Sinh 27 tháng 2 năm 1917 tại Hà Nội, mất 12 tháng 9 năm 1986 tại Minnesota, Hoa Kỳ
Ông sinh tại Hà Nội, theo học trường Bưởi, nhập học trường Y khoa nhưng rồi đổi sang Cao đẳng Canh nông. Ông tốt nghiệp kỹ sư canh nông sau chuyển sang văn học và lịch sử, dạy học ở trường trung học Chu Văn An.
Sau năm 1954 ông di cư vào Nam. Ông đóng góp cho các báo Tự do, Quan điểm rồi chủ nhiệm nguyệt san Vấn đề. Ông là giám đốc kịch nghệ ở Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ ở Sài Gòn.
Ông tỵ nạn sang Mỹ năm 1975, định cư ở Minnesota nơi ông dạy Pháp văn ở đại học Minnesota rồi mất tại đó. Trong thời gian tại Mỹ ông thành lập Hội Phật giáo Việt Nam ở Minnesota.
Tác phẩm
· Thần tháp Rùa (1957)
· Ngộ nhận
· Nhập Thiên thai
· Những người không chịu chết (1972) – kịch nói
· Người đẹp trong tranh
· Trương Chi – truyện ngắn
· Ga xép – kịch nói
· Hậu trường – kịch nói
· Lộng ngôn – kịch nói
· Thằng Cuội ngồi gốc cây đa – kịch nói (1948)
· Thành Cát Tư Hãn – kịch nói (1961)
· Giao thừa – kịch nói (1949)
· Giấc mơ Hương Cảng – tùy bút (1971)
· Đoản văn xa nước (1995)
· Tìm hiểu sân khấu chèo – khảo cứu
· Đọc kinh (1990)
Nguồn: Wikipedia
ĐỌC KINH
Như lai vô sở thuyết
I
1984.
Tuyết rơi từ vào khuya, mặt trời vừa mọc, tuyết đã ngập trắng vườn sau. Tôi đẩy thêm một khúc củi vào lò. Nhìn lửa bốc ngọn, nhớ lại mấy vần thơ cũ đã quên mất cả nguyên văn:
Chàng như mây mùa thu
Thiếp như khói trong lò.
Cao thấp tuy có khác
Một thả cũng tuyệt mù
Đọc lại bài thơ. Rất nhỏ, từng chữ, từng vần. Rất nhỏ, đủ để một mình mình nghe. Cho đến khi lời thơ tan rã, ý thơ nhạt nhòa, cho đến khi trong tôi, về bài thơ, rớt lại chỉ còn một chút buâng khuâng không tên thì tôi lặng thinh đi vào cái buâng khuâng đó. Quanh một chữ Tuyệt mù. Nghĩ đến một cánh chim thoáng trên mặt nước. Bóng chim, nước không lưu giữ. Chim đâu để lại đường bay? Khói mây tan tác. Âm thanh, màu sắc cũng vậy. Cũng vậy, thiếp và chàng. Tất cả, một thả cũng tuyệt mù. Kể cả chữ và lời. Kinh và Kệ.
*
Tôi hiểu tại sao những người lớn của nhân loại từ cổ thảy đều chỉ muốn nín thinh. Khổng Khưu, Lão Đam và Thích Ca Mâu Ni. Trời không nói, ta đâu muốn nói? Ta đâu có thuyết lời nào? Cái ta muốn nói, cái đó, đâu có thể nói được? Cái đó, bất khả thuyết, bất khả tư nghì. Bất khả đạo.
Nói ra là bị kẹt
Nhưng rồi Khổng Khưu vẫn nói, cả đời. Lão Đam thì nói đến 5.000 chữ Đạo đức kinh và Thích Ca Mâu Ni trong suốt 49 năm hoằng pháp, nguyên lời Đại Bát Nhã, đã nói ròng rã tới 22 năm.
Không nói cũng không xong.
*
Nói ra là bị kẹt
Không nói cũng không xong
Hai câu đầu một bài kệ của một thiền sư Việt Nam sống giữa thế kỷ thứ 17, thiền sư Chân Nguyên. Hai câu kệ, một thế đứng chênh vênh giữa hai ngả hữu vô. Nói hay không nói? Chung cuộc, bài kệ đành phải chấm dứt bằng một nét chấm phá lửng lơ:
Vì anh đưa một nét
Đầu núi ánh dương hồng
Tôi duỗi thẳng chân, ngước mắt nhìn nắng sớm xuyên qua miếng băng bám nơi khung cửa, ánh nắng lung linh màu sắc cầu vồng. Tự hỏi nắng sớm đích thực màu gì? Xanh hay đỏ, tím hay vàng, hay là do tất cả màu sắc gặp gỡ mà thành? Nhưng có cuộc gặp gỡ nào kéo dài mãi mãi? Ánh dương đầu núi đâu giữ mãi màu hồng? Cái thế chênh vênh giữa hữu và vô đâu có thể đời đời tồn tại? Cái khó là nhập vào cái thế đó, không thỏa hiệp, mà vươn lên, và vượt qua. Từ cái phức tạp tìm về cái đơn thuần, tìm về cho tới cái khuôn mặt của chính mình khi mình chưa sinh, chưa thành. Ánh dương hồng khi chưa nhô lên khỏi đầu núi. Cái xôn xao nhú lên trong đêm sắp tàn. Cái đó.
