Nguyễn Đức Dương
Theo học giả Vũ Ngọc Phan (1978 : 36-37), “… [mọi đơn vị tục ngữ] dù ngắn đến đâu cũng phải là một câu”[1]. Nhưng câu trong thể loại sáng tác dân gian này hay được thể hiện dưới dạng cụ thể nào? Bài này thử cố trả lời thật rõ ràng và thuyết phục câu hỏi ấy.
Như chúng ta đều biết, câu trong kho tục ngữ [TN] Việt không được tổ chức theo khuôn Chủ–Vị quen thuộc, mà được tổ chức theo khuôn Đề–Thuyết [Đ–T] (xin x. Cao Xuân Hạo 1989. Tiếng Việt. Sơ thảo ngữ pháp chức năng). Và nếu dựa vào khuôn này, ta có thể phân định các kiểu câu hay gặp trong TN thành mấy nhóm sau.
1. Nhóm I
Nhóm đầu tiên này bao gồm những “câu đầy đủ”, tức những câu có cả hai phần Đ và T trên cấu trúc bề mặt, chẳng hạn:
(1) Gần mực thì đen; gần đèn thì sáng[2]
(2) Vàng gió; đỏ mưa
(3) Người có chí thì nên; nhà có nền thì vững
(4) Vịt già; gà tơ
(5) Thứ nhất thịt bò tái; thứ nhì gái đương tơ
Đây là kiểu hay gặp nhất (chiếm tới hơn 95% trong tổng số!) và cũng là kiểu dễ nhận biết hơn cả nhờ vào hai chỉ dấu hình thức:
(a) chỉ dấu về trình tự: phần Đ của câu bao giờ cũng đi trước; còn phần T bao giờ cũng đi sau; và
(b) chỉ dấu về ranh giới: ranh giới giữa hai phần ấy bao giờ cũng được (/ có thể được) phân định rành rẽ bằng các“tác tử phân giới”, trong đó hay gặp hơn cả là THÌ và LÀ.
Xin minh hoạ những điều vừa trình bày bằng mấy dẫn liệu cụ thể:
(6) Ác tắm thì ráo; sáo tắm thì mưa
(7) Ở bầu [thì] tròn; ở ống [thì] dài
(8) Được mùa lúa [thì] úa mùa cau; được mùa cau [thì] đau mùa lúa
(9) Gió thổi là chổi trời
(10) Gầy là thầy cơm
(11) Công cấy [là] công bỏ; công làm cỏ [là] công ăn
(12) Con hơn cha [là] nhà có phúc.
Hai đặc điểm vừa nêu còn gợi cho ta nghĩ tới một phép thử vô cùng giản tiện, nhưng lại có tác dụng cực kì to tát đối với việc nhận diện TN: giúp xác định mau lẹ và chuẩn xác bất cứ một biểu thức ngôn từ [BTNT] nào do dân gian tạo nên có phải là TN hay không.
Phép thử ấy có thể được phát biểu như sau: muốn biết một BTNT nào đó có phải là TN hay không, ta hãy thêm hoặc là THÌ, hoặc là LÀ vào những chỗ thích hợp trong BT ấy, rồi thử kiểm nghiệm lại xem nó có còn đúng ngữ pháp nữa không và nhất là có còn giữ được nghĩa vốn có nữa không. Nếu câu trả lời nhận được là “có” thì BT ấy đích thị là TN; còn nếu là “không” thì tư cách TN của BT tự khắc bị bác bỏ.
Như loạt BT sắp nêu dưới dây, chẳng hạn:
(13) Chó treo; mèo đậy
(14) Giàu điếc; sang đui
(15) Sống tết; chết giỗ
(16) Áo cứ tràng; làng cứ xã
(17) Ăn no; lo được
(18) Năng nhặt chặt bị
(19) Chiêm hơn chiêm sít; mùa ít mùa nở
(20) Già néo đứt dây
(21) Cơm sống cơm thảo; cơm nhão cơm hà tiện
(22) Mưa tháng ba hoa đất
sở dĩ được mọi người công nhận là TN vì BT nào cũng đều thoả được hai yêu cầu vừa nhắc sau khi thêm THÌ hoặc LÀ:
(13’) Chó [thì] treo; mèo [thì] đậy
(14’) Giàu [thì] điếc; sang [thì] đui
(15’) Sống [thì] tết; chết [thì] giỗ
(16’) Áo [thì] cứ tràng; làng [thì] cứ xã
(17’) Ăn [thì] no; lo [thì] được
(18’) Năng nhặt [thì] chặt bị
(19’) Chiêm [thì] hơn, chiêm sít; mùa [thì] ít, mùa nở
(20’) Già néo [thì] đứt dây
(21’) Cơm sống [là] cơm thảo; cơm nhão [là] cơm hà tiện
(22’) Mưa tháng ba [là] hoa đất.
