió

chứa chan trong trẻo

 

có những lối mòn trong đầu

chỉ mình ta biết

nếu giặc từ biên giới tràn qua

ta chặn nơi cần gặp

phục bờ vực sâu

cây dương cung đá bật

 

đá lăn

            đá lăn

                       đá lăn

 

uống với nhau một bát rượu ngô

nói người anh em đừng giận

nhiều bữa con ta ăn cơm với lá

đi vài chục cây số tới trường

vẹo chân

ở lều che tạm

gió sương

chờ dự án

 

nói người anh em đừng giận

chúng ta sống khổ quen rồi

nhưng các con ta không có chữ

làm sao chúng giữ đất này

các con ta thiếu đói

cột mốc đường biên sẽ lung lay

 

uống với ta một bát rượu ngô

nói người anh em đừng giận

đừng tham bát bỏ mâm tham của bỏ người

mỗi hòn đá nơi này đều thật đá

mỗi vầng mây dẫn lối tới mây trời

trong hình người thợ săn và con chó

ta đã bay qua rất nhiều nơi

 

đừng nghĩ mây quên lãng

hay chó ngửi nhầm mùi

thợ săn hãi đêm tối

đá không thốt nên lời

 

người ở núi cao cách trở

nói ít thôi

ta không chém gió

mà trần ra cho gió chém mình

ngang dọc

 

tin ta đi, hạnh phúc

chỉ đến với ai tự biết

 

ta biết từng hạt ngô nảy mầm trong hốc

từng lá cây làm men rượu ngô hạ thổ nhiều năm

kỳ sánh như mật

bao nhiêu cây số đường dốc mỗi ngày lên nương

dấu chân lõm mồ hôi khoan từng giọt

mặt đá in hình cánh chim thảng thốt

 

ta biết

mình rất nghèo

trên quê mình đá tươi tốt bao nhiêu

đá là của để dành

là vàng của đất

là bài ca cháy khát

dưới mây trời

giọng khèn bè nén hơi

ngàn ngạt

 

đá hát

             đá hát

                         đá hát

 

hai quả núi sinh đôi hình cặp vú

đầy căng

hai người yêu tìm nhau qua tiếng hú

mênh mang

đá sinh đá sinh đá sinh đá

đá mẹ bồng con

đá vợ yêu chồng

đá mồ côi thất lạc

đá sum vầy mở hội xông xênh

đá ngẩn ngơ ngồi giữa chênh vênh

đá nguyên thủy đá đang thành hình

trong một thế giới không sắp đặt

 

đám mây người thợ săn và con chó

lững thững bay trên cao nguyên gió

Đồng Văn

mình là mây hay đây là đá

ta đang bay hay mây đang hạ

cánh giữa ngút ngàn

đá

mờ mờ

thở

ngô

mờ mờ

nở

 

tít dưới lòng thung dòng sông vệt nắng

vẽ giữa đáy sâu hình con rắn

sông Nho Quế mật mã trời xanh

làm sao ta xuống đó

tóc dựng ngược đèo Mã Pí Lèng

 

đêm sù sì góc khuất

đêm giam cầm nước mắt

đêm những người đang yêu khản đặc

thì thào kèn lá

ta bay và con chó

muốn nói không nói được

người anh em hãy vút cùng ta

cao hơn chóp núi

sâu hơn thung sâu

phiên chợ tình khắc khoải

lốc cốc chiều buông mõ trâu

ờ, chó sủa

những người yêu hối hả

cuống quít đạp lên vệt đêm nhọn sắc

trao nhau vấp váp lời thề

nóng hực

 

