Võ Phiến
Võ Phiến bảo trong tâm hồn một số văn thi nhân Bình Ðịnh có nét “u huyền” khó hiểu. Ông “mời họ ra cho ai nấy thử tìm hiểu”. “Họ” đều đã nổi tiếng, trừ một người, người trẻ nhất. Vì trẻ, người ấy thuộc vào “Văn Học Miền Nam”. Ðây lời mời nhà thơ Võ Chân Cửu (theo gocnhin.net)
Bài trích từ Văn học Miền Nam, Tập IV – Thơ (trang 3167-3171) NXB Văn Học, California 1998:
Hoài Thanh nhân đọc Yến Lan nhận thấy các nhà thơ Bình Ðịnh (Yến Lan là người Bình Ðịnh) thường bị vầng trăng ám ảnh. “Ai đổi đầu lâu trong nấm mộ, Tiếng khu vang rạn khới đầu ta? Có ai rên rỉ ngoài thôn lạnh Như tiếng xương người rên rỉ khô? Mơ rồi! Mơ rồi! ta mơ rồi! Xào xạc chỉ có lá vàng rơi Quanh mình bóng tối mênh mang cả Thấp thoáng đôi hồi lửa đóm soi.” (Mơ Trăng – Chế Lan Viên) Ông Lại Nguyên Ân chẳng hạn, nhân bàn về Hàn Mặc Tử, ông luận luôn đến khí chất người miền Trung. Theo ông, người Việt miền Trung thì “khắc nghiệt, riết róng, quyết liệt, táo bạo, cực đoan”, thì “sôi máu, táo tợn, liều lĩnh” hơn người Việt ở cả ngoài Bắc lẫn trong Nam. Tiếng nói ở miền Bắc (kể từ ngữ âm đến từ vựng, ngữ pháp) vốn sáng và rõ. Tiếng nói miền Trung thì tối và đục, hoang dã; nó “chuyển” tải những cảm quan điên dại, siêu thực tế của con người trong những dò tìm về những cõi hư huyền, vô hình, vô ảnh trong những diễn tả về thế giới âm u”. Ngôn ngữ như thế, tuồng hát cũng thế. Ngoài Bắc có chèo, ở Trung có tuồng. Ở chèo không có gươm có giáo, không có giặc giã, chính biến; trên sân khấu chèo toàn giọng nhẹ nhàng, đằm thắm, trong trẻo. Trái lại ở tuồng (hát bộ) thường có gào có thét, có giết chóc dữ dằn, rộn rịp đầy những hùng binh dũng tướng. Do khí chất mà khác nhau cả (1) . Đồng bào ngoài Bắc cũng như trong Nam thường xem như trên giải đất từ Thanh Hóa vào Phan Thiết mọi sự chung chung là giống nhau; giọng Huế là giọng miền Trung; ông Ngô Đình Nhu là cái thâm hiểm của miền Trung, v.v.. Thực ra, suốt giải đất dài ngoằng, quá dài ấy, có nhiều dị biệt: giọng nói Nghệ Tĩnh không hề giống giọng Phan Rang Phan Rí, tính người Nam Ngãi khác hẳn tính người Trị Thiên; cha đàng ngoài, mẹ đàng trong của Xuân Diệu, mặc dù đều là người Việt miền trung cả, vẫn khác nhau rõ rệt, v.v.. Cho đến nay, khó mà biết được thực ra những cái gì là đặc điểm chung cho các thể hiện tâm hồn của người miền Trung. Những điều mà ông Lại Nguyên Ân vừa nói, đại khái là chỉ hợp cho một vùng Bình Định thôi: Tuồng (hát bộ) gốc Bình Định, Hàn Mặc Tử và bạn bè trong nhóm ông hầu hết là Bình Định. Tất nhiên tôi không muồn giành giật với các tỉnh khác, không muốn vơ vào cho Bình Định làm gì tất cả những cái “sôi máu”, “táo tợn”, và “hoang dã”, và ối trời! cái “điên dại nữa. Làm như thế chỉ e bị bà con đồng tỉnh trách giận thôi, ích gì? Chẳng qua phần ai nấy gánh. Võ Chân Cửu đã gánh đủ.
(1) Lại Nguyên Ấn – “Khí chất người miền Trung và nhà thơ Hàn Mặc Tử”, tạp chí Văn Học, Hà Nội, số 1 tháng 12-1991. |
VÔ TÌNH
Nàng đội nón cời
Đi về phương bắc
Thẳng đứng mặt trời
Soi không thấy mặt.
SÁNG THINH KHÔNG
Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai cõi trời im, một vùng biển cạn
Một con đường đèo sương đục lô nhô
Một chiếc hồn ma quẩn quanh vạn cổ.