Ngoài vườn tuyết rơi trắng và lạnh trong im sựng của trời và đất. Trong lò củi nổ ròn tan, ngọn lửa thấp cao ấm màu hổ phách. Ngoài kia, vắng lặng. Trong tôi… vẫn chưa vắng lặng. Trong tôi, tôi vẫn thấy rằng…chưa ổn. Đẩy thêm củi vào lò. Củi gỗ cây phong phơi nỏ từ vào thu, lửa như bốc ngọn từ lòng gỗ. Mộc trung sinh hỏa. Mộc tận hỏa hoàn diệt. Lửa sinh trong lòng gỗ. Gỗ hết lửa không còn. Lửa không còn, nghĩa là… sao? Lửa sẽ biến thái tuy vẫn tồn tại hay cũng như khói và mây, lửa sẽ trở về, sẽ đi vào lòng cái đó, tuyệt mù?
*
Cái đó, cái mà cho đến hôm nay, chưa một vị thiện-trí-thức, chưa một vị bồ-tát nào mô tả được hình tướng, xác định được thể chất, cái đó có thể giản dị như mưa và nắng hiện hữu rất tự nhiên – mặt trời lại mọc lúc đêm tàn – nhưng cũng lại có thể vô cùng phức tạp, ẩn hiện vô lường, với vô lượng danh hiệu, mỗi danh hiệu là một khía cạnh đặc thù, Chân Tâm, Diệu Tâm, Minh Tâm, Bồ Đề Tâm, Giác Tánh, Chân Như, Phật Tánh, Pháp Giới Tánh, Không Tánh, Như Lai Tạng Tánh, Bát Nhã… cái tột không, cái diệu sắc, cái bất- khả-tư-nghì, cái rốt ráo cuối cùng… riêng với tôi, từ bỏ nước ra đi, những nửa khuya tỉnh giấc, cái đó –chính nó- đôi khi vẫn thấp thoáng trong tôi, hóa trang thành những lời tra vấn trớ trêu, nhưng tại sao ray rứt, lãng đãng quanh tôi, tưởng như dễ dàng nắm bắt, bỗng lại xa vời, nhòa dần, biến hẳn, tuyệt mù. Trong đêm đen mạt pháp, còn lại chỉ là những vết tích mờ mờ ghi lại trong kinh và kệ. Những vết tích như những dấu chỉ đường. Vô lượng nẻo đường, vô lượng phương tiện, tùy theo căn cơ của từng chúng sinh trong vô lượng chúng sinh, tùy theo từng cõi pháp trong hằng-hà-sa-số cõi pháp. Nhưng cứu cánh chỉ là một. Cái đó.
Dõi theo cái đó “có cõi lấy ánh sáng của Phật làm phương tiện nói pháp, có cõi lấy Bồ Tát làm phương tiện nói pháp, có cõi lấy bóng mát cây Bồ Đề làm phương tiện nói pháp, có cõi lấy hư không để nói pháp, có cõi lấy lời và chữ để mà nói pháp…”
Tôi đặt cuốn Duy Ma Cật xuống bên lò sưởi, nhồi thuốc vào tẩu, hít hơi thuốc đầu trong ngày. Hơi thuốc thơm tỏa ấm gian phòng. Bất giác tôi nghĩ đến một mùi hương lạ. Một mùi hương như một phương tiện nói pháp. Mùi hương cõi nước Chúng Hương. Trở lại cuốn kinh: “Qua khỏi 42 số cát sông Hằng cõi Phật, có nước tên là Chúng Hương, đức Phật thị hiện nơi đó là Phật Hương Tích. Mùi hương nước đó so với mùi hương cõi trời, cõi người và các cõi Phật ở 10 phương, nó thơm hơn hết. Đức Phật Hương Tích lấy mùi làm phương tiện để nói pháp. Chúng sinh cõi nước Chúng Hương nghe mùi hương mà ngộ đạo.”
Tôi hít dài một hơi thuốc. Đầy phổi. Hơi thuốc nghe như có pha trộn nhiều mùi hương cũ tôi tưởng đã phai, đã tuyệt mù. Mùi úa hoa ngọc lan, mùi ấm hoa hồng, mùi ngái hoa cau, mùi đạm hoa sói, hoa ngâu, mùi đắng hoa sấu nắng hè tháng sáu, mùi nồng hương đêm dạ lý. Và mùi ngát của nhang.
*
Ráng chiều miền đồi Bắc Việt đổ rộng một nền gạch Bát Tràng. Gốc cau, gốc đại, ngọn cỏ kẽ tường, cánh hoa bèo tím ngát bờ ao, tất cả lóe lên trong nắng muộn, tan vào mùi ngát của khói nhang. Nắng nhạt rồi tắt ngấm. Đất lẫn với trời. Tự bàng bạc sương khói dâng lên, một cõi pháp thành hình, chúng sinh mộc mạc hiền lành chỉ có một phật hiệu để làm phật sự. Vọng ra tự đó – mái chùa cong vát chữ đao, cổng tam quan thềm đá nhẵn lì – không phải là những ngôn từ hiểm trở Lăng-Già, Bát-Nhã, Pháp-Hoa hay Viên-Giác, mà chỉ phật hiệu đó, mà chỉ A-Di-Đà-Phật, Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật. Có thế thôi, mỗi chiều ngày xưa Việt Nam. Có thế thôi, nhưng mỗi chiều, bình thản vẫn trở về trên vầng trán hai sương một nắng những bà mẹ Việt Nam. Nén nhang đốt lên, khói nhang vẫn vươn cao và thẳng tắp. Như mây mùa thu, vẫn tuyệt mù. Như đã thuộc nằm lòng con đường trở về nơi đó, nơi mà kinh và kệ từ xưa vẫn hằng hướng tới. Nơi đó, tắt lời. Cõi đó rốt ráo vô ngôn, vắng lặng, lấy hư không mà làm phật sự. Một đóa sen giơ cao, một nụ cười đáp lại. Trong yên lặng. Cõi đó, chân kinh?