đám mây người thợ săn và con chó

cài đỉnh gió

chờ trăng

ta đang biến hình thở sâu nghĩ ngợi

phiên chợ chưa tàn

 

ta vuốt ve lá cờ đỉnh Lũng Cú

lá cờ 54m2

tiếng trống đồng

rung lồng ngực

Vua Quang Trung

rụng rời vía giặc

trăng lồng lộng cờ bay ràn rạt

trăm vạn hùng binh

nơi phên dậu tận cùng

quằn quại yêu

lặng im giữ nước

 

chúng ta tự do

như đá mọc

đá mát

như da thịt trẻ con

 

chúng ta là anh em

ba ông táo trong bếp

chung một điểm nhìn

 

lướt trên phận mình

một đời lao nhọc

gom từng vốc đất

nuôi từng cây ngô

xe từng sợi chỉ

chiếc váy ước mơ

 

nhiều lúc mắt hoa

nỗi buồn tiền kiếp

người thợ săn già

tay nâng súng kíp

lưng gùi Tổ quốc

con chó của ta

bay lên phía trước

 

lang thang năm châu lục

vẫn người Mông ta thôi

 

có lúc

Vừ Già Pó là tôi

từ Mèo Vạc

không bay

cuốc bộ hơn 7000 km(1)

băng qua sườn dãy Himalaya đến tận bang Azad Kashmir

(Pakistan)

tôi chẳng biết

vì sao mình đi được

cứ như ai ám quẻ gọi tên

Vừ Già Pó

 

một con vẹt

thường ăn ngô trên nương Mèo Vạc

bay theo tôi

7000 km

trong đêm vượt thác cao đèo dốc

chân trần

lướt qua nhiều quốc gia chủng tộc

con vẹt trò chuyện cùng tôi

cứ như mình sinh ra là bạn

 

(Vừ Già Pó bị bắt do vượt biên trái phép)

 

Báo Thanh Niên kể lại rằng: Khi nhìn thấy ảnh cờ và tiền Việt Nam trên màn hình, “Anh ta rất phấn khích và hạnh phúc. Anh ta nói gì đó và ra dấu hiệu để nói rằng những thứ này là của tôi”.

 

“Việt Nam là của tôi!” Vừ Già Pó

“Tôi là của Việt Nam!” xin đừng hỏi

tôi đến từ đâu?

 

dẫu đất nước tôi toàn đá

tôi cứ yêu đất nước mình vật vã

rồi mơ một lối mòn

dẫn về bản nhỏ

say rượu quá nằm im trên lưng ngựa

vợ che ô bóng tròn nắng dữ

lơ mơ móng vó 

gõ trong đầu

đều đều một điệu kinh cầu

siêu tĩnh

 

con vẹt thân yêu không bao giờ phỉnh nịnh

nói với tôi bằng thứ tiếng

chỉ hai người hiểu nhau

không phải Pó muốn lập kỷ lục phượt hay gì đâu

tôi bị lừa bán sang Trung Quốc

làm nô lệ

tôi không muốn thế

nên bỏ đi

từ đó bắt đầu chuyến lang thang cơ nhỡ

hơn bảy nghìn cây số

theo hướng mặt trời lặn

cứ như ông trời muốn thử

Pó có phải người Mông?

 

tôi tên Vừ Già Pó, ở Mèo Vạc

Tổ quốc tôi là Việt Nam

 

từ những đỉnh núi cao

ong ong trong đầu

hình như ai gọi

tôi muốn đi tới một nơi nào đó

dù thế giới bây giờ không còn đất mới

người dân tôi vẫn muốn đi

tới một nơi nào đó

một nơi nào không rõ

thế thôi

như tổ tiên tôi đã đi đã đến

vân cẩu mòng mòng

 

kèn lá vẩn vơ không đầu không cuối

tắt mà chưa xong

người yêu có chồng có vợ

yên mà chưa xong

nhà dựng áp đỉnh núi

chắc mà chưa xong

cầu treo chông chênh thác lũ

rồi mà chưa xong

con ta chui bao ny lông vượt suối(2)

qua mà chưa xong

 

đám mây người thợ săn và con chó

nhàu nhò núi lở mưa giông

người dân ta bước chậm từng bước

xây ruộng bậc thang hàng mấy trăm năm

trồng nương ngô tốn vài ba thế hệ

đất và nước chợt nhẹ

gùi lên nương từng vốc từng vò

đất và nước chợt nặng

đời ta ăm ắp nỗi lo

 

Vị Xuyên

Thanh Thủy

12/7/1984

1698 ngôi mộ máu Việt Nam từ 30 tỉnh thành góp giữ

từng tấc đất tấc núi

 