Đường im hoa cỏ ngủ mê say
Cửa mở ban mai đợi nắng ngày
Nàng đi đất khép mưa năm cũ
Hơi hàn thiên cổ chực trên mây
Nghìn năm, sao chưa về cố xứ
Quanh quẩn trần gian mặt đất này
Bước xuống, ba bề mưa gió tụ
Nàng ôm tro bụi kín hai tay.
Sáng thinh không, sáng chói một vùng
Cung đàn xưa cũ phím ai rung
Sáng mênh mang hai bờ cỏ khóc
Lệ nàng tôi biết giữa thanh xuân.
Sáng thinh không, sáng chói một vùng
Mái đầu nhuốm bạc cúi soi chung
Nghìn năm thiên địa chia đôi ngả
Khoảnh khắc phù du lửa bập bùng.
Nghìn năm đâu nát cánh phù dung
Đứng lặng sông xuôi nước lạnh lùng
Một chiếc thuyền con lơ lửng mái
Sáo trời, cánh nhạn đã về đông.
Sáng thinh không, sáng dưới chân nàng
Trong lòng vạn đại đã tan hoang
U minh rờn rợn lên vai tóc
Bóng tà vạn thuở mới bay ngang.
Sáng thinh không, sáng lặng ngát hương
Êm ả trần gian chợ phố phường
Một bàn tay vẫy trên non tuyết
Một tiếng cười vang cả bốn phương.
Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai cõi trời im, một vùng biển cạn
Một chiếc hồn đơn mấy bè mây nổi
Hai con ngựa trắng một chiếc xe tang.
Nghe kia mây kéo trên hè phố
Những dấu sao đi với gót người
Vòng hoa trắng đã lên sắc đỏ
Hồn ai mới nhập đóa hồng tươi
Hay là máu của thiên thu trước
Soi bóng nàng đi rước lễ đời
A ha ta sống thêm lần nữa
Ném giày lững thững bóng trăng chơi
Nghìn năm dâu bể bao nhiêu đợt
Rớt xuống hang sâu cũng lại trời
A ha chén rượu nồng ai rót
Sao mà ta uống mãi không vơi
Gió ơi thêm lửa cho nàng đốt
Vàng tro rớt xuống sẽ cùng soi.
Nàng ơi, ngày xuống tắm bên hoa
Sáng linh thiêng ước cõi ta-bà
Dưới nấm mồ sâu, luồng khí lạnh
Đất trời quay lại cả bên ta.
Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai con ngựa trắng, một chiếc xe tang
Đất lành gió phủ mây trong mát
Vạn cổ nghe chăng, dưới gót nàng.
NGƯỜI ANH ĐIÊN
Tôi gặp lại người anh
Cụm mây bay buổi sớm
Hoa tàn cuối đêm thanh
Bao nhiêu người lẩn trốn
Tôi đứng vin mái nhà
Côn trùng chết đêm qua
Đất vi vu điệu nhạc
Ngó lên trời bao la
Tôi gặp lại người anh
Bỏ nhà đi bữa trước
Người anh tôi hóa thành
Sương bình minh đổ trút
Bình minh sương bình minh
Ngang mái nhà thâm thấp
Giữa khi tôi ngã sấp
Đỡ tôi người em anh.
BÀI CA TÚP LỀU
Tặng Huỳnh Hữu Hạnh
Nhà ta xưa dại bán gỡ tôn
Về lại phố dựng túp lều mái lá
Ai hỏi đến cũng dễ tìm em ạ
Nhà ta ngay đường xe lửa – mặt tiền
Đêm dầm dề cơn mưa dột triền miên
Anh chống mái che cho con khỏi ướt
Máng xối rách cũng hứng đầy lu nước
Nơi em thèm viên gạch đứng rửa chân
Nửa đời người lỡ đeo mộng vào thân
Nay gió núi mây trời thôi lỗi hẹn
Đêm thức dậy vẫn không ngừng xao xuyến
Tiếng còi tàu thúc giục nỗi vu vơ.
Nơi túp lều ta sống trọn bài ca
Kẻ nối khố đắc thời nay ngoảnh mặt
Bạn hành khất chiều mang đờn đến hát
Giở nắp vung chia chén gạo vơi đầy.
Dựng túp lều ta còn đủ hai tay
Điều may mắn đâu dễ gì có được
Cũng có lúc anh mơ mình chức tước
Để thẹn thùng giấu mặt tựa vai em.
Nơi túp lều ta đã sống bình yên
Muối dưa cải đùa câu: sông có lúc
Niềm ảo diệu chỉ mình em hay được
Khi gió lùa vách trống dội lòng thơ.