*
Cõi đó, chân kinh. Tới được đó, đã có người. Trong số, người ta thường nhắc đến tên vị tổ thứ 28 dòng Thiền Tây Trúc là Bồ Đề Đạt Ma. Nhưng tại sao khi dời triền núi Hi Mã Lạp Sơn khi cập bến Quảng Châu, trong hành trang Người vẫn còn một bộ Lăng Già? Tôi nghĩ rằng vào lúc đó, có thể trong tận cùng tâm thức, đôi khi Người vẫn còn thấy gợn lên 108 lời tra vấn Đại Huệ và chỉ sau 9 năm diện bích nơi thâm sơn Thiếu Thất khi tuyên bố rằng kinh Lăng Già sau 500 năm, sẽ trở thành môn học danh tướng, chỉ tự đó, Người mới dứt khoát với kinh và kệ, Người mới thực sự bước vào cõi đó, chân kinh.
*
Lăng Già là tên một ngọn núi nằm giữa biển Nam, nơi vua Dạ Xoa thỉnh Đức Phật lên thuyết pháp. Núi đó cao vòi vọi nhìn xuống biển sâu, đá dựng thẳng như tường, trơn như mỡ, không có lối đi lên. Phải có phép thần thông, hoặc được Đức Phật sử dụng nội lực vô lượng giúp cho mới có thể tới được. Lời Phật nói pháp truyền xa, rộng và sâu, vọng ra tới vô lượng số cõi Phật, được ghi lại bằng Phạn tự gọi là kinh Lăng Già. Kinh này sau được thiền sư Câu Na Bát Đà La dịch ra chữ Hán và đến thế kỷ thứ 20 thì chuyển sang Việt ngữ. Tự lời tiên tri của Bồ Đề Đạt Ma khoảng tiền bán thế kỷ thứ 6 đến nay, nhiều lần 500 năm đã qua, tôi giật mình tự hỏi cái mà đức Thế Tôn muốn dạy tại đỉnh Lăng Già – cái đó – qua ba chặng đường chuyển ngữ từ Phạn qua Hán đến Việt, không biết có còn rớt lại chút nào trong những trang kinh tôi đọc đêm qua. Hay còn lại chỉ là ngôn từ, chỉ là danh tướng?
*
Nghe tin Bồ Đề Đạt Ma cập bến Quảng Châu, Lương Võ Đế vội thỉnh Người đến kinh đô. Vua hỏi:
– Trẫm chép kinh, xây chùa, độ tăng, đúc chuông, tạc tượng. Có công đức gì không?
Người vắn tắt:
– Không.
Vua lặng thinh một lát. Lại hỏi:
– Đối diện trẫm là ai vậy?
Người rằng:
– Không biết.
Cuộc đối thoại ngắn ngủi: hai lần khẳng định và hai lần phủ định. Có, không. Nhà vua cố chấp. Bồ Đề Đạt Ma động lòng đại bi, mở ra một đường phương tiện. Không. Không công đức. Không có Bồ Đề Đạt Ma. Không có Trẫm. Không có gì hết. Ngay cả cái không tôi vừa đề cập. Hãy hiểu rằng rốt ráo, không cũng lại là không.
Nối nghiệp Lương Võ Đế. Thái tử Chiêu Minh tiến thêm một bước vào sâu vết cũ. Giữa kinh đô, Chiêu Minh dựng một tòa lầu bằng đá gọi là Phân-Kinh-Thạch-Đài, để sưu tầm, tập trung, nghiên cứu, kiểm kê, giải thích, sắp xếp, tàng trữ kinh và kệ. Phật giáo nghiễm nhiên được coi như quốc giáo. Số người xuất gia trong nước tăng lên gấp bội. Kinh sách xếp trên kệ đá Phân kinh càng lúc càng nhiều. Mọi người đua nhau đi tìm kinh lạ. Những bậc trí thức hễ gặp nhau là lập tức thảo luận về thiền. Bán già, Kiết già, Kim cương tọa, Ma tọa, Kiết tường tọa, Tam muội ấn, là những danh từ cửa miệng mọi người. Không những Lăng Già mà hầu như tất cả kinh và kệ lần lần trở thành những môn học danh tướng. Nghĩa kinh phai nhạt. Ý kinh tuyệt mù. Còn lại, chỉ là một mớ ngôn ngữ tạm gọi là kinh và kệ giữa kinh đô, với ngày và tháng qua đi, một vài tảng đá xếp đống tạm gọi là Phân kinh thạch đài. Miệng Phật nín thinh. Đêm mạt pháp bắt đầu.
*
Bất giác mấy câu Duy Ma trở lại trong tôi. Có cõi lấy mộng lấy huyễn… Tôi mở cuốn kinh đọc tiếp, vừa đủ cho một mình nghe rõ. Từng chữ, từng câu. Có cõi lấy mộng, lấy huyễn, lấy vang, lấy bóng, lấy ảnh trong gương, lấy trăng dưới nước, lấy ánh nắng dợn ngoài trời để mà nói pháp. Tôi nhắc lại, như điệp khúc một bản tình ca, tôi nhắc lại ánh nắng dợn ngoài trời. Như một lời niệm Phật. Tôi tưởng đến nắng một chiều thuở đó, nắng dợn trên đá Phân kinh và nắng và đá -tại sao không- bỗng nhiên nói pháp. Với một người. Nguyễn Du.
