TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT MỞ (4): PHÁP QUYỀN/ PHÁP TRỊ (4) SO SÁNH KHÁI NIỆM PHÁP TRỊ VỚI PHÁP QUYỀN

ĐÀO NGUYÊN PHƯƠNG THẢO.
Có nhiều ý kiến xung quanh mối tương quan của hai khái niệm pháp quyền và pháp trị,
theo một số quan điểm thì chúng đồng nhất, số khác thì lại cho rằng đó là hai phạm trù
tách biệt. Vậy tiêu chí nào để đánh giá, xem xét sự khác biệt hay tương đồng của pháp
trị và pháp quyền? Thực chất giữa chúng có mối liên quan gì hay không? Từ góc độ của
một người mới tìm hiểu và tiếp cận lí luận về nhà nước pháp quyền trên cơ sở khảo cứu
các tài liệu của những học giả trong lĩnh vực này cộng thêm với vốn kiến thức khiêm
tốn vừa tiếp thu, tôi xin trình bày một số quan điểm cá nhân về pháp trị và pháp quyền
khi so sánh hai khái niệm trên.

Trước hết, cần hiểu khái niệm pháp quyền là gì.

Pháp quyền được luận bàn là pháp quyền thường được đặt trong khái niệm nhà nước pháp quyền. Theo TS Nguyễn Sĩ
Dũng, pháp quyền cũng như nhà nước pháp quyền là một phương thức tổ chức và vận
hành xã hội trên cơ sở của các quyền. Các quyền này được phân định và tổ chức sao
cho sự lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của người dân được bảo
vệ (1). Còn PGS.TS Nguyễn Đăng Dung lại tóm lược: Vấn đề cốt lõi của pháp quyền là
pháp luật về quyền. Pháp luật phân định và bảo vệ các quyền: quyền của các công dân
và quyền của nhà nước; quyền của các nhánh quyền lực nhà nước như lập pháp, hành
pháp và tư pháp (2).Và tư tưởng về nhà nước pháp quyền ra đời nhằm chống lại sự
chuyên quyền, độc đoán, gắn liền với việc xác lập và pháp triển dân chủ. Động lực ra
đời của hệ tư tưởng này bắt nguồn từ những quan điểm của người xưa cho rằng: sự
công bằng, pháp luật là những thuộc tính vốn có từ ngàn xưa của trời đất. Bởi vậy, bạo
lực, lộng quyền, và hỗn loạn là cái tương phản lại quy luật trên cần xóa bỏ (3).

Hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về pháp quyền hay nhà nước pháp quyền.
Nhưng đứng ở góc độ cá nhân, tôi đồng tình với quan điểm của một số học giả cho
rằng: pháp quyền là sự thượng tôn pháp luật triệt để, là sự cai trị bởi luật, không có một
cá nhân hay tổ chức nào vượt lên trên pháp luật và nhà nước pháp quyền là mô hình nhà
nước được vận hành trên cơ sở pháp luật hạn chế, kiềm tỏa quyền lực nhà nước_ một
nhà nước hoàn toàn bị triệt tiêu khả năng tồn tại hiện tượng lạm quyền.

Vậy thế nào là pháp trị?

Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Dung thì pháp trị là thuyết cai trị
bằng pháp luật do Hàn Phi Tử khai sinh và nó đối lập với nhân trị (nhân trị chia thành
hai loại: loại độc tài (do một người cai trị) và tập đoàn trị (do một tập thể cai trị) (4)
.
Theo quan điểm cá nhân, tôi thiên về cách hiểu pháp trị là sự triệt để sử dụng pháp luật
như là công cụ hữu hiệu nhất phục vụ cho việc cai trị, và tất nhiên theo đó sẽ có chủ thể
đứng trên pháp luật để sử dụng thứ “công cụ tối ưu” đó, nói cách khác đó là cai trị bằng
luật. Tôi cũng không đồng ý với tác giả Nguyễn Đăng Dung trong việc diễn giải khái
niệm nhân trị để nhấn mạnh sự khác biệt với khái niệm pháp trị cũng như việc khẳng
định người khởi xướng thuyết pháp trị là Hàn Phi Tử vì thực tế thuyết này đã hình
thành và phát triển và nhiều giai đoạn bởi các triết gia như Quản Trọng, Thận Đáo,
Thân Bất Hại, Thương Ưởng… và Hàn Phi Tử là người hoàn thiện nó trong lịch sử tư
tưởng chính trị cổ đại Trung Quốc (5)
.
Như vậy, pháp quyền và pháp trị là hai thứ khác nhau. Và để làm sang tỏ sự khác nhau
này, tôi xin đi sâu phân tích một số tiêu chí để phân biệt khái niệm pháp quyền và pháp
trị về cả lí luận lẫn thực tiễn.