Thanh Thủy bây giờ là cửa khẩu

đêm cú kêu khắc khoải liên hồi

tôi dừng lại bên sườn núi Đất

một nỗi đau bầm ứ trong đầu

mây gấp gáp hành quân về lối cũ

mây bay như vết chém ngang người

nào phải kẻ nhớ quên lơ đãng

tôi thầm đi xương máu các anh tôi

những hàng mộ bia dạy tôi cách sống

và chết không tủi hổ dưới mặt trời

 

“sẽ không một ai bị quên lãng”

 

nhưng từ nhiều năm nay quên lãng đã tới rồi

quên lãng ngồi chén chú chén anh

quên lãng lên mặt báo

chém gió

mặt căng vành vạnh

nói với ta lời có cánh

chỉ trừ những gì xảy ra ở Vị Xuyên tháng 7/1984

là quên lãng cố tình im lặng

 

ta với lãng quên không là bạn

 

xin cho ta

ngày trở lại nơi này

thắp nén hương nghèn nghẹn khói bay

rót vài ba chén rượu

lên những nấm mộ buồn

chiều mưa tuôn

ta ngược đường Thanh Thủy

nơi lũ giặc phun lửa đốt các anh thành tro bụi

thành sương khói

thành mây ôm đỉnh núi

thành nỗi đau vạn thuở(3)

trời ơi!

a di đà a di đà a di đà

a a a a a a a a a a

 

tôi là Vàng Xín Dư

người Mông

xã đội trưởng Tả Ván

từ năm 1979 tới 1984

đội quân của tôi chỉ vài mươi người

mấy khẩu CKC đạn lép

lựu đạn chày Trung Quốc

ném không nổ

còn lại là súng kíp

chúng tôi đã ba lần đánh thắng quân Trung Quốc

khi chúng tràn sang làng bản chúng tôi

 

được khen thưởng

chúng tôi cười

được phong anh hùng

chúng tôi vui

 

thế thôi

 

sau này

tôi được lên chức huyện rồi lên chức tỉnh

đi ô tô mỏi cả mông

 

thế thôi

 

giờ về hưu

cùng đám du kích già làm nương

chơi với lũ trẻ trai trong bản

uống rượu ngô ăn mèn mén

 

thế thôi

 

hỏi: sắc phong anh hùng cấp cho xã, giờ đâu?

đáp: cấp trên nói hãy tạm giấu

sợ ảnh hưởng đến tình hữu hảo bên kia biên giới

 

thế thôi

nhẹ một hơi sáo trúc

 

tôi ước

nghe tiếng kèn lá vò xé

thổi vào cuối canh ba

lúc tầng tầng đá cao nguyên thiếp ngủ

tiếng kèn khóc

cười

thở

mịn như đêm

mềm như lá

đột ngột

tắt

sao đổi ngôi

 

những người yêu

đứng bên hàng rào đá

nói với nhau bằng kèn lá

giai điệu miết vào cuối canh tư

lõm sâu

mệt mỏi

 

đám mây

lâng lâng bay

này này

người thợ săn

múc

bát sương xanh

con chó

đầu gục gục

xơi

tia nắng lành

 

một ngày mới trên cao nguyên Đồng Văn

những bước chân đều đều lên nương

những người gùi nặng đi cắm mặt về phía trước

những người cấy đá tạo thành hốc

nhón đất làm nên nương

những người miệt mài tới giữa trưa

khẩu phần chỉ một quả dưa

và một bát mèn mén

những đám mây làm dịu cơn nóng

trong khi chai nước lạnh khiến cổ họng được an ủi

và món dưa nương chấm mèn mén cam kết

cái bền chặt mỗi ngày

 

người dân ta khát thèm

yên ổn

họ không ưa gây chuyện

nhưng đừng ép họ tới mức không chịu nổi

vì lúc đó

toàn thân họ là danh dự

lúc đó

đá

nổ

đá cũng

nén đầy danh dự

 