*
Khoảng đầu thế kỷ 19, nhân một chuyến đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du có dịp đến thăm Phân kinh thạch đài. Bấy giờ – trên 1.000 năm đã qua – đá đài Phân kinh đã mòn. Rêu leo xanh mái, mưa cũ đọng chân tường, cỏ dại lấp lối đi, hoang vu hun hút hành lang vắng lặng. Trời ngả vào chiều. Nắng quái lung linh vách đá. Đâu rồi những vết kinh xưa. Lăng Già, Viên Giác, Bát Nhã, Kim Cương, Kim Cương… Ngã độc Kim Cương thiên biến linh.
Tôi nghe như vầy: một hôm tại nước Xá Vệ, Phật và 1.250 vị Đại tỳ kheo đều ở tịnh xá Kỳ Hoàn, trong vườn của thái tử Kỳ Đà và ông trưởng giả Cấp Cô Độc. Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng Tăng đều đắp y, mang bình bát vào thành Xá Vệ, theo thứ lớp khất thực. Khất thực xong, Phật và chúng tăng đồng về tịnh xá để thọ trai. Sau khi họ trai xong, Phật xếp y, cất bình bát và rửa chân, rồi trải tọa cụ, ngồi yên tịnh. Khi đó, ở trong đại chúng, ông trưởng lão Tu Bồ Đề đứng dậy, vén tay áo bên hữu, gối bên hữu quỳ xuống, chắp tay cung kính và bạch Phật rằng: – Hy hữu thay, đức Thế Tôn! Ngài thường nhớ nghĩ và bảo hộ các vị Bồ Tát. Ngài rất hay khéo dạy bảo các vị Bồ Tát. Bạch Thế Tôn, nếu có người phát tâm Bồ Đề muốn cầu quả Phật, thì:
Làm sao hàng phục vọng tâm?
Làm sao an trụ chân tâm?
Hàng phục vọng tâm, an trụ chân tâm, hai niềm thắc mắc không riêng của ông Tu Bồ Đề, mà của toàn thể đại chúng thuở đó, cuả chúng ta hôm nay, của Nguyễn Du, riêng Nguyễn Du một mình.
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
1.000 lần, hai niềm thắc mắc đó đặt ra. Và biết bao nhiêu lần nữa khi cuốn kinh gấp lại? Đôi khi, từ những ngôn từ tường-đồng-vách- sắt dựng lên trong kinh nghe cũng có vọng ra bên ngoài, lọt vào tâm thức Nguyễn Du một chút gì -như vậy, như vậy- tạm gọi là nghĩa của kinh. Nhưng nghĩa đó chắc đâu đã là ý của người nói kinh? Ý của đức Thế Tôn năm xưa đâu phải chỉ là như vậy, như vậy?
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Lần thứ 1.000 lẻ một, không có kinh. Chỉ có nắng chiều và đá tảng. Nắng dợn lên đá phân kinh. Và đá và nắng bỗng nhiên hội duyên nói pháp.
*
Thuở đó nơi đây sầm uất lạ thường. Mái lầu cong cánh hoa sen, tiền đình hậu tạ, muôn hồng ngàn tía cỏ lạ hoa thơm, hồ nhân tạo đặt tên là biển Nam Hải, hòn dã sơn mệnh danh là núi Tu Di. Bên trong, phòng ốc nguy nga lộng lẫy ngăn nắp từng khu, mỗi khu một tên, khu Lăng Già, khu Viên Giác, khu Pháp Hoa, khu Bát Nhã, kinh sách không thiếu một bộ, sử liệu ghi từng chi tiết từ đản sinh đức Thế Tôn đến ngày Người nhập Niết Bàn, từ ngày Người truyền y bát cho ông Ma Ha Ca Diếp, từng hành vi, từng lời kệ của từng vị tổ, hành trạng kéo dài tới ngày Bồ Đề Đạt Ma cập bến Quảng Châu.
Thuở đó, xa rồi. Chấm dứt. Giờ đây nắng tắt, đá mòn. Giờ đây chỉ còn một chút chập chờn.
Trong đêm nghe như đã bắt đầu, lời kinh âm u như vọng như chân, nghĩa kinh ẩn ẩn hiện hiện, ánh lửa chài le lói bên sông lạ, ý kinh tuyệt mù trong mộng và huyễn, là bọt nước mặt hồ trong cơn mưa ngâu, sương chiều đọng lại, giọt sương mai tan đi. Vừa kịp thấy đó, chớp mắt không còn, mới nghe vang lên đã chìm vào sâu lặng, hay rồi lại lãng đãng, nhạt nhòe, biết mà nói lên thì bất… khả thuyết. Thấy-nghe-hay-biết chỉ là chập chờn cánh con bướm trắng trên luống cải xanh. Hay chỉ là một niệm khởi lên chập chờn sương khói, Nguyễn Du đã lọt vào một khoảng mù khơi tịch tịnh?
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh
Bài Phân kinh thạch đài giữa lòng đá vắng lặng không là một thú nhận nỗi bất lực của riêng Nguyễn Du trước những trang Kim Cương.
Bài ký Phân kinh là một thú nhận nỗi bất lực của ngôn từ và văn tự con người khi muốn nắm bắt cái chập chờn “áo chỉ” của cõi vô ngôn đó, bất khả tư nghì.