Còn các BT sắp dẫn sau đây sở dĩ không được coi là TN vì không “qua nổi” phép thử ấy: sau khi thêm THÌ / LÀ, chúng đều hoá thành hoặc sai ngữ pháp, hoặc “khó nghe”:
(23) * Mỏng mày [thì/là] hay hạt
(24) * Ăn ốc [thì/là] nói mò
(25) * Nước mắt [thì/là] lưng tròng
(26) * Vắng [thì/là] như chùa bà Đanh
(27) * Cá đối [thì/là] bằng đầu
Khoảng 5% số câu còn lại, theo chúng tôi tìm hiểu, có thể được xếp vào hai nhóm sắp bàn, theo các tỉ lệ chênh nhau khá lớn.
2. Nhóm II
Đây là nhóm gồm những câu khuyết hẳn phần T (“câu khuyết Thuyết”), nên trên cấu trúc bề mặt, ta chỉ còn gặp có mỗi phần Đ. Và phần này của câu, như ta sắp thấy, thường có thể được biểu hiện dưới hai dạng chính sau đây:
(a) Dạng thứ nhất: do một danh ngữ (= cụm danh từ) biểu thị, chẳng hạn:
(28) Chim; thu; nhụ; đé
(29) Ruồi vàng; bọ chó; gió Than Uyên
(30) Lá rau muống; cuống rau giền
(31) Cơm nhà; gà chợ
hoặc một đôi khi do một ngữ vị từ (= cụm vị từ) biểu thị:
(32) Đau đẻ; ngứa ghẻ; hờn ghen
(b) Dạng thứ hai: do một tiểu cú (tức một tiểu cấu trúc đ–t bị giáng cấp và chỉ còn “đủ sức” làm phần Đ / T của câu nữa mà thôi) biểu thị, chẳng hạn:
(33) Cơm chín tới; cải ngồng non; gái một con; gà gại ổ
(34) Lợn chuồng chái; gái cửa buồng
(35) Gà lấm lưng; chó sưng đồ
(36) Gà luộc lại; gái ngủ ngày
(37) Gái thở dài; trai nằm sấp
(38) Làm không chúa (= chủ); múa không trống
(39) Lớn chuối hột; bé hạt tiêu
(40) Gái thương chồng đương đông buổi chợ; trai thương vợ nắng quái chiều hôm[3]
(41) Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống
(42) Gái còn son không bằng tô don Vạn Tượng.
Khác với nhóm đầu, nhóm này chỉ chiếm ≈ 3,5% trong tổng số và cũng khó nhận biết hơn. Tuy thế, nếu khéo vận dụng mấy chỉ dấu hình thức đã nêu ở đầu mục để xác lập cấu trúc cú pháp, ta vẫn có thể vượt qua mọi trở ngại một cách khá dễ dàng.
3. Nhóm III
Là nhóm gồm những câu vắng hẳn phần Đ (“câu khuyết Đề”), nên trên cấu trúc bề mặt ta chỉ còn gặp có mỗi phần T. Và phần T này thường được biểu thị bằng một ngữ vị từ với trung tâm là các vị từ tình thái, như “nên” hay “hãy”,“đừng” ( / “chớ”), “chỉ thấy” / “chỉ gặp”. chẳng hạn:
(43) Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo
(44) Chớ dung kẻ gian; chớ oan người ngay
(45) Đừng tham ăn nhiều mà nuốt khó trôi
(46) Đừng khinh khó [= nghèo]; chớ cậy giàu.
(47) Bán anh em xa, mua láng giềng gần [Nên bán bớt anh em xa đi để còn…]
(48) Làm khi lành để dành khi đau [Nên làm khi khoẻ mạnh để còn có cái mà ăn khi ốm đau].
Nhóm này vừa ít ỏi (chỉ chiếm ≈ 1,5% trong tổng số), vừa khó nhận biết hơn (do không thể sử dụng phép thử với THÌ hoặc LÀ, như có thể làm với nhóm đầu). Tuy thế, hễ chịu khó xét kĩ từng đơn vị một thì với chỉ dấu hình thức đã nêu ở đầu mục, ta vẫn có thể định loại được khá mau lẹ mà chả hề gặp một trở ngại đáng kể nào.
Xin dẫn thêm ra đây một số dẫn liệu nữa để minh hoạ cho những gì vừa giới thiệu:
(49) Bán gà ngày gió; bán chó ngày mưa [Chớ / đừng bán gà …; chớ / đừng bán chó …]
(50) Múa rìu qua mắt thợ [Chớ / đừng múa rìu …]
(51) Ép dầu, ép mỡ, ai nỡ ép duyên [Chỉ thấy người ta ép dầu,…; chứ ít thấy ai ép duyên …]
(52) Chết sông, chết suối, chả ai chết đuối đọi đèn [Chỉ thấy người ta chết đuối dưới sông, dưới suối, chứ chưa từng thấy ai chết đuối trong bát dầu được dùng làm đèn]
(53) Bắt người bỏ giỗ, không ai bắt người cỗ bé [Chỉ thấy người ta bắt lỗi kẻ bỏ giỗ, chứ chưa hề thấy ai bắt lỗi …]
(54) Giúp lời, không ai giúp của; giúp đũa, không ai giúp cơm [Chỉ thấy người ta giúp lời, chứ hiếm thấy ai giúp của …]
4. Nhóm IV
Đây là kiểu ít gặp nhất trong kho TN Việt vì mãi tới giờ, sau khi xem xét kĩ trên dưới 6 nghìn đơn vị TN, chúng tôi vẫn chỉ mới bắt gặp có dăm ba câu mà thôi:
(55) Ráng mỡ gà, ai có nhà thì chống
(56) Bạc tỉnh Tuyên [Quang], ai có duyên thì được
(57) Cơm hàng, cháo chợ, ai lỡ thì ăn
(58) Chim trời, cá nước, ai được thì ăn.
Nhà ngữ học Cao Xuân Hạo gọi những câu thuộc nhóm này là câu ngoại đề (còn ba nhóm vừa mô tả bên trên là câu nội đề): bởi lẽ bên cạnh phần nội đề (trong bốn câu vừa dẫn đều do“ai” biểu thị), câu còn có thêm một phần Đ nữa (phần được gạch chân trong mấy dẫn liệu nêu trên).
Phần ngoại đề này vốn chả thuộc về cấu trúc cú pháp của câu hữu quan, mà có thể dễ dàng tách thành một câu riêng (bởi lẽ nó chỉ gắn bó với phần còn lại về mặt nghĩa (chứ chả phải về cú pháp!), chẳng hạn:
(58’) Chim [trên] trời, cá [dưới] nước ấy mà (đâu phải của riêng ai mà cứ đòi giữ lấy). (Bởi thế,) ai bắt được kẻ ấy tất được quyền ăn.
Sồ lượng quá ít ỏi như vừa nói có thể cho phép ta mạnh tay lược bỏ một khi không quá duy mĩ: coi trọng quá đáng tính toàn bích của bức tranh muốn khắc hoạ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Đức Dương 2007. Lời dặn của người xưa. Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 7, tr. 42-44.
Cao Xuân Hạo 1989. Tiếng Việt. Sơ thảo ngữ pháp chức năng. NXB Khoa học Xã hội.
Triều Nguyên 2006. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ bằng mô hình cấu trúc. Tạp chí Ngôn ngữ, số 5, tr.19.
Vũ Ngọc Phan 1956 [1978]. Tục ngữ – ca dao – dân ca. Bản in lần thứ 8, NXB Khoa học Xã hội.
Tóm tắt: Trong bài này, tác giả đi sâu tìm hiểu các dạng câu có thể gặp trong kho tục ngữ Việt theo quan điểm ngữ pháp chức năng. Ngoài ba dạng chính là câu “đầy đủ” (hơn 95%), câu “khuyết Thuyết” (≈ 3,5%) và câu “khuyết Đề” (≈ 1,5%), tác giả còn nêu ra một dạng nữa: câu Ngoại đề. Dạng này quá ít ỏi, và rất hiếm gặp, nên tác giả đề nghị có lẽ chả cần phải tính đến khi định dạng.
Mô tả của tác giả chẳng những giúp ta nhận biết và phân biệt chính xác các đơn vị tục ngữ đích thực với các biểu thức ngôn từ không phải tục ngữ, mà còn giúp ta hình dung đúng diện mạo cú pháp của các đơn vị trong kho tục ngữ Việt.
[1] Dẫn theo Triều Nguyên 2006:19.
[2] Để giản tiện, từ đây trở đi, chúng tôi sẽ coi mọi câu ghép kiểu này là câu đơn vì cấu trúc cú pháp của cả hai vế đều y hệt nhau và đều được gắn kết với nhau theo quan hệ đẳng lập.
[3] Chi tiết hơn về câu TN này, xin x. Nguyễn Đức Dương 2007:42-44.