ĐÊM CÀ MAU
Tưởng tượng có người nhận ra anh
Giữa một chốn ồn ào xa lạ
Lời hoa mỹ giăng màn đêm óng ả
Vẫn không ngăn gió cuốn trước tia nhìn
Có nghĩa là – như hiển hiện trong đêm
“Anh có phải…” lời bên tai thầm thĩ
Đêm trần trụi như không hề che đậy
Trái tim ta như sống dậy …lâu rồi
Tôi đã đi nơi cuối đất cùng trời
Để tìm gặp – tưởng chừng như có thể
Một tiếng gọi vang lên trong lặng lẽ
Một nét nhìn như tự cõi hư vô
Em là ai – tôi không biết từ đâu
Một thoáng hiện rồi đi, tan biến mãi
Cho trĩu nặng lòng tôi khi nhớ lại
Đêm Cà Mau đêm Cà Mau đêm rất lâu.
CHUYỆN CŨ
Ta đợi em về trong gió
Bao nhiêu ông sao đã tàn
Chuyện cũ ngày xưa không có
Mà nay lạnh lẽo mênh mang
Khi theo trăng vào bóng núi
Quên đi chuyện cõi ba ngàn
Chuyện cũ giờ đây ai nói
Để trời đất hiện sương tan
CHUYỆN HÃO
Nằm kể bao đêm chuyện hão
Nghe trăng xuống nước khua đò
Khuya khoắt sương về ướt áo
Cùng em chung bóng trăng mờ
Ôi ngàn năm xưa chẳng có
Mây còn phiêu phưởng vu vơ
Mộng ba ngàn đêm cỡi gió
Ta về đây giữa ban sơ
KHÔNG ĐỀ
Tiếng quàu quàu thành phố tai ương
Xe chở tù rồi xe cứu thương
Trăng gầy như dáng thu năm trước
Muối xát dồn lên nửa đáy hồn
CHIỀU
Chiều nay lại nhớ thương người
Còn không lọn tóc chẻ đôi xuống cằm
Đã từng ôm mộng xa xăm
Người ơi sao chẳng lại cầm tay nhau
Nếu tin có phép nhiệm màu
Rằng em sẽ bước lên cầu nhớ thương
Con chim khản giọng bên cồn…
HOA MÓNG CỌP
Chiều tím hoa móng cọp
Tiền kiếp nào hóa thân
Mắt xanh ngày mới chớp
Đêm xa đã về gần
Chiều tím hoa tia chớp
Anh tìm em. Âm thầm
NHẬT KÝ
Những lưng áo in dòng “Love is blind”
Cho anh hỏi: tình yêu sao mù quáng
Trời bữa ấy mây trôi thanh thản
Sao nét nhìn như nứt rạng vầng trăng
Qua lối xưa ta đến cõi thường hằng
*
Những cô gái ngồi xe để chân trần
Ai nỡ hỏi: bao giờ cô giẫm lại ?
Chén trà nóng trong chiều sương ấm mãi
Nơi phố phường tia suối vọng về ngân
DÚ
Mãng cầu gai dú nước
Nhành mai hơ lửa vàng
Mảnh tình anh cô độc
Dú trong lòng thời gian
Ở ĐẠI LÀO
Anh tìm em trong hư vô
Gió tắt màn hình khua nhẹ
Cát soi thêm màu nước khẽ
Ngân nga trăng chửa xuồng hồ
Anh tìm em trong hư vô
Sao như sương chẳng sang bờ
MỒ HOANG – ĐÁ VỤN
Ngoài quê tôi có đụn đá vun vuông
Nằm mấp mé lưng đèo qua bãi Sậy
Thuở còn nhỏ tôi từng nghe kể lại
Tại nơi này có một nấm mồ hoang
Người qua đường quen gọi: “mả ông Năm”
Lão hành khất không biết từ đâu tới
Biển tung bọt xô gành chao bụng đói
Lão lăn ra trút hơi thở cuối cùng
Hai bên đèo đều không biết tên ông
Nên cứ gọi tên “Năm” cho dễ nhớ
“Năm” là năm cả làng vào “tiêu thổ”
Thiếu cơm ăn, trẻ nhỏ phải ở truồng
Đã chôn ông như chất đá lên vồng
Người qua đó lại quăng thêm hòn cuội
Ai thành tâm. dừng. lâm râm khấn vái
Thì ông Năm sẽ phù hộ vận may
Ông Năm ơi nằm lại ở nơi này
Chắc ông thấu lòng người dân xứ Vũng
Tiên tổ vốn người tám phương tứ hướng
Tìm tụ về nơi hiểm hóc sinh nhai
Dựa núi Bà, ôm biển, chẳng cần ai
Quan ăn lớn, sá gì nơi hẻo hút
Băng vượt đèo còn phải lo gấu, cọp
Mưa trắng đồng thì lấy củ thay cơm
Cứ yên bình như đẻ cái sinh con
Như cu đá, cá trừng… tre uốn gió
Không vớ vẩn chuyện có không, không có
Mỗi hòn đá, gốc cây cũng có một linh hồn…
Ông Năm chắc cũng tự một miền đói khát
Lại đến đây hứng thêm cảnh não nùng!