*
Tôi gắng nhớ lại bài thơ, lõm bõm. Dừng lại ở hai câu:
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh
Khá lâu. Buâng khuâng nghĩ đến niềm khắc khoải của người xưa tầm đạo. Làm sao hàng phục vọng tâm? Làm sao an trụ chân tâm?
Kim Cương đọc đến ngàn lần
Mà trong mờ ảo như gần như xa
Như gần như xa nhưng vẫn ở đó, câu trả lời vẫn ở đó, tự thuở đó, nơi vườn Kỳ Thọ. Và bây giờ, vượt khỏi ngôn từ và văn tự, giữa Kim Lăng, vọng ra từ kẽ đá phân kinh, mờ mờ ảo ảo, như gần như xa, có mà không, không nhưng có, như mộng như ảo, như bọt nổi trên mặt nước, như chớp biển ngoài khơi, như bóng hình lãng đãng trong gương, như giọt sương đêm đọng lại, như giọt sương mai tan đi trên đầu ngọn cỏ, câu trả lời vẫn ở đó, câu trả lời đến thẳng với Nguyễn Du, trong hoang vu Phân kinh thạch đài.
Này Tu Bồ Đề. Hãy nghe lời đá, lời đá nói rằng:
Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
Như lộ, diệc, như điển
Ưng tác như thị quán
Tất cả, cái gì gọi lên cũng chỉ là tạm gọi. Ngay cả hai chữ Kim Cương. Như Lai nói Kim Cương tức không phải Kim Cương, thế mới gọi là Kim Cương.
*
Phật nói Kinh Kim Cương tại 4 nơi, 16 hội, trong khoảng 22 năm ròng. Lời Phật ghi lại dài tới 600 cuốn, chính danh là “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh”. Tóm tắt thành một cuốn gọi tắt là kinh Kim Cương. Cuốn này cô đọng lại còn 260 chữ mệnh danh là “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh” thường gọi là Tâm Kinh. 260 chữ Tâm Kinh dẫn đến câu thần chú – Yết đế yết đế Ba la yết đế Ba la tăng yết đế Bồ Đề tát bà ha – Và câu thần chú dẫn thẳng vào cõi vô ngôn. Cửa kinh Kim Cương khép kín. Không ai nói pháp Kim Cương. Không ai nghe pháp Kim Cương. Vọng tâm? Chân tâm? Đừng đặt vấn đề. Không có vọng, không có chân. Trong suốt ba đời, không có cả Tâm. Đã tới cõi đó, Ba La Mật Đa. Cõi đó, chân kinh. Cõi đó, im sựng. Như đá, tạm gọi là đá. Phật đâu có thuyết lời nào?
II
Tịnh Liên lão ông với Khoan tôi vốn là chỗ thâm giao, lại là móng vuốt trong chốn thiền môn, mê đọc kinh như lứa tuổi hai mươi mê đọc thư tình, gần đây vì thương cho sự hoang rậm của lòng người xa nước, nên đã dốc lòng đem tất cả cái sở đắc của mình mà viết lời sơ giải mấy bộ Đại Thừa. Viết đến đâu hoằng bá đến đó và đều đều gởi đến Khoan tôi, với lời răn nhủ rằng: Này ông Vũ Khắc Khoan ơi, ông phải bớt đàn đúm với bọn lãng tử để dành thì giờ mà tu tỉnh đọc kinh. Rằng:
– Này Vũ Khắc Khoan, ý ông thế nào? Giả sử có người đem 7 món báu chứa đầy cả đại thiên thế giới mà bố thí thì người đó có nhiều công đức hay không?
Tôi rằng:
– Thì nhiều.
Ông chỉ đợi có thế, tiếp ngay:
– Ấy thế mà còn thua một người chỉ thọ trì 4 câu kệ hay nhẩm thầm một đoạn kinh. Biết không?
Biết rồi… nhưng khốn một nỗi, Khoan tôi căn cơ thô lậu, tâm thức lại hay lưu luyến tiếng tơ tiếng trúc, cho nên chân tuy đĩnh đạc bước thẳng mà vẫn thấy tạt ngang vào nơi ca lâu tửu quán, giọng cất lên muốn bàn câu đạo lý vô tình vẫn họa cùng một điệu với tiếng cười hô hố của đám lãng tử sông hồ. Cũng do vậy mà bao nhiêu kinh sách bạn vàng gởi đến, thảy đều được trịnh trọng xếp lên giá sách, giữ gìn cẩn thận. Thế thôi. Nhưng ngại đọc. Thảng hoặc có miễn cưỡng mở ra thì cũng loáng thoáng mấy trang, cho đến khi khựng lại trước những danh từ dựng lên chất ngất.
Trước mặt, sau lưng, bên tả bên hữu, trên đầu. Như một hàng rào nhọn hoắt. Như một tấm lưới trùng trùng. Tôi choáng váng tìm định nghĩa. Tôi đặt vấn đề. Rút cuộc, cuốn kinh từ giá sách được mở ra trên bàn đọc, lại trở về nguyên vị chỗ cũ, trên giá sách. Miệng Phật lại nín thinh. Khoan tôi lại lầm lũi trở về cái thế giới chữ nghĩa cũ kỹ ngày xưa.