Vàng Xín Dư nói với tôi

ông muốn cưỡi lên đám mây cuối trời

cùng con chó của đồn biên phòng 

ngao du cao nguyên đá

có phút giây không mua được bằng tiền

không đổi được bằng vòng vàng hay quần áo đẹp

có niềm vui phấn khích như sương

có cú bay

chói ngời hạnh phúc

có đám mây

đẫm màu mơ ước

tôi nghe âm nhạc chiều thẳng đứng

lung linh giữa đỉnh và vực

đó là cú giáng khốc liệt

của một vận động viên nhảy dù

rơi tự do

 

thân thể mình

vi vu

ống sáo

những huyệt đạo nóng bừng

rừng cây chao đảo

ngồi trên đá và bay

tay níu mây tay nắm gió

hơi thở lụa

buông bắt nhẹ nhàng

tiếng sáo lâng khâng

ngập ngừng bước chân lữ khách

chưa biết dừng đâu khuya khoắt

mây trải nệm lưng chừng

đêm nay con chó và người thợ săn

chụm đầu thủ thỉ

mình ơi thân thiết đã bao đời

chia nhau củ sắn lùi

vốc ngô bung

dòng âm thanh trong đục lạ lùng

từ trời xanh thả xuống

cheo leo bao điều vọng tưởng

đất nước tôi

miệng ăn măng trúc, củ dơn

những giang cùng nứa

thực đơn

xót lòng

 

nhiều khi vuốt miếng lá dong

gói tấm bánh nếp chờ mong ai về

rừng xa nhạc ngựa tái tê

em mơ đá nở đầy khe hoa vàng

Vừ Già Pó về Mèo Vạc

lang thang cuối đất cùng trời

quê mình cứ vẫn thế thôi quê mình

 

uống một hơi sáo trúc

nâng tầm bát rượu ngô

vợ nhìn chồng đắm đuối

mất rồi được, ai ngờ!

 

trôi rất chậm dòng sông trôi rất chậm

những tường minh cây lóe sáng cạn ngày

và hơi thở hăng hăng mùi cỏ rậm

cứ như hồn mọc đá phía ngây ngây

 

lăn về phận người lầm lũi

trong sa mù nhào nặn mãi

bức tường

im lặng chắn

nỗi buồn dằng dặc

giữ từng đốm lửa cuối đêm sương

 

con chim gì tiếng hót rất xanh

bình minh lên từ cổ họng

miệng nhả hạt bàn chân chim nhúng nắng

rung cành cây mờ hơi suối thượng nguồn

người dân tôi ăn hòa điệu bên trong

những vật tổ (totems) đất trời sắp đặt

không xáo trộn chỉ tìm ra nút thắt

lần mở cõi thiên đường

con gà thiêng

cất tiếng gáy lật từng trang sáng thế

vòi nước chảy

nước từ đỉnh cao quanh quất lượn về

 

với cao nguyên đá

nước

là tất cả

 

với người đang yêu

bài ca

là tất cả(4)

 

bài ca ấy như một hơi thở lạ

ngấm vào tôi quá nửa đời

vì sao người Mông lại gặp Tô Hoài

vì sao Nguyễn Văn Thương có “Bài ca trên núi”?

vì sao người Mông ở cao đến vậy?

vì sao đá hút hồn tôi?

 

nắm xôi tím nước mắt em cay xé

đưa ta qua biết mấy thăng trầm

trên đám mây cuối ngày lặng lẽ

con chó và ta tóc xõa mưa dầm

chúng ta bay lang thang tìm hạnh phúc

có ngờ đâu hạnh phúc lại quá gần

nắm xôi tím mái đầu giờ bạc trắng

vẫn như xưa thơm từng ngón tay cầm

 

em đừng khóc mình về phiên chợ

mùi thắng cố ngất ngây lửa phừng

chảo quà ngon bạn bè sum họp

bát rượu ngô bùng cháy nỗi mừng

 

ta vào hội đi nương mùa mới

ống hóp tươi tẩu xênh(5) nhà làm

rồi chả ngóe măng chua ớt nướng

tiệc mở giữa trời thơm cơm lam

 

món bánh ngô em chờ qua Tết

bánh khô rồi chưa thấy anh sang

người mải yêu tìm yêu mải miết

họ ăn tình nhau suốt mùa màng

 