Cụ thể là:
Thứ nhất, về mục đích sử dụng pháp luật. Trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử cũng
như những triết gia khác, pháp luật được sử dụng nhằm củng cố quyền lực chuyên chế,
tăng cường sự chuyên quyền cho giai cấp thống trị, cho những “người nhà nước” (là
vua (King hay Queen) trong chế độ quân chủ và là kẻ đứng đầu nhánh hành pháp trong
các mô hình Nhà nước hiện đại). Các bộ luật tiêu biểu của lịch sử lập pháp cổ đại như
Hammurabi (Babylone), Bộ sưu tập luật La Mã có tên Corpus Iuris Civilis,.. hoặc thậm
chí đến bộ luật Hồng Đức ở thời kì phong kiến Việt Nam với các chế tài hà khắc cũng
không nằm ngoài mục đích này. Còn trong thuyết pháp quyền, pháp luật sử dụng nhằm
mục đích hạn chế quyền lực chuyên chế, nhằm hạn chế đến mức tối đa sự lạm quyền
của kẻ cầm quyền, nó là sự ràng buộc và là giới hạn của quyền lực. Có lẽ ứng dụng
quan trọng nhất của pháp quyền là nguyên tắc rằng chính quyền chỉ thực thi quyền hành
một cách hợp pháp theo các luật được soạn thảo ra và phát hành rộng rãi. Những luật đó
được thông qua và thực thi theo đúng các bước được gọi là thủ tục pháp lý. Nguyên tắc
này nhằm mục đích ngăn ngừa sự cai trị độc đoán dù cho đó là lãnh đạo chuyên quyền
hay quần chúng lãnh đạo. Chính vì vậy, pháp quyền chống lại cả chế độ độc tài lẫn tình
trạng vô chính phủ. Samuel Rutherford là một trong những tác giả đương đại đưa ra
nguyên tắc đó những nền tảng lý thuyết trong cuốn Lex, Rex (1644), và sau này là
Montesquieu trong cuốn Tinh thần Pháp luật xuất bản năm 1748. Ở Châu Âu đại lục và
tư tưởng pháp lý, pháp quyền thường, nhưng không phải luôn luôn, có liên hệ với
Rechtsstaat (Nhà nước pháp quyền – Đức). Theo tư tưởng những người Châu Mỹ
Anglo, pháp quyền có quan hệ mật thiết với tam quyền phân lập, tính chắc chắn của
pháp lý, nguyên tắc ước muốn hợp pháp và bình đẳng của mọi người trước pháp luật (6)