*
Bỗng một hôm tôi bắt gặp chính tôi ngẩn ngơ trước giá sách, đang lần dở mấy trang Lăng Nghiêm. Những trang đầu, những trang kể chuyện ông A Nan ngộ nạn. Chuyện như vầy:
Cách đây khoảng 2.500 năm, có người em họ đức Thế Tôn là ông A Nan, một sáng trước giờ thuyết pháp của đức Thế Tôn, mang bình bát và tâm bình đẳng đi vào từng thôn từng xóm, đến từng nhà để khất thực. Ông gặp một nữ tín đồ ngoại đạo tên là Ma Đăng Già. Người nữ này thấy ông bèn dùng huyễn thuật là thần chú của Ta Tỳ Ca La Tiên Phạm Thiên, hãm ông trong phòng rồi lấy lời dịu ngọt để dụ dỗ ông. A Nan ngộ nạn chấp tay niệm Phật, hướng về đức Thế Tôn cầu cứu. Lúc bấy giờ, Phật động tâm, không kịp thuyết pháp, lập tức trở về Tịnh xá, ngồi vào thế kiết già. Từ nơi đảnh của Phật vụt phóng ra hào quang trăm báu. Trong hào quang xuất hiện sen báu ngàn cánh. Trên hoa sen có đức Hoá Phật ngồi. Trên đảnh đức Hoá Phật lại phóng ra 10 đạo hào quang trăm báu.
Trong mỗi đạo hào quang đều có thị hiện vô số thần Kim Cương đứng khắp hư không. Lời thần chú Lăng Nghiêm lập tức vang lên. Đức Thế Tôn phái ông Văn Thù đem thần chú đó đi cứu nạn A Nan.
A Nan thoát nạn về đến chỗ Phật, cúi đầu kính lạy.
*
Tôi dở tiếp. Lời ông A Nan buồn tủi, ăn năn:
– Bạch đức Thế Tôn, con từ hồi nào đến giờ có lòng ỷ lại. Con thường tự nhủ rằng con là em Phật, được Phật thương yêu, chắc chắn Phật sẽ ban cho thần thông trí huệ đạo quả Bồ Đề nên chỉ lo học rộng nghe nhiều chẳng cần tu niệm. Không ngờ ai tu nấy chứng, mặc dầu con là em Phật, nếu không tu thì cũng bị đọa như ai, chẳng hàng phục được ngoại đạo mà còn bị cái nạn Ma Đăng Già… Cúi xin đức Thế Tôn mở cho con đường phương tiện.
Lời Phật ân cần giảng giải, trong khi quở trách vẫn thương hại vỗ về. Rằng hỡi A Nan, ông tuy là người được tiếng học rộng nghe nhiều nhưng thật tình ông không hiểu chi cả. Và rằng người đời khen ông là bậc đa văn nhưng nếu ông chỉ chứa chất cái học suông và nghe suông đó mà không tu thì dầu ông có nhớ hết nghĩa lý nhiệm màu của 12 bộ kinh, 10 phương chư Phật, nhiều như số cát sông Hằng, cái nhớ đó cũng chẳng lợi chi cho ông cả. Và rồi ra, ông lại sẽ lâm vào những tai nạn khác, tương tự như cái nạn Ma Đăng Già mà thôi.
Lời ông Văn Thù là lời một vị trưởng tràng. Chính ông đã được đức Thế Tôn giao cho phép màu thần chú đi cứu A Nan, lời ông răn dạy nghe có nghiêm nghị, hơn cả lời Phật. Ông rằng: A Nan, tôi đã vâng oai thần của Phật đem thần chú Lăng Nghiêm đến cứu nạn cho ông. Ông vẫn là người được tiếng thấy xa, nghe rộng, hay nhiều, biết lắm. Nhưng ông lười nhác. Ông không có tu. Ông chạy theo cái vọng phân biệt, nên ông dễ bị đọa lạc theo tà. Này ông A Nan, toàn thể cái thấy-nghe-hay-biết của ông đều là hư huyễn. Nếu ông biết đem cái thấy-nghe-hay-biết đó xoay trở lại chính cái chân tánh của mình thì cái trí quang của ông lại hiện ra sáng láng, chân tâm của ông trở lại tịch tịnh, ông sẽ thấy ba cõi sum-la vạn-tượng đều như hoa đốm giữa hư không, tất cả các pháp hiện tiền như việc chiêm bao. Nàng Ma Đăng Già sẽ cũng chỉ là một chúng sinh trong cõi mộng, nàng làm gì nổi ông?
Cuốn Lăng Nghiêm gấp lại, hình ảnh A Nan dấy lên từ lời kinh vẫn còn thấp thoáng trong tôi. Tôi nghĩ đến câu chuyện Ma Đăng Già. Tôi thương ông A Nan bị quở. Tôi không nghĩ sâu vào căn cơ nghiệp dĩ A Nan, tôi chỉ buâng khuâng quanh tâm trạng người em con chú con bác đó của đức Thế Tôn phát tâm xuất gia chỉ vì một nguyên nhân rất giản dị, rất “người”. Đức Thế Tôn rằng:
– Trong giáo pháp của ta, ông ngưỡng mộ cái gì mà phát tâm xuất gia?
Ông A Nan rất hồn nhiên:
– Vì thấy Phật có 32 tướng tốt đẹp lạ thường nên con sinh lòng hâm mộ mà phát tâm xuất gia.
Đêm hôm đó, quá nửa khuya tôi vẫn còn thức. Tôi nghe từng đợt gió ngoài trời vật cành du xuống mái hiên, cuốn Lăng Nghiêm tuy gấp kín nhưng đã từ giá sách tôi vào phòng ngủ, đặt cạnh đầu giường.
Vài ngày sau, tôi gặp lại ông A Nan cầm bát đi xin sữa cho đức Thế Tôn đang mắc bệnh. Tôi dõi theo mấy lời đối thoại giữa ông A Nan và ông Duy Ma Cật.
– Ê A Nan! Làm gì mà mang bát đứng đây sớm thế?