chúng mình đi chợ tình anh ạ

chợ tình như đất nước thật thà

cao nguyên đá làm sao hết đá

tình yêu thành núi mọc trong ta

 

thành lá kia ăn được

nước kia uống được

trúc kia thổi được

men kia rượu được

 

con dế mèn trong hốc

gáy vang bình minh

trăng sắp lặn người đi nương xuống núi

bỏ lại đâu đây bóng mình

 

không núi nào cao bằng đầu gối người Mông(6)

không mây nào lành bằng đám mây hình người thợ săn và con chó

                                                                                           

bay vùn vụt dặm ngàn cây số

về ôm biển Đông xanh mặn đời ta

 

lũ giặc từng tràn qua cao nguyên đá

giờ lại lấn xâm biển cả

chó ta ơi, hãy đánh hơi lần nữa

nhận đúng mùi tanh tưởi kẻ thù xưa

 

chó của ta chính nòi đuôi cộc

lành như mây và dữ như hùm

chó của ta chớ hề khuất phục

với đất này nó trọn thủy chung

 

xin hãy nhận chúng tôi hỡi những người lính biển

lão thợ săn và con chó trung thành

súng kíp của ta dù thô sơ cũ kỹ

chưa bao giờ bắn chệch hồng tâm

 

người dân ta không ăn ở hai lòng

dù phải dạt trôi khắp cùng thế giới

tấm thân già chỉ mong ngày ký gửi

ở một góc cao nguyên đá Đồng Văn

 

đã bao lần dân tộc tôi bật khóc

nước mắt lặn sâu rừng đá cao nguyên

đã bao lần dân tộc tôi bật dậy

chém lưỡi dao vào đá khắc lời nguyền

 

“chúng ta thà hy sinh tất cả

chứ nhất định không chịu mất nước

nhất định không chịu làm nô lệ!”

Bác Hồ đã nói thế

 

“jamais!”(7)

Bác Hồ đã nói thế

 

người Mông cũng nói thế

“không bao giờ!”

 

rừng đá cao nguyên nhắc lại

“không bao giờ!”

 

chỉ con Cộc nhà ta im lặng

nó lao lên như tia chớp bất ngờ

 

những dòng sông buông xuống từ trời

vương-quốc-đá trồi lên từ biển

riêng người thợ săn và con chó

lại hóa hình trong một đám mây

 

qua bao nhiêu đỉnh vực

bay cùng mỗi phận người

bình tâm nét môi cười

em bé Mông thổi sáo

 

nổi nênh vài giai điệu

sau trước một lối về

có hòn sỏi ngọn cỏ

dâng mình cho đất quê

 

bông hoa tam giác mạch

nở viền khuất chân trời

đám mây màu phiêu bạt

thả neo vào xa khơi

 

dẫu mai đây những gì còn mất

xin đừng quên rượu cất từ ngô

con cún ấy vẫn nòi đuôi cộc

mây yếm lành ngực đá nhấp nhô

 

Cao nguyên đá Đồng Văn, 2012                                                        

Quảng Ngãi, 2014                                      

                                                   

 

________________________

(1) Theo một ký sự của báo Thanh Niên, ông Vừ Già Pó, cư dân khu vực Mèo Vạc thuộc tỉnh Hà Giang, Việt Nam, bị cho là mất tích từ hai năm trước. Tuy nhiên, hiện ông đang bị nhà cầm quyền Pakistan giữ sau nhiều tháng điều tra, và người ta chưa có nhiều thông tin về lý do và làm sao ông lưu lạc hơn 5.800 km (sau đó xác định chính xác là hơn 7000km) băng qua dải núi Himalaya đến tận bang Azad Kashmir (Pakistan).

(2)http://tv.tuoitre.vn/tin/9016/qua-song-bang-tui-bong

(3)https://www.youtube.com/watch?v=2rzhToA0R78

(4) https://www.youtube.com/watch?v=l4X6IJUN8DA

(5) tẩu xênh: món lương khô mùa đi nương đặc trưng của người Mông (dẫn theo nhà thơ Mã A Lềnh)

(6) ngạn ngữ của người Mông

(7) không bao giờ! (tiếng Pháp)

 

Tác giả gửi Văn Việt.

Comments are closed.