Của để dành dân phải nộp sung công
Trai lớn lên bị lùa theo hai ngã
Kỳ diệu là mặc bom rơi, trái phá
Đống đá hoang vẫn lưu dấu trên đèo
Tới cái ngày thôi súng đạn, suối trong veo
Mồ vô chủ tưởng cùng người thanh thản
Nhưng giờ lại có dân lén tìm ra biển vắng
Từ bục gành theo dốc mả ông Năm
Lầm lũi ôm, xếp từng viên đá lớn
Tạo nên cầu nối ra chiếc thuyền con
Nhổ neo lên, kể chi chuyện sống còn
Ngoảnh lại Vũng, cầu ông Năm phù hộ
Nghe nói có khá nhiều người xấu số
Gặp muôn trùng sóng dữ, chẳng tăm hơi
Mả ông Năm vẫn cô quạnh một mình
Và vẫn đón thêm những hòn đá vụn
Mỗi viên giờ chất chứa một sinh linh
VỀ RẪY
Sầu riêng rụng trái mùa
Ủ hoài hương vẫn nhạt
Em đi lấy chồng xa.
BÊN DÒNG COLUMBIA
Cho ta quẳng tất cả những gì khinh ghét căm giận tủi hờn mưu mô xảo quyệt xuống lòng ngươi.
Ơi dòng sông chảy xiết.
Đã qua bao thác ghềnh,
Ta biết người còn uốn khúc thong dong
Trước khi về với biển
Nơi cửa đập đã chặn dòng, vẫn dành một bên làm cửa cho cá bơi lên
Những xẻo lầy
thong dong mùa đẻ trứng
Một mẩu giấy vo tròn cũng không ném xuống dòng sông
Những thiếu nữ bỏ giày đi tìm bụi hoa tươi đứng chụp hình
Những đám cỏ khuất sau lùm không dấu dao mà vẫn phẳng
Êm mượt như thời gian
Không nghe lời rao giảng trước những tượng đồng
Cuộc chiến tranh đi qua không ai muốn nhắc
Kẻ chiến thắng và người bại trận
Đều thả hồn ngây ngất trước dòng sông
*
Ta đến từ một xứ sở phương đông
Những họng súng biến hình những tượng đài chiến thắng
Những mơ ước trong đầu đều trở thành hoang tưởng
Những cặp mắt soi dò từng nhánh rễ trong tim
Mốt mai kia muốn tới cửa thiên đường
Hãy ném hết vào sông những gì dơ bẩn nhất
Ũi lấy nốt những rễ bàng rễ cọc
Sức người vắt đất ra làm nước
Không xếp hàng đâu thể đứng khoan thai
Những dòng chảy đen điu tan mọi kiếp hình hài
Sông hứng trọn cho đất ngầm lên tiếng:
Sông Tranh
*
Cho ta ném vào sông bóng dáng của riêng mình
Xin cất giữ
có ngày ta trở lại…
THƠ VIẾT TRÊN ĐẤT MỸ
Westminster
Vậy là em không hẹn
Như chưa từng thấy anh
Cây cọ dầu đứng lặng
Bông hải đường nín thinh
Tách trà đêm hoa huệ
Cho ta gọi riêng mình
Westminter tịch mịch
Kia màn sương lung linh
Vầng trăng đêm mười một
Đi mãi chưa thấy hình
Đêm Bờ Tây
Ở đây trăng là sương
Không như trời Bảo Lộc
Bóng núi in mặt đường
Biển gầm khua lộc cộc
Một mình anh chảy dọc
Xe quét ánh đèn xa
Trán em in sợi tóc
Vuốt mãi chắc không nhòa
Las Vegas
Đường xuống Las Vegas
Trăng lặn giữa ban ngày
Xương rồng nhắc hoang mạc
Phố dựng khum lòng tay
Xưa ai đi đãi vàng
Coi đời như canh bạc
Nay có kẻ tha hương
Không nhận mình “homeless” *
Vui thôi, đừng bắt chước
Nhưng tránh khỏi nơi nào ?
Trông kỳ quan lộn ngược
Sao mắt mình đỏ au.