– Đức Thế Tôn hơi có bệnh phải dùng sữa bò, nên tôi đến đây xin sữa.
-Thôi, thôi A Nan. Đừng để cho hàng ngoại đạo nghe thấy những lời phỉ báng đó. Họ sẽ cười vào mặt chúng ta. Họ sẽ rêu rao khắp nơi chốn rằng thế mà cũng đòi làm thầy, bệnh của mình không cứu nổi, lại còn chữa bệnh cho thiên hạ! Ông A Nan ơi, ông nên biết rằng thân Như Lai là thân kim cương, mọi ác đã dứt, toàn thể là lành, còn có bệnh gì, còn phiền não gì? Hãy im lặng mà đi khỏi nơi đây, A Nan!
Ông Duy Ma Cật nói như vậy, ông A Nan còn biết trả lời làm sao? Ông vừa thẹn vừa tủi nhưng vẫn đứng chờ xin sữa. Tất nhiên ông thừa hiểu rằng thị hiện ở cõi Ta Bà đủ 5 món trược đức Thế Tôn phải ứng ra việc bệnh để độ thoát chúng sinh. Nhưng… nói… để làm gì?
Tôi dõi theo hút A Nan. Tôi thấy ông sững sờ giữa pháp hội Am La.
– Bạch đức Thế Tôn, sao nơi đây bỗng nhiên rộng rãi trang nghiêm, bỗng nhiên rực ánh vàng ròng, bỗng nhiên thơm ngát, con chưa từng thấy?
– Bạch đức Thế Tôn, thế ra có thể lấy mùi hương để nói pháp sao?
Pháp hội Am La chấm dứt, tôi vẫn nhìn theo vết chân A Nan đi vào vô lượng ảo hóa của vô lượng cõi pháp, từ pháp hội A Di Đà đến pháp hội Vô Lượng Nghĩa, pháp hội Dược Sư, pháp hội Pháp Hoa…Tôi biết ông đã có mặt giữa phút lâm chung của ông trưởng giả Cấp Cô Độc để nói pháp. Ông trưởng giả này nghe pháp và đã an nhiên nhắm mắt đi vào cõi trời Đâu xuất. Dấu tích cuối cùng A Nan để lại là cuộc đối thoại ngắn ngủi giữa ông và ông Ma Ha Ca Diếp, vị tổ thứ nhất dòng Thiền Thiên Trúc. Ông rằng:
– Ngoài việc truyền y bát, đức Thế Tôn có truyền riêng cho ông pháp gì nữa không?
Tổ Ca Diếp nhìn A Nan trong giây lát, bỗng quát lên:
– A Nan!
– Dạ.
– Cây phướn trước cổng chùa đổ kìa!
A Nan giật mình, tỏ ngộ thiên cơ, được tổ Ca Diếp truyền y bát và ấn chứng cho vào vị tổ thứ nhì. Hành trạng A Nan, với tôi, thế là chấm dứt. Nhưng tôi vẫn ngẩn ngơ. Cuốn Duy Ma Cật, Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa, Pháp Hoa, Dược Sư… lần lượt rời giá sách đi vào đời sống giữa khuya của tôi. Và một đêm, gió tắt, tôi quyết định đi vào pháp hội Lăng Nghiêm một mình.
*
Phật dạy tánh của nguyên sơ vốn tịch tịnh, như một niệm khởi lên, lời kinh đan kết như nhện giăng tơ, biển tâm dạt dào nổi gió, mây thức ùn ùn kéo đến như khói sóng cửa thần phù, nghĩa kinh lập tức bày ra chân vọng. Đi vào pháp hội Lăng Nghiêm, tôi nghe choáng váng như bất thần bị vây trong một thế trận mê hồn 10 phương lạ hoắc, 2 cửa tử sinh lạc hướng, lạc hướng cả 7 nẻo đuổi bắt cái Tâm. Trong thân, ngoài thân, ngay trong con mắt, hay ngay chính giữa? Tâm do chỗ hòa hiệp mà thành, do suy nghĩ phân biệt mà ra, do tự nhiên mà có, do nhân duyên mà sinh?
Tâm là gì? Tâm do đâu mà hiện hữu? Tâm ở đâu? Nhạn đã bay qua. Tả, hữu, ngược, xuôi: vắng lặng. Một ánh trăng suông, và bát ngát, một niềm mang mang tịch tịnh.
– Lạy Tổ, con không tìm thấy Tâm.
Tôi gấp lại cuốn Lăng Nghiêm. Nghĩ rằng vậy thì không có gì cả và nhớ đến một lời của lão ông Tịnh Liên:
“Tôi tự biết mình phiền não chất ngất, vô minh dày đặc và đối với ngưỡng cửa những cơn tam muội nhỏ nhoi vẫn lảng vảng đứng xa hàng ngàn dặm. Chỉ được cái hạnh ngộ không biết do một chút căn lành nào lay lắt rớt lại từ kiếp nào, nên thích đọc kinh, đôi khi say mê đọc kinh, và thường hay mơ màng hàng giờ trên những trang kinh xưa…”
Bất giác thấy mình cũng buâng khuâng mơ màng, như lão ông Tịnh Liên.
III
Cuối thu 1985.
Nhìn ra đầu ngõ bắt gặp ánh nắng vàng rực lá cây phong, giật mình nghĩ rằng thế là mùa thu đã qua, đang tàn, rằng tuyết lại sắp tới. Mấy trang viết bỏ dở từ cuối mùa tuyết năm ngoái, bút khởi đi từ “mây mùa thu” và “khói trong lò” ngưng lại nửa vời nơi pháp hội Lăng Nghiêm. Từ đó nhẫn nay, trong tôi dấy lên nhiều vọng tưởng và cũng đã nhiều vọng tưởng bay đi, đã tuyệt mù. Đã tuyệt mù những cõi pháp năm xưa, nghi nghi hoặc hoặc. Nietzsche, Dostoievski, Sartre, Singer lần lượt rút về giá sách. Đầu giường chỉ còn lại kinh và kệ. Nhưng đêm đêm trước những pháp hội mở ra, Khoan tôi vẫn mang tâm trạng một người ngoại cuộc. Thường vẫn lặng thinh, để mặc cho dòng vọng tưởng theo lời kinh dấy lên lôi cuốn, ngây ngây dại dại rõi theo cái trùng trùng đan kết những hình tướng dâng lên muôn hình vạn dạng biến hóa. Đôi khi lời kinh dẫn tôi trở về ngày cũ. Bất giác tôi gặp lại…cái tâm hồn ấu thơ thuở nhỏ, trốn học, “phiêu lưu” dọc 36 phố phường Hà Nội, mỗi hẻm nhỏ là một thế giới riêng tư, mỗi lùm cây là một cõi trời đặc biệt. Những giây phút đó, lâng lâng lời kinh dời hẳn nghĩa kinh, lời kinh kể chuyện cổ tích, rủ tôi đi vào một cơn mộng du hoang vu thăm thẳm, tròng mắt ruổi bắt bạt ngàn thấp thoáng muôn hồng ngàn tía màu sắc cầu vồng loang loáng bong bóng giọt mưa Ngâu, từ những đám mây trời Bắc Việt rơi xuống, từ một nền gạch Bát Tràng dấy lên – ôi, cái ướt át lành lạnh gấu quần thấm nước và chiếc lá bàng đỏ kệch lắt lay đầu ngõ heo hút gió tây – màu sắc chân-kim mây trời Tha-Hoá-Tự-Tại, màu sắc xích-châu mây trời Hoa-Lạc, mây trời Đâu-Xuất màu sương tuyết, mây trời Da-Ma màu lưu ly, mây trời Đao-Lợi màu mã não, mây trời Tứ-Chiều-Vương trong suốt pha lê.
Và tự đó, từ những hình và sắc mây trời vần vụ, bay lên, những mùi hương lạ, những mùi hương đi không chỗ tới, đến không chỗ bắt đầu. Và một mùi hương đặc biệt, mùi hương như một phương tiện nói pháp, mùi hương cõi đó, nước Chúng Hương. Và bất giác tôi như bị hút vào một khoảng không bát ngát 42 số cát sông Hằng cõi Phật. Và những con đường, những dòng sông, những cánh buồm, những cánh chim bay, vô lượng cõi pháp nơi thị hiện vi trần số chư Phật. Từ mênh mông cực đại đến thăm thẳm cực vi, cực đại tùy niệm biến thành cực vi, cực vi biến thành cực đại, a tăng kỳ kiếp tùy niệm thu lại thành một sát na, một sát na tùy niệm trở thành a tăng kỳ kiếp, lời kinh loang ra như một chất men, tôi choáng váng giữa một mê cung dạt dào vọng tưởng, lẫn lộn cả cực đại, cực vi, hiện tại, tương lai và quá khứ.
Đâu là mê, nẻo nào là ngộ?
*
Cứ như vậy, đêm đêm, Pháp hội mở ra – Lăng Nghiêm hay Pháp Hoa, Hoa Nghiêm hoặc Viên Giác, Lăng Già – lời pháp với tôi không nói vọng nói chân, không bàn mê hay ngộ, không nói Thiên đường và Địa ngục, không nói cả Niết bàn. Lời pháp chỉ rủ rỉ kể chuyện ngày xưa, hát nhỏ ca dao, lời pháp ấm như lời bà ngoại ru cháu nhỏ. Tôi thấy cuốn Lăng Già nặng trĩu trên tay, 108 thắc mắc Đại Huệ quay cuồng trong tôi, để trở thành 18 vị La Hán Thiếu Lâm Tự và cho đến khi 18 vị La Hán biến dạng, phương trượng chùa Thiếu Thất bước ra, nội lực phồng tay áo cà sa, vết chân in hằn trên thềm đá tảng, cho đến khi 18 vị La Hán lùi bước trước 108 tên lãng tử sông hồ Lương Sơn Bạc, thì lời pháp mờ dần, lời pháp mất hút, tuyệt mù.
*
Lời ru cháu lẫn vào tiếng gà gáy lẻ ngoài vườn. Bà lim dim cặp mắt, cháu ngủ đã từ lâu. Cả bà lẫn cháu và lời ru, cả 3 nhập một. Tôi lặng lẽ dìu tôi đi vào một cõi, mới dấy lên. Cõi đó, lạ lạ, quen quen. Cõi đó hằng đêm. Cõi đó, riêng tôi. Một mình.
IV
1986.
Lâng lâng trong mù sương nơi ngưỡng cửa pháp hội. Một mình.
Minnesota, tháng 7 – 1986.
Nguồn: So sánh ba văn bản:
Đọc kinh, An Tiêm, Paris, 1989
Đọc Kinh, An Tiêm, Paris, Hoa Kỳ, 1990
Vũ Khắc Khoan, Đoản văn xa nước, An Tiêm, Paris, Hoa Kỳ, 1995
Nguồn bản điện tử:
http://thuykhue.free.fr/stt/v/VKK-DocKinh.html