Thứ hai, về vị trí_vai trò, sự tác động qua lại trong mối tương quan giữa pháp luật và
nhà nước. Trong nhà nước pháp trị, pháp luật chính là phương tiện để giai cấp thống trị
áp đặt tư tưởng, ý chí của mình lên toàn xã hội, là thứ dùng để cai trị và quản lí xã hội.
Lúc này tính giai cấp của pháp luật thể hiện rõ rệt nhất bởi vì nó là sản phẩm của riêng
giai cấp cầm quyền và chỉ đơn thuần là công cụ phục vụ cho việc duy trì và củng cố
quyền lực của kẻ tạo ra nó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân
phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước
có đông dân bao nhiêu thì vẫn “trị quốc bình thiên hạ” được. Học thuyết chính trị của
Pháp gia đã được Tần Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công
trong việc thống nhất được đất nước Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc
liệt (7). Còn trong tư tưởng về pháp quyền, nhìn chung theo nhiều quan điểm, pháp luật là
công cụ để chế ngự quyền lực, là thứ hạn chế và kiểm soát quyền lực, theo cách này thì
vô tình ta có thể ngầm hiểu có một chủ thể khác có khả năng sử dụng công cụ pháp luật
để kiểm soát quyền lực trong xã hội. Như vậy thì ranh giới của pháp quyền và pháp trị
trở nên mong manh vì vai trò xã hội của pháp luật nhìn chung cũng chỉ là một công cụ
để “kẻ” nào nắm giữ pháp luật thì có thể dùng nó để tịnh tiến quyền lực từ cực kia đến
cực nọ trong hệ quy chiếu nào đó mà thôi. Và, theo đó, ta không thể thấy được sự cân
bằng giữa 3 yếu tố: pháp luật-nhà nước-nhân dân để hoàn thiện hơn khái niệm nhà nước
pháp quyền. Vì thế, theo quan điểm cá nhân của tôi pháp luật trong trường hợp này nó
không chỉ dừng lại với vai trò là công cụ tiết chế quyền lực mà nó còn là một dạng
“chủ thể đặc biệt” cho mục đích hạn chế lạm quyền, kiểm soát quyền lực. Lúc này,
pháp luật phát huy tối đa tính xã hội khi không còn là sản phẩm ý chí của riêng cá nhân
hay giai tầng nào mà nó trở thành chuẩn mực chung cho mọi hoạt động vận hành nhà
nước, xã hội, xuất phát từ nhu cầu chung của mọi công dân trong nhà nước về dân
quyền, dân chủ; nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật và cùng với người dân trở thành
đối tượng tác động của pháp luật, đồng thời nhà nước cũng làm nhiệm vụ đảm bảo cho
pháp luật được vận hành triệt để trong xã hội; người dân vừa lấy pháp luật làm công cụ
kiểm soát quyền lực nhà nước, vừa chịu sự quản lí của nhà nước theo tinh thần của
pháp luật (chứ không phải theo ý chí của nhà nước như trong nhà nước pháp trị). Có
như vậy thì mới có thể xây dựng cách tiếp cận đồng nhất cho ba quan điểm về pháp
quyền đại diện cho ba hệ thống chính trị lớn nhất ở châu Âu: Rechtsstaat của Đức, Etat
de droit của Pháp, Rule of law của Anh.
Thứ ba, về nội dung và tính chất của pháp luật. Ngay từ thời trung cổ, đại diện tiêu biểu
của Pháp gia là Hàn Phi đã xác định: nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề cao
vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Với tác phẩm
Hàn Phi Tử, Hàn Phi đã chính thức khai sinh học thuyết pháp trị của phương Đông,
đồng thời đưa ra lời giải cho bài toán lịch sử hóc búa. Hàn Phi đã kết hợp các yếu tố
“thuật”, “thế”, “pháp” của Thân Bất Hại, Thận Đáo, Thương Ưởng, hoàn thiện tư tưởng
pháp trị của các bậc tiền bối đã khai sinh ra nó là Quản Trọng và Tử Sản để xây dựng
thành học thuyết chính trị độc lập.Nội dung cốt lõi của học thuyết pháp trị là đề cao
pháp luật với tư cách là công cụ quan trọng nhất, hữu hiệu nhất trong việc bình ổn xã
hội. “Cái làm cho trị an là pháp luật, cái gây ra loạn là sự riêng tư. Pháp luật đã thiết
lập rồi thì không ai có thể làm điều riêng tư được nữa” (8)
Như vậy, bản chất của pháp luật trong nhà nước pháp trị là hà khắc và gần như chỉ thể hiện được tính giai cấp của
nó nhằm phục vụ tuyệt đối cho sự chuyên quyền. Còn trong mô hình nhà nước pháp
quyền mà các học giả xây dựng, tiêu biểu là mô hình nhà nước pháp quyền trên cơ sở
biện chứng của Heghen thì trước hết phải là một Nhà nước hợp lý, chỉ có thể được hình
thành trong xã hội hiện đại (khi đã có xã hội công dân). Luật pháp của Nhà nước pháp
quyền nghiễm nhiên được đề cao, không cẩn bất cứ một áp lực nào, vì nó là sản phẩm
của một Nhà nước hợp lý. Sự đề cao pháp luật chỉ là hệ quả chứ không phải là tiền đề
của Nhà nước pháp quyền (9). Theo đó nội dung của pháp quyền là pháp luật tối thượng
với bản chất dân chủ và nhân quyền, pháp luật tối cao là pháp luật đảm bảo cho hết thảy
các quyền của mọi công dân. Tính xã hội của pháp luật trong nhà nước pháp quyền
cũng nhờ đó mà bộc lộc rõ rệt. Và cũng chính bởi lẽ này mà pháp luật trong nhà nước
pháp quyền đòi hỏi sự hoàn thiện gần như tuyệt đối của một đội ngũ xây dựng và bảo
vệ pháp luật với trình độ lập pháp cao.
Từ những phân tích trên ta có thể thấy được những khác biệt cơ bản, thậm chí là trái
ngược của khái niệm pháp trị và pháp quyền. Tuy vậy, vẫn có thể nhận ra điểm chung
giữa chúng là sự đề cao pháp luật. Chính sự giống nhau này có thể đem lại rủi ro khi
tiến đến xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền là làm mô hình ban đầu thành một
biến thể nguy hiểm: nhà nước pháp trị, nếu không xác định rõ ngay từ đầu và kiên định
mục tiêu sử dụng pháp luật, những yêu cầu về vai trò, bản chất và nội dung của pháp
luật trong nhà nước pháp quyền.

1 Nguyễn Sĩ Dũng, Thế sự và một góc nhìn, Nxb Trẻ, Tp.HCM, 2007, tr.46
2 Nguyễn Đăng Dung, Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền, Nxb Đà Nẵng, ĐN, 2008, tr.18
3 Nguyễn Văn Thảo, Xây dựng nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006,
tr.10

4 Xem: Nguyễn Đăng Dung, Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền, Nxb Đà Nẵng, ĐN, 2008, tr19
5 http://www.e-thuvien.com/forums/showthread.php?p=129026
6 http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p_quy%E1%BB%81n
7 http://www.e-thuvien.com/forums/showthread.php?p=129026
8 http://www.sachhay.com/book/201008052062/han-phi-tu.aspx
9 http://doangia.vn/index.php?mod=article&cat=nghiencuuphapluat&article=258

Nguồn: http://text.123doc.org/document/279232-so-sanh-khai-niem-phap-tri-voi-phap-quyen.htm

Xin mời bạn đọc tham gia trao đổi với “Từ điển tiếng Việt mở” qua email: nhavandoclap@gmail.com hoặc ndtm42@gmail.com

 

Comments